Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

cơ chế kế hoạch hoá tập trung thời kì đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.31 KB, 18 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đề tài:
Cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước thời kỳ đổi mới của Việt Nam
Nhóm 3
Lớp:

Đường lối cách mạng của ĐCSVN_01

Giảng viên: Nguyễn Thị Thắm

Hà Nội, tháng 5 năm 2021


Nhóm 3
Đề tài: Cơ chế kế hoạch hố tập trung trước thời kỳ đổi mới của
Việt Nam
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10



HỌ VÀ TÊN
Lê Cao Dương
Nguyễn Thế Dương
Nguyễn Thành Đô
Ngô Anh Đức
Nguyễn Minh Đức
Nguyễn Minh Đức
Mai Thu Giang
Nguyễn Thị Hương
Giang
Phan Hoàng Giang
Đỗ Thanh Hải

MSV
11171034
11181117
11180956
11180987
11170889
11177095
11171164
11181252

NHIỆM VỤ
Phần 1.2, 2.1.1
Thuyết trình
Phần 2.1
Phần 2.2
Làm slide

Khơng tham gia
Phần 3.1, 3.2
Thuyết trình

11161249
11171382

Thuyết trình
Lập dàn bài, bổ sung
phần cịn thiếu, tổng hợp
bản word

ĐÁNH GIÁ



LỜI MỞ ĐẦU
Năm 1954 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta thắng lợi,
Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được ký kết, đất nước ta tạm thời bị chia cắt
thành 2 miền Nam – Bắc. Miền Bắc nước ta hồn tàn được giải phóng và tiến bước
lên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, lúc này định hướng của Đảng và Nhà
nước ta đối với việc xây dựng và phát triển kinh tế là xây dựng mơ hình kinh tế kế
hoạch hố tập trung dưới sự quản lý của nhà nước để tập trung sức người và sức của
làm hậu phương vững chắc cho chiến trường ở miền Nam.
Năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta hoàn toàn
thắng lợi với chiến dịch Hồ Chí Minh 30/04/1975. Lúc này đất nước hồn toàn
thống nhất cả nước bước vào thời kỳ xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội. Tuy
nhiên, do chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh gây ra nên Đảng và Nhà nước ta đã
xác định nhiệm vụ lúc này là xây dựng và phát triển kinh tế đất nước vẫ theo mơ
hình kế hoạch hố tập trung. Cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung ở nước

ta được duy trì cho đến năm 1985.
Cơ chế kế hoạch hố tập trung có những ưu điểm thích hợp cho hồn cảnh
hiện tại của đất nước lúc đó, song cũng có nhiều hạn chế kìm hãm sự phát triển của
đất nước.

4


CHƯƠNG I: CƠ CHẾ KẾ HOẠCH HOÁ TẬP TRUNG
QUAN LIÊU, BAO CẤP
1.1.

Cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp

1.1.1. Khái niệm
Cơ chế kế hoạch hoá tập trung là cơ chế trong đó nền kinh tế vận động dưới
sự kiểm soát của Nhà nước về các yếu tố sản xuất cũng như phân phối về thu nhập.
Nhà nước can thiệp sâu vào các hoạt động của nền kinh tế, không tuân theo quy luật
thị trường.
1.1.2. Đặc điểm
Thứ nhất, Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính
dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh
nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và
các chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Tất cả phương hướng sản xuất, nguồn vật tư, tiền
vốn, định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền lương... đều do các cấp có
thẩm quyền quyết định. Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch, cấp phát vốn, vật tư cho
doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho Nhà nước. Lỗ thì Nhà nước bù,
lãi thì Nhà nước thu.
Thứ hai, các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất,
kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất

và pháp lý đối với các quyết định của mình. Những thiệt hại vật chất do các quyết
định khơng đúng gây ra thì ngân sách nhà nước phải gánh chịu. Các doanh nghiệp
khơng có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, cũng không bị ràng buộc trách nhiệm
đối với kết quả sản xuất, kinh doanh.
Thứ ba, quan hệ hàng hoá-tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện
vật là chủ yếu. Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ “cấp phát-giao nộp”. Vì
vậy, rất nhiều hàng hố quan trọng như sức lao động, phát minh sáng chế, tư liệu
sản xuất quan trọng khơng được coi là hàng hố về mặt pháp lý.

5


Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém năng động,
vừa sinh ra đội ngũ quản lý kém năng lức, phong cách cửa quyền, quan liêu nhưng
lại được hưởng quyền lợi cao hơn người lao động.
1.1.3. Các hình thức bao cấp
Bao cấp qua giá: Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng
hoá thấp hơn nhiều lần so với giá trị thực của chúng trên thị trường. Do đó, hạch
tốn kinh tế chỉ là hình thức
Bao cấp qua chế độ tem phiếu: Nhà nước quy định chế độ phân phối vật
phẩm tiêu dùng cho cán bộ, công nhân viên theo định mức qua hình thức tem phiếu.
Chế độ tem phiếu với mức giá khác xa so với thị trường đã biến chế độ tiền lương
thành lương hiện vật, thủ tiêu động lực kích thích người lao động và phá vỡ nguyên
tắc phân phối theo lao động.
Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn: theo ngân sách ngân sách Nhà nước,
nhưng không có chế tài ràng buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp
vốn. Điều đó vừa làm tăng gánh nặng đối với ngân sách, vừa làm cho việc sử dụng
vốn kém hiệu quả, nảy sinh cơ chế “xin-cho”.
1.2.


Ưu điểm và hạn chế của chế độ kế hoạch hố tập trung

1.2.1. Ưu điểm
Trong thời kỳ kinh tế cịn tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng (Đặc biệt
trong hoàn cảnh đất nước lâm vào thời kỳ chiến tranh khốc liệt) thì cơ chế quản lý
kinh tế kế hoạch hóa tập trung có những ưu điểm nhất định như:
Cho phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế vào các mục tiêu chủ yếu
trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể, đặc biệt trong q trình cơng nghiệp hóa
theo hướng ưu tiên phát cơng nghiệp nặng.
Trong hồn cảnh đất nước có chiến tranh, cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch
hóa tập trung đã đáp ứng được những yêu cầu cơ bản của thời chiến, bởi vì khi đất
nước bị các nước Đế Quốc, Thực dân xâm lược thì mục tiêu hàng đầu của cả nước
chính là giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc bởi vậy việc thực hiện kế hoạch
hóa tập trung sẽ huy động được tối đa sức lực của nhân dân vào việc xây dựng và
6


phát triển kinh tế để thực hiện mục tiêu đó, đây là nhiệm vụ chung của tất cả mọi
người chứ không chỉ của riêng ai.
Nhà nước thực hiện bao cấp hoàn toàn, giúp cho chiến sỹ ra chiến trường
cũng yên tâm phục vụ chiến đấu hơn, bởi họ không phải lo nghĩ đến chuyện gia
đình, vợ con ở nhà vì mọi thứ đã được bao cấp.
1.2.2. Hạn chế
Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng hóa thấp hơn giá trị
thực của chúng nhiều lần so với giá thị trường. Do đó, hạch tốn kinh tế chỉ là hình
thức.
Nhà nước quy định chế độ phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cán bộ, công
nhân viên, công nhân theo định mức qua hình thức tem phiếu. Chế độ tem phiếu
khác xa so với giá thị trường đã biến chế độ tiền lương thành lương hiện vật, thủ
tiêu động lực kích thích người lao động và phá vỡ nguyên tắc phân phối lao động.

Triệt tiêu động lực kinh tế đối với người lao động khơng kích thích tính năng động,
sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh.
Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách nhưng khơng có chế tài ràng
buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn. Điều đó vừa làm tăng
gánh nặng đối với ngân sách vừa làm cho sử dụng vốn kém hiệu quả, nảy sinh cơ
chế “xin – chế”.
Cơ chế kế hoạch hoá tập trung làm cho cán bộ công chức của các cơ quan
hành chính trở nên quan liêu, lộng quyền, hách dịch.
Thủ tiêu sự cạnh tranh, kìm hãm sự phát triển của tiến bộ khoa học - cơng
nghệ, khơng kích thích tính năng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh.
Nhận xét: Khi nền kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát triển theo
chiều sâu dựa trên cơ sở áp dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học –
cơng nghệ hiện đại thì cơ chế quản lý này càng bộc lộ những khuyết điểm của nó,
làm cho kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, trong đó có nước ta, lâm vào
tình trạng trì trệ, khủng hoảng.

7


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CƠ CHẾ KẾ HOẠCH
HOÁ TẬP TRUNG NƯỚC TA GIAI ĐOẠN 1960-1985
2.1.

Kinh tế
Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chiến thắng, miền Bắc hoàn toàn

giải phóng, bắt đầu cơng cuộc xây dựng CNXH và con đường cách mạng CNXH cơ
bản được hình thành. Năm 1960, sau cải cách CNXH, nước ta áp dụng mơ hình kế
hoạch hóa tập trung cho cơ chế quản lý kinh tế theo quan niệm lúc bấy giờ.
Trong đầu những năm 1960 áp dụng cơ chế này ở miền Bắc, tuy kết quả đạt

được thấp hơn so với yêu cầu đề ra nhưng cơ bản đã khôi phục được nền kinh tế,
hàn gắn vết thương chiến tranh, ổn định sản xuất và đời sống.
Trong giai đoạn chuyển hướng xây dựng kinh tế (1965 – 1975), với sự chống
phá quyết liệt của đế quốc Mỹ, công cuộc xây dựng CNXH vẫn được tiến hành. Chế
độ XHCN ở miền Bắc lúc đó đã vượt qua được nhiều thử thách nghiêm trọng và
ngày càng phát huy tính ưu việt trong thời kì chiến tranh.
2.1.1. Nông nghiệp
a) Giai đoạn 1960-1965
Khoảng 76,6% các hợp tác xã được đưa lên bậc cao và hợp nhất các hợp tác
xã quy mơ lớn hơn, tổng thu bình qn trên một ha canh tác tăng 43,7%, cuối năm
1965 có 162 xã gần 700 hợp tác xã đạt và vượt năng suất 5 tấn thóc trên 1 ha cả
năm, lương thực bình quân đầu người đạt 15kg/ tháng; đời sống xã viên có tăng, thu
nhập của người lao độn từ kinh tế tập thể tăng khá, thu nhập bình quân của nông
dân tăng 24%.
Cơ sở vật chất – kỹ thuật trong nông nghiệp tăng đáng kể: vốn đầu tư xây
dựng cơ bản tăng 4,9 lần, điện cấp tăng 9 lần, số máy kéo tiêu chuẩn tăng 11 lần so
với thời kì 1958 – 1960, vốn vình quân cho 1 ha canh tác tăng 2,1 lần, hệ thống các
cơng trình thủy lợi, sửa chữa cơ khí, sân phơi, chuồng trại … của hợp tác xã liên tục
tăng.
b) Giai đoạn 1965-1975
8


Cơ sở vật chất kỹ thuật trong nông nghiệp được - tăng cường, có sự thay đổi
cơ cấu cây trồng, vụ đông xuân được mở rộng. Công cuộc tập thể hóa vẫn được tiếp
tục, quy mơ hợp tác xã được mở rộng. Trong chiến tranh ác liệt, lực lượng lao động
trẻ khỏe được động viên ra tuyền tuyến, nhiều vùng phải bỏ hoang nhưng nơng
nghiệp được duy trì như trên thì hợp tác xã đóng một vai trị khơng nhỏ.
c) Giai đoạn 1975-1985
Thời kỳ này, Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành

chính dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh
nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và
các chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Tổng sản phẩm trong nước bình quân mỗi năm
trong giai đoạn 1977-1985 tăng 4,65%, trong đó: nơng, lâm nghiệp tăng
4,49%/năm. Nơng, lâm nghiệp là ngành kinh tế quan trọng (chiếm 38,92% GDP
trong giai đoạn này), nhưng chủ yếu dựa vào độc canh trồng lúa nước.
2.1.2. Công nghiệp
a) Giai đoạn 1960-1965
Phát triển công nghiệp có những thành tích đáng chú ý là cơng nghiệp quốc
doanh phát triển mạnh mẽ và được đánh giá là phát huy tác dụng là lực lượng lãnh
đạo nền kinh tế quốc dân phát triển có kế hoạch. Đầu năm 1965 có 1045 xí nghiệp,
trong đó có 250 xí nghiệp lớn do Trung ương quản lí. Một số cơ sở đầu tiên, quan
trọng, quy mô tương đối lớn, kỹ thuật hiện đại thuộc các ngành cơng nghiệp nặng
như cơ khí luyện kim, hóa chất được xây dựng và đi vào sản xuất. Ngành công
nghiệp nhẹ phát triển khá nhanh, mạng lưới công nghiệp địa phương phát triển khá.
Năm 1965, miền Bắc đảm bảo được 90% về mặt hàng tiêu dùng và một phần tư liệu
sản xuất.
b) Giai đoạn 1965-1975
Sản xuất cơng nghiệp gặp nhiều khó khăn. Giá trị - sản lượng công nghiệp
một số năm bị giảm sút, tốc độ phát triển bình qn của sản xuất cơng nghiệp thời
kì 1966-1975 là 3,9%. Mạng lưới công nghiệp địa phương được hình thành. Tuy bị
9


đánh phá ác liệt nhưng giao thông vận tải vẫn được đảm bảo thông suốt, việc đào
tạo cán bộ khoa học kỹ thuật tăng khá nhanh. Giá trị tài sản cố định trong khu vực
sản xuất tăng nhiều.
c) Giai đoạn 1975-1985
Mặc dù có những tiến bộ, nhất là trong thời kỳ 1980-1985, nhưng nhìn
chung, cơng nghiệp Việt Nam hãy cịn nhỏ bé. Năm 1985, ngành công nghiệp mới

chiếm 10,7% tổng số lao động xã hội, và chủ yếu là lao động thủ công với năng suất
thấp. Tuy chiếm khoảng 40% giá trị tài sản cố định của cả nền kinh tế quốc dân,
nhưng công nghiệp chỉ tạo ra chưa tới 30% thu nhập quốc dân, hiệu quả trên đồng
vốn đầu tư cịn rất thấp. Cơng nghiệp chưa đáp ứng u cầu trong nước về trang
thiết bị hiện đại hoá cho nền kinh tế và các hàng hoá tiêu dùng thiết yếu cho nhân
dân. Tuy đầu tư của Nhà nước cho công nghiệp rất lớn và không ngừng tăng lên qua
các năm, số lượng xí nghiệp cơng nghiệp cũng tăng nhanh, nhưng sản xuất công
nghiệp và giá trị sản lượng lại tăng chậm.
2.1.3. Thương nghiệp
a) Giai đoạn 1960-1965
Thương nghiệp quốc doanh đã có sự phát triển rất nhanh chóng, tổng trị giá
hàng hóa mua vào trong 5 năm (1955-1960) tăng lên 6,3 lần, tổng mức lưu chuyển
bán lẻ năm 1960 so với năm 1955 tăng hơn 6 lần. Hàng nghìn cửa hàng bán buôn,
bán lẻ, thu mua và phục vụ ăn uống, dịch vụ ra đời, tạo nên mạng lưới kinh doanh
thương nghiệp trải khắp các thành phố, tỉnh, huyện và thị trấn. Năm 1955 mới có
511 cửa hàng thì đến 1960 đã có 1.987 cửa hàng…
Trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, ngành Thương mại đã có những đóng
góp xứng đáng: So với năm 1960 thì năm 1965, xuất khẩu tăng 27,9%; nhập khẩu
tăng 103,6%; vật tư kỹ thuật cung ứng cho sản xuất, xây dựng và quốc phòng tăng
79%, trong đó xăng dầu tăng 85,4%. Qua việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ và thiết bị
lẻ, miền Bắc đã cải tạo và xây dựng mới nhiều cơng trình quan trọng thuộc các
ngành Năng lượng, Chế tạo máy, Hóa chất, Khai khoáng,… Sự giúp đỡ của các
nước anh em, bầu bạn lúc đó trong việc cung cấp các hàng hóa nhập khẩu đã góp

10


phần có ý nghĩa quyết định vào việc thực hiện kế hoạch 5 năm (1961-1965). Tính
đến năm 1964, ta đã có quan hệ bn bán với 40 nước trên thế giới.
Về lưu thơng hàng hóa trong nước, tổng mức bán lẻ hàng hóa xã hội tăng

51,2%, trong đó lương thực tăng 46%, vải các loại tăng 51%. Khối lượng sản phẩm
của các ngành sản xuất đã được ngành Thương mại tiêu thụ trên thị trường trong
nước tăng 57,4%, phần quốc dân sáng tạo trong ngành thương nghiệp nội địa tăng
23,2% và chiếm 18% thu nhập quốc dân. Thương nghiệp nội địa đã bảo đảm được
75 - 76% nhu cầu mua sắm của gia đình cơng nhân viên chức. Giá cả hàng hóa trên
thị trường thời kỳ này tương đối ổn định.
b) Giai đoạn 1965-1975
Thương nghiệp quốc doanh được nhà nước quan tâm và có sự phát triển
nhanh chóng, làm nhiệm vụ hậu cần cho sản xuất và chiến đấu. Tổng mức bán lẻ
hàng hóa xã hội năm 1975 đạt 5.358,3 triệu đồng, gấp 7,8 lần năm 1955. Chỉ số giá
bán lẻ giai đoạn 1955 -1975 mỗi năm tăng 4,3%, thấp hơn nhiều so với mức tăng
66% của thời kỳ 1945-1954.
c) Giai đoạn 1975-1985
Thương nghiệp quốc doanh phát triển nhanh chóng, hợp tác xã tuy ở thời kỳ
đầu xây dựng, nhưng đã có những bước vươn lên chiếm lĩnh thị trường, nhờ đó hạn
chế được nạn đầu cơ, tích trữ và tình trạng hỗn loạn về giá cả. Tổng mức bán lẻ
hàng hóa xã hội bình qn thời kỳ này tăng 61,6%/năm.
2.2.

Văn hoá, xã hội, giáo dục và y tế

2.2.1. Văn hố
Hoạt động văn hóa được kiểm sốt nghiêm ngặt trong thời bao cấp, người
dân ít được tiếp xúc với văn hóa phương Tây. Các mảng về phim, văn học hay
nhạc… đều được nhà nước kiểm duyệt trước khi phát hành. Văn học nước ngồi
chủ yếu của Liên Xơ và khối Đông Âu, theo xu hướng hiện thực xã hội chủ nghĩa.
Văn học lãng mạn bị xem là tiêu cực ở giai đoạn này.

11



Thời đó, chưa có phim truyền hình mà chỉ có phim truyện nhựa, phim tài
liệu. Phim được chiếu tại các rạp chiếu bóng lưu động, rạp chiếu bóng hay phát trên
truyền hình trung ương. Ngồi ra cịn có phim thương mại nhưng hiếm. Các phim
nước ngồi là phim Liên Xơ và các nước xã hội chủ nghĩa. Một số ít là phim Mỹ,
Pháp, Anh và Ấn Độ…
Việc chống mê tín dị đoan được đề cao, khoa học thường thức được phổ biến
tới người dân mọi lứa tuổi qua sách báo. Báo chí được nhà nước bao cấp, khơng có
quảng cáo. Các văn nghệ sĩ được nhà nước trả lương giống công chức hoạt động
trong các cơ quan nhà nước.
2.2.2. Xã hội
Vào thời bao cấp, xã hội Việt Nam gần như khơng giao lưu với phương Tây
vì tư tưởng và vấn đề an ninh. Xã hội ít có sự phân hóa giàu nghèo như hiện nay
nhưng mức sống của người dân thấp. Tất cả sinh viên ra trường đều được nhà nước
phân công công việc nên không lo thất nghiệp nhưng khơng được tự chọn cơ quan
làm việc cho mình. Thi đậu đại học thời đó rất khó, ngồi học lực, tiêu chuẩn cao và
xét cả lý lịch. Xã hội có tính cộng đồng cao, sống có người làng nghĩa xóm thân
thiết, tối lửa tắt đèn có nhau. Đời sống tinh thần khơng có nhiều loại hình giải trí,
cuộc sống bình an nhưng nghèo nàn, khó khăn.
2.2.3. Giáo dục
Trong lĩnh vực giáo dục, giáo dục được phổ thông đại trà tới các xã phường
với trường cấp 1,2 và mẫu giáo. Công tác bổ túc văn hóa, xóa mù chữ trong độ tuổi
đi học cho người dân được đẩy mạnh. Có trường bổ túc văn hóa cho cán bộ cơ sở.
Hoạt động giáo dục đạt được những thành tựu lớn. Số người đi học năm
1975 đạt 6.796,9 nghìn người, gấp 5,3 lần năm 1955. Năm 1975, thu nhập bình
quân đầu người một tháng của gia đình cơng nhân viên chức ở miền Bắc là 27,6
đồng (tăng 57,7% so với năm 1945); thu nhập bình quân đầu người một tháng của
gia đình xã viên hợp tác xã nông nghiệp ở miền Bắc là 18,6 đồng (gấp 2,6 lần). Từ
năm 1981, học phổ thông gồm 11 năm, trong đó thêm lớp 5 áp dụng cho khu vực
miền Bắc.

12


2.2.4. Y tế
Về y tế, người dân không mất tiền khám chữa bệnh nhưng điều kiện còn
nhiều thiếu thốn. Người dân đi khám chữa bệnh, mua thuốc sau đó mang hóa đơn
về cơ quan hay bệnh viện thanh tốn. Nhà nước viện trợ trang thiết bị y tế, thuốc
men… Các bệnh viện có các nhà một đến ba tầng, quy mô nhỏ. Bệnh viện cũng
được Bộ y tế phân chỉ tiêu để thực hiện công tác khám chữa bệnh. Nhờ những cố
gắng, nỗ lực của ngành Y, y tế nông thơn ở miền Bắc trong thời kỳ này đã có những
thay đổi rõ rệt. Số bệnh viện được đầu tư xây dựng ở miền Bắc, từ 57 bệnh viện, 17
bệnh xá năm 1955 lên thành 442 bệnh viện và 645 bệnh xá năm 1975. Số lượng cán
bộ ngành y cũng tăng nhanh từ 108 bác sĩ năm 1955 lên 5.684 bác sĩ năm 1975.

13


CHƯƠNG III: KHỦNG HOẢNG TRONG CƠ CHẾ KẾ
HOẠCH HOÁ TẬP TRUNG VÀ NHU CẦU ĐỔI MỚI
CƠ CHẾ QUẢN LÝ KINH TẾ
3.1.

Khủng hoảng trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung
Trong thời kỳ kinh tế còn tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng thì cơ chế này

có tác dụng nhất định, nó cho phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế vào các
mục tiêu chủ yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể, đặc biệt trong quá trình
cơng nghiệp hóa theo hướng ưu tiên phát triển cơng nghiệp nặng. Nhưng nó lại thủ
tiêu cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học – công nghệ, triệt tiêu động lực kinh tế
đối với người lao động, khơng kích thích tính năng động, sáng tạo của các đơn vị

sản xuất, kinh doanh. Khi nền kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát triển theo
chiều sâu dựa trên cơ sở áp dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học —
cơng nghệ hiện tại thì cơ chế quản lý này càng bộc lộ những khiếm khuyết của nó,
làm cho kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa trước đây; trong đó có nước ta, lâm vào
tình trạng trì trệ, khủng hoảng.
Trước năm 1975, mỗi năm kinh tế Miền Nam được Mỹ viện trợ khoảng một
tỷ USD. Miền Bắc cũng được chi viện của các nước xã hội chủ nghĩa một lượng
xấp xỉ như thế. Sau ngày thống nhất không lâu, Mỹ bao vây cấm vận, đặc biệt là
miền Nam vốn đã sử dụng phương tiện sản xuất của Mỹ và phương Tây nên khơng
có phụ tùng để tiếp tục hoạt động. Quy mô viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa
cũng giảm đi nhanh chóng, Liên Xơ và Đơng Âu dù vẫn cịn giúp đỡ vài năm nữa,
nhưng do trượt giá đồng tiền của họ nên lượng hàng hóa, ngun liệu thực về nước
chỉ cịn phân nửa trước đây. Tất cả đã tác động rất mạnh vào nền kinh tế của đất
nước. Quy mô xuất khẩu của miền Bắc (than, thiếc, đồ thủ công…) lúc này chỉ độ
200 triệu rúp mỗi năm. Lúc đó, trao đổi thương mại chủ yếu là với các nước trong
Hội đồng Tương trợ Kinh tế, Nhà nước độc quyền, do bị Mỹ cấm vận kinh tế nên
quan hệ mậu dịch với bên ngoài bị hạn chế (Liên Xơ và Đơng Âu lúc đó cũng gặp
khó khăn).
Nhà nước chú trọng phát triển cơng nghiệp nặng để xây dựng nền tảng kỹ
thuật cho nền kinh tế trong khi công nghiệp nhẹ và nông nghiệp không được đầu tư
14


đúng mức nên lãng phí rất lớn các nguồn lực đầu tư vốn đã khan hiếm. Hệ quả là
công nghiệp nặng không phát triển như mong muốn để trở thành địn bẩy cho nền
kinh tế, một số sản phẩm cơng nghiệp nặng khơng có nơi tiêu thụ, nhà máy hoạt
động khơng hết cơng suất cịn cơng nghiệp nhẹ và nơng nghiệp không đủ sức đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
Chính sách chú trọng cào bằng và xây dựng các địa phương thành các đơn vị
kinh tế tự chủ cùng việc ngăn cấm thị trường tự do dẫn đến hàng hóa khơng thể lưu

thơng trong khi đó hệ thống thương nghiệp quốc doanh không đáp ứng nổi nhu cầu
phân phối hàng hóa của nền kinh tế. Việc biến các địa phương thành các đơn vị kinh
tế tự chủ cũng khiến nhà nước không thể liên kết các địa phương với nhau, phối hợp
thế mạnh của các địa phương vào kế hoạch chung của quốc gia và tập trung các
nguồn lực cho mục tiêu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nhà nước chú trọng bảo đảm việc làm, nhưng lại vượt q khả năng kinh tế,
vì thế về sau phải có chính sách xuất khẩu lao động đi Đơng Âu. Năng suất lao
động của toàn bộ nền kinh tế rất thấp.
Hiệu quả sử dụng vốn thấp. Nhiều chỉ tiêu bình quân đầu người năm 1985
vẫn thấp hơn năm 1976. Thu nhập quốc dân hàng năm tăng 3,7% trong khi dân số
tăng 2,3%. Nền kinh tế không đủ sức đáp ứng nhu cầu trong nước, thu nhập hàng
năm chỉ đáp ứng được 80-90% nhu cầu còn lại phải dựa vào viện trợ và vốn vay
nước ngồi.
Việt Nam khơng có khả năng tiết kiệm do thu nhập quá thấp nên thiếu vốn để
phát triển sản xuất. Đầu tư phát triển hoàn toàn dựa vào vốn vay và vốn viện trợ.
Thu chi ngân sách phải dựa vào vốn vay và viện trợ nước ngoài. Trong giai đoạn
1976-1980, vay nợ và viện trợ nước ngoài chiếm đến 38,2% tổng thu ngân sách và
bằng 61,9% tổng thu trong nước, 37,3% tổng chi ngân sách. Bội chi ngân sách năm
1980 là 18,1% và năm 1985 là 36,6% phải bù đắp bằng phát hành giấy bạc dẫn đến
siêu lạm phát vào năm 1986 với tốc độ tăng giá 774,7%.
Cơng nghiệp đình đốn do thiếu ngun liệu sản xuất vì bị bao vây cấm vận
và thiếu ngoại tệ để nhập khẩu nguyên liệu, thiếu điện để vận hành máy móc, hệ
thống máy móc lạc hậu và khơng có phụ tùng để thay thế khi bị hư hỏng. Hầu hết
các loại hàng tiêu dùng đều phải nhập khẩu toàn bộ hay một phần do sản xuất trong
15


nước không đảm bảo được cho tiêu dùng. Trong giai đoạn 1976-1985 đã nhập 60
triệu mét vải và 1,5 triệu tấn lương thực. Hiệu quả đầu tư cho công nghiệp thời kỳ
này thấp nên sản xuất tăng trưởng chậm và không ổn định.

Nông nghiệp không đủ sức đáp ứng nhu cầu trong nước. Bộ máy nhà nước
cồng kềnh và thiếu hiệu quả, tệ quan liêu bàn giấy phổ biến. Toàn bộ xã hội rơi vào
tình trạng trì trệ, kém phát triển, khơng lối thốt. Liên Xơ, Trung Quốc, Bắc Triều
Tiên và nhiều nước khác đã sử dụng mơ hình kinh tế chỉ huy để hiện đại hóa quốc
gia, xây dựng nền tảng công nghiệp trong khi Việt Nam không thể làm được điều đó
vì Việt Nam đã khơng phát huy được thế mạnh của mơ hình kinh tế này mà phải
hứng chịu tất cả những nhược điểm của nó.
Giữa thập niên 1980, tình hình kinh tế xã hội tiếp tục khó khăn gay gắt. Cuộc
khủng hoảng kinh tế nảy sinh từ cuối thập niên 1970, do cải tạo tư sản ở miền Nam
quá mức, do chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc kéo dài gần 10
năm, và càng gay gắt hơn khi Việt Nam bắt đầu chuyển sang cơ chế thị trường bằng
chính sách cải cách Giá - lương - tiền bao gồm đổi tiền, tăng lương bằng cách in
tiền vào năm 1985. Nhiều người gửi tiền tiết kiệm lâm vào cảnh bi đát do lạm phát
phi mã xảy ra sau khi đổi tiền. Có người bán một con bò lấy tiền gửi tiết kiệm, sau
khi đổi tiền chỉ mua được vài con gà. Việc ngăn cấm thị trường tự do khiến tình
trạng khan hiếm lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng trở nên nặng nề. Có câu
chuyện kể về mẹ già mang 5–10 kg gạo đi thăm con ở tỉnh khác, khi đến ranh giới
tỉnh bị tịch thu, khóc lóc, van xin cũng khơng được. Những phiên chợ quê, khi đội
quản lý thị trường đeo băng đỏ đến tịch thu thịt lợn do tư nhân mổ chui bán, chính
những người dân quanh đó lại bảo vệ người bán thịt lợn, không ủng hộ đội quản lý
thị trường của nhà nước. Thị trường thực phẩm, hàng tiêu dùng bị ngăn cấm trong
khi nhà nước chỉ phân phối tem phiếu thịt giá thấp riêng cho cán bộ, cơng nhân viên
(số lượng thật ra rất ít, khoảng 0,3-0,5 kg/người/tháng) và người dân ở thành phố
(mỗi người 0,1 kg/tháng). Điều này khiến tình trạng khan hiếm hàng tiêu dùng kéo
dài triền miên, và vật giá trên thị trường chợ đen tăng mạnh. Chất lượng sống của
nhân dân đi xuống khiến sự bất mãn trong xã hội tăng lên, uy tín của Đảng Cộng
sản Việt Nam sa sút. Gần một triệu người vượt biên ra nước ngồi để tìm cuộc sống

16



tốt đẹp hơn tạo ra một cuộc khủng hoảng nhân đạo lớn thu hút sự chú ý của dư luận
thế giới lúc đó.
Trước đổi mới, do chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường,
chúng ta xem kế hoạch hóa là đặc trưng quan trọng nhất của nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa, phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu; coi thị trường chỉ là một
công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch. Không thừa nhận trên thực tế sự tồn tại của
nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ, lấy kinh tế quốc doanh, và tập
thể là chủ yếu, muốn nhanh chóng xóa sở hữu tư nhân và kinh tế cá thể, tư nhân.
Nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng.
3.2.

Nhu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
Dưới áp lực của tình thế khách quan, nhằm thoát khỏi khủng hoảng kinh tế –

xã hội, chúng ta đã có những bước cải tiến nền kinh tế theo hướng thị trường, tuy
nhiên cịn chưa tồn diện, chưa triệt để. Đó là khốn sản phẩm trong nơng nghiệp
theo Chỉ thị số 100-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương khóa IV; bù giá vào lương ở
Long An; Nghị quyết Trung ương 8 khóa V (năm 1985) về giá – lương — tiền; thực
hiện Nghị định số 25 – CP và Nghị định số 26 – CP của Chinh phủ… Đó là những
căn cứ thực tế để Đảng đi đến quyết định thay đổi về cơ bản cơ chế quản lý kinh tế.
Đề cập sự cần thiết đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đại hội VI khẳng định:
“Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Cơ chế
quản lý tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được động lực phát
triển, làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng, và cải tạo các
thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu
quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông, và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực
trong xã hội”. Chính vì vậy, việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trở thành nhu cầu
cần thiết và cấp bách.


17


KẾT LUẬN
Cơ chế kế hoạch hố tập trung đã có những tác động nhất định trong bối
cảnh đất nước ta trong giai đoạn 1960-1985. Tuy nhiên cơ chế này đã bộc lộ nhiều
nhược điểm, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế, đời sống nhân dân nhiều khó
khăn, các vấn đề tiêu cực nảy sinh. Yêu cầu cấp thiết cho Đảng ta là phải có một cơ
chế về quản lý kinh tế mới nhằm khắc phục những hạn chế của cơ chế kế hoạch hố
tập trung mà vẫn có thể đi theo con đường chủ nghĩa xã hội.
Tại Đại hội VI tháng 12/1986 của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới nền kinh
tế, chuyển từ nền kinh tế theo cơ chế bao cấp tập trung, quan liêu sang nền kinh tế
thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Một chủ
trương hết sức quan trọng của giai đoạn này là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần nhằm khai thác có hiệu quả các nguồn lực của đất nước để thúc đẩy nền
kinh tế tăng trưởng nhanh chóng. Đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp nhà
nước là một trong những chủ trưởng lớn của Đảng và nhà nước nhằm đáp ứng yêu
cầu đó. Và thực tế đã chứng minh, đây là quyết định đúng đắn của Đảng và nhà
nước, hơn 35 năm đổi mới đất nước ta đang trên đà phát triển và đạt được những
thành quả đáng tự hào.

18



×