Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Tải Top 3 bài cảm nhận tâm sự của Tú Xương gửi gắm trong bài thơ Thương vợ siêu hay - HoaTieu.vn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.66 KB, 9 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>1. Dàn ý cảm nhận về nỗi lịng của nhân vật ơng Tú</b>
<b>I. Mở bài</b>


- Thương vợ được viết khoảng năm 1896 - 1897. Bà Tú tên Phạm Thị Mẫn, là người
vợ hiền thục đảm đang, tần tảo lo cho chồng con, nên tác giả rất quý trọng và có viết
một số bài thơ về bà. Trong những bài thơ viết về vợ của Tú Xương, bao giờ ta cũng
bắt gặp hình ảnh hai người: bà Tú hiện ra phía trước, ơng Tú khuất ở phía sau, nhìn kĩ
mới nhận ra và hiển hiện trong từng câu thơ. Đằng sau cốt cách khôi hài, trào phúng
là cả một tấm lịng, khơng chỉ thương mà còn tri ân vợ.


- Đặc biệt, bài Thương vợ thể hiện lòng thương quý và biết ơn người vợ đảm đang,
giàu đức hi sinh cho chồng con.


<b>II. Thân bài</b>


1. Hình ảnh vất vả, tần tảo cùng đức tình hi sinh đầy đẹp đẽ của bà Tú trong mắt ông


a. Cuộc sống mưu sinh nuôi chồng, nuôi con của bà Tú


- Việc mưu sinh vất vả của bà Tú được diễn ta trong bốn câu đầu.


- Thời gian (quanh năm), công việc (buôn bán), không gian (ở mom sông): quanh năm
bà Tú miệt mài buôn bán vất vả ở mom sông, lo liệu việc mưu sinh cho cả nhà và nuôi
lũ con (năm con), lại nuôi luôn cá chồng (với một chồng). Lối nói úp mở vừa hóm
hỉnh trong hai câu 1, 2 vừa nhấn mạnh lòng biết ơn pha lẫn sự ăn năn và tỏ ý thương
quý bà Tú.


- Câu 3 mượn hình ảnh con cị trong ca dao, có sử dụng biện pháp đảo ngữ (lặn lội
thân cò để diễn tả việc buôn bán vất vả của bà Tú, lặn lội cả những nơi vắng vẻ, nguy
hiểm (nơi quãng vắng). Câu 4 tả cảnh bà Tú phải chen chúc trên mặt nước vào những


buổi đị đơng, eo sèo mua bán thật tất bật, nhọc nhằn.


b. Những đức tính cao đẹp của bà Tú


- Bà Tú là ngươi đảm dang, tháo vát, chu đáo với chồng con:
Nuôi đủ năm con với một chồng.


- Trong hai câu 5 và 6, Tú Xương một lần nữa cảm phục sự quên mình của vợ:
<i>Một duyên hai nợ âu đành phận,</i>


<i>Năm nắng mười mưa dám quản công.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

+ Nắng mưa chỉ sự vất vả, năm, mười là số lượng phiếm chỉ để nói số nhiều, được
tách ra tạo nên một thành ngữ chéo ("năm nắng mười mưa"), vừa nói lên sự vất vả
gian truân, vừa thể hiện được đức tính chịu thương chịu khó, hết lịng vì chồng vì con
của bà Tú.


2. Bức xúc của ông Tú với xã hội, với bản thân trước sự bạc bẽo với bà Tú
<i>Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,</i>


<i>Có chồng hờ hững cũng như không.</i>


- Trong hai câu 7, 8, giọng thơ như nguyền rủa thói ăn ở bạc bẽo của chính nhà thơ.
Nhìn bề ngồi, quả thật ơng chẳng những khơng chia sẻ với nỗi cực nhọc trong việc
mưu sinh của gia đình, lại trở thành gánh nặng cho bà Tú, nên có cũng như khơng. Có
vẻ như ơng hờ hững, bạc bẽo đối với sự thật đáng chê trách.


- Lời chửi trong hai câu kết là lời Tú Xương rủa mát mình nhưng lại mang ý nghĩa xã
hội sâu sắc. Ơng chửi "thói đời" bạc bẽo, vì thói đời là một nguyên nhân xâu xa khiến
bà Tú phải khổ. Từ hoàn cảnh riêng, tác giả lên án thói đời bạc bẽo nói chung.



<b>III. Kết bài</b>


- Xã hội xưa "trọng nam khinh nữ", coi người phụ nữ là thân phận phụ thuộc. Một nhà
nho như Tú Xương dám sòng phẳng với bản thân, với cuộc đời, dám tự thừa nhận
mình là "quan ăn lương vợ", khơng những đã biết nhận ra thiếu sót, mà cịn dám tự
nhận khiếm khuyết. Một con người như thế là một nhân cách đẹp.


<b>2. Cảm nhận tâm sự của Tú Xương gửi gắm trong bài thơ Thương vợ</b>


Tú Xương có nhiều bài thơ, bài phú nói về vợ. Bà Tú vốn là "con gái nhà dòng, lấy
chồng kẻ chợ”, một người con dâu giỏi làm ăn buôn bán, hiền lành được bà con xa
gần mến trọng:


<i>"Đầu sông bến bãi, đua tài bn chín bán mười</i>
<i>Trong họ ngồi làng, vụng lẽ chào dơi nói thợ".</i>


Nhờ thế mà ơng Tú mới được sống cuộc đời phong lưu: "Tiền bạc phó cho con mụ
kiếm - Ngựa xe chẳng thấy lúc nào ngơi".


"Thương vợ" là bài thơ cảm động nhất trong những bài thơ trữ tình của Tú Xương. Nó
là bài thơ tâm sự, đồng thời cũng là bài thơ thế sự. Bài thơ chứa chan tình thương yêu
nồng hậu của ông Tú đối với người vợ hiền thảo của mình.


Sáu câu thơ đầu nói lên hình ảnh của bà Tú trong gia đình và ngồi cuộc đời: hình ảnh
chân thực về một người vợ tần tảo, một người mẹ đôn hậu, giàu đức hi sinh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

lưng bó que, xắn váy quai cồng, chân nam đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc"
(câu đối của Nguyễn Khuyến) thì bà Tú là một người đàn bà:



<i>"Quanh năm bn bán ở mom sông</i>
<i>Nuôi đủ năm con với một chồng".</i>


“Quanh năm buôn bán" là cảnh làm ăn đầu tắt mặt tối, từ ngày này qua ngày khác, từ
tháng này qua tháng khác... không được một ngày nghỉ ngơi. Bà Tú "Buôn bán ở
mom sông”, nơi cái mảnh đất nhô ra, ba bề bao bọc sông nước; nơi làm ăn là cái thế
đất chênh vênh. Hai chữ ''mom sông" gợi tả một cuộc đời nhiều mưa nắng, một cảnh
đời cơ cực, phải vật lộn kiếm sống, mới "Nuôi đủ năm con với một chồng". Một gánh
nặng gia đình đè nặng lên đơi vai người mẹ, người vợ. Thông thường, người ta chỉ
đếm mớ rau, con cá, đếm tiền bạc,... chứ ai "đếm" con, "đếm" chồng (!). Câu thơ tự
trào ẩn chứa nỗi niềm chua chát về một gia đình gặp nhiều khó khăn: đơng con, người
chồng đang phải "ăn lương vợ". Có thể nói, hai câu đầu, Tú Xương ghi lại một cách
chân thực người vợ tần tảo, đảm đang của mình.


Phần thực tô đậm thêm chân dung bà Tú, mỗi sáng mỗi tối đi đi về về "lặn lội" làm ăn
như "thân cị" nơi "qng vắng". Ngơn ngữ thơ tăng cấp tơ đậm thêm nỗi cực nhọc
của người vợ. Câu chữ như những nét vẽ, gam màu nối tiếp nhau, bổ trợ và gia tăng:
đã "lặn lội" lại "thân cò", rồi còn "khi quãng vắng". Nỗi cực nhọc kiếm sống ở "mom
sơng" tưởng như khơng thể nào nói hết được! Hình ảnh "con cị", “cái cị” trong ca
dao cổ: ''Con cị lặn lội bờ sơng...", "Con cị đi đón cơn mưa...", "Cái cị, cái vạc, cái
nơng..." được tái hiện trong thơ Tú Xương qua hình, ảnh "thân cò" lầm lũi, đã đem
đến cho người đọc bao liên tưởng cảm động về bà Tú, cũng như thân phận vất vả, cực
khổ,... của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ:


<i>"Lặn lội thân cò khi quãng vắng,</i>
<i>Eo sèo mặt nước buổi đị đơng".</i>


"Eo sèo" là từ láy tượng thanh chỉ sự rầy rà bằng lời đòi, gọi liên tiếp dai dẳng; gợi tả
cảnh tranh mua tranh bán, cảnh cãi vã nơi "mặt nước" lúc "đị đơng”. Một cuộc đời
"lặn lội", một cảnh sống làm ăn "eo sèo". Nghệ thuật đối đặc sắc đã làm nổi bật cảnh


kiếm ăn nhiều cơ cực. Bát cơm, manh áo mà bà Tú kiếm được "Nuôi đủ năm con với
một chồng" phải "lặn lội" trong mưa nắng, phải giành giật "eo sèo", phải trả giá bao
mồ hôi, nước mắt giữa thời buổi khó khăn!


Tiếp theo là hai câu luận, Tú Xương vận dụng rất sáng tạo hai thành ngữ: ''một duyên
hai nợ" và "năm nắng mười mưa", đối xứng nhau hài hòa, màu sắc dân gian đậm đà
trong cảm nhận và ngôn ngữ biểu đạt:


<i>"Một duyên hai nợ, âu đành phận,</i>
<i>Năm nắng mười mưa dám quản công".</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

một người phụ nữ chịu thương chịu khó vì sự ấm no hạnh phúc của chồng con và gia
đình. "Âu đành phận"... "dám quản cơng"... giọng thơ nhiều xót xa thương cảm.
Tóm lại, sáu câu thơ đầu, bằng tấm lòng biết ơn và cảm phục, Tú Xương đã phác hoạ
một vài nét rất chân thực và cảm động về hình ảnh bà Tú, người vợ hiền thảo của
mình với bao đức tính đáng quý: đảm đang, tần tảo, chịu thương, chịu khó, thầm lặng
hi sinh cho hạnh phúc gia đình. Tú Xương thể hiện bút pháp điêu luyện trong sử dụng
ngôn ngữ và sáng tạo hình ảnh. Các từ láy, các số từ, phép đối, đảo ngữ, sử dụng sáng
tạo thành ngữ và hình ảnh "thân cị"... đã tạo nên ấn tượng và sức hấp dẫn của văn
chương.


Hai câu kết, Tú Xương sử dụng từ ngữ thông tục, lấy tiếng chửi nơi "mom sơng", lúc
"buổi đị đơng" đưa vào thơ rất tự nhiên, bình dị. Ơng tự trách mình:


<i>"Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,</i>
<i>Có chồng hờ hững cũng như khơng!"</i>


Trách mình "ăn lương vợ" mà "ăn ở bạc". Vai trị người chồng, người cha chẳng giúp
ích được gì, vơ tích sự, thậm chí cịn "hờ hững" với vợ con. Lời tự trách sao mà chua
xót thế!



Ta đã biết, Tú Xương có văn tài, nhưng cơng danh dở dang, thi cử lận đận. Sống giữa
một xã hội "dở Tây dở ta" chữ nho mạt vận, lúc mà "Ơng nghè, ơng cống cũng nằm
co” cho nên nhà thơ tự trách mình, đồng thời cũng là trách đời đen bạc. Ơng khơng xu
thời để vinh thân phì gia "tối rượu sâm banh, sáng sữa bò".


Hai câu kết là cả một nỗi niềm tâm sự và thế sự đầy buồn thương, là tiếng nói của một
trí thức giàu nhân cách, nặng tình đời, thượng vợ con mà gia cảnh nghèo. Tú Xương
thương vợ cũng chính là thương chính mình vậy. Đó là nỗi đau thất thế của nhà thơ
khi cảnh đời thay đổi!


Bài thơ "Thương vợ" được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Ngơn ngữ
thơ bình dị như tiếng nói đời thường nơi "mom sông" của những người buôn bán nhỏ,
cách đây gần một thế kỉ. Các chi tiết nghệ thuật chọn lọc vừa cá thể (bà Tú với "năm
con, một chồng") vừa khái quát sâu sắc (người phu nữ ngày xưa). Hình tượng thơ hàm
súc, gợi cảm: thương vợ, thương mình, buồn về gia cảnh thêm nỗi đau đời. "Thương
vợ" là bài thơ trữ tình đặc sắc của Tú Xương nói về người vợ, người phụ nữ ngày xưa
với bao tình cảm trân trọng tốt đẹp. Hình ảnh bà Tú được nói đến trong bài thơ rất gần
gũi với người mẹ, người chị trong mỗi gia đình Việt Nam.


Tú Xương là nhà thơ trào phúng xuất sắc trong nền văn học Việt Nam. Tên tuổi ông
sống mãi với non Côi, sông Vị. Sinh bất phùng thời giữa cái xã hội dở Tây dở ta, khi
mà Hán học đã mạt vận, Tú Xương vẫn giữ được nhân cách kẻ sĩ, vẫn sống "sang
trọng" như ai, bởi lẽ nhà thơ có người vợ hiền thảo đảm đang. Tú Xương không bảng
vàng bia đá, nhưng ông đã khắc tên tuổi bà Tú vào bia đá bảng vàng:


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i>(...) Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ</i>
<i>Đem chuyện trăm năm – giở lại bàn".</i>


<i>(Quan tại gia)</i>



Tú Xương đã có bài ''Văn tế sống vợ", lại có thêm bài "Thương vợ", đó là những áng
văn thơ vừa tài tình vừa nghĩa tình. Ca dao đã nói về người vợ tào khang "tay bưng
chén muối đĩa gừng", Tú Xương có bao giờ qn được cơng ơn của bà Tú "Nuôi đủ
năm con với một chồng”.


Á Nam Trần Tuấn Khải (1894 - 1983) nhà thơ cùng thời với Tú Xương đã có bài thơ
"Viếng bà Tú Xương" viết năm 1931:


<i>"Hơn sáu mươi năm đất Vị Hoàng,</i>
<i>Mẹ hiền, vợ đức đã treo gương.</i>
<i>Nếm chung trời Việt trăm cay đắng,</i>


<i>Vững với con Côi một mối giường.</i>
<i>Bia miệng đã nên trang khổn phạm,</i>
<i>Nếp nhà không thẹn dấu văn chương.</i>


<i>Tấm thân tuy thác, danh nào thác,</i>
<i>Hồn cũng thơm lây dưới suối vàng”.</i>


Bài thơ của Á Nam giúp ta hiểu hơn Tú Xương và bà Tú, và chúng ta mới thấy hết cái
hay, cái đẹp của tấm lòng Tú Xương được nói đến trong bài "Thương vợ".


<b>3. Cảm nhận nỗi lòng của Tú Xương trong bài Thương Vợ</b>


“Thương vợ” – một trong những bài thơ chất chứa nồng nàn bao cảm xúc của một
người chồng dành cho vợ mình giữa cuộc đời bao vất vả, lo toan. Người chồng ấy
khơng phải ai khác mà chính là tác giả của bài thơ: Trần Tế Xương. Ông đã dành cho
vợ mình những tình cảm rất chân thành qua lời thơ giản dị mà sâu sắc.



Trần Tế Xương là một trong những nhà thơ trẻ với những tác phẩm đã trở thành bất
tử. Sáng tác của ông gồm hai mảng: trào phúng và trữ tình, đều bắt nguồn từ tâm
huyết của nhà thơ với dân, với nước, với đời.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Trong những câu thơ đầu, ông miêu tả rất chân thực về cuộc sống và gánh vác nặng
nhọc của vợ mình:


<i>“Quanh năm bn bán ở mom sơng,</i>
<i>...</i>


<i>Eo sèo mặt nước buổi đị đơng.”</i>


Nghề của bà là buôn bán, quanh năm ngày tháng lặn lội ở “mom sơng” – nơi có nhiều
hiểm nguy rình rập. Ơng Tú ngày đêm bận bịu với đèn sách, với thơ ca, vậy mà vẫn
để tâm đến công việc của vợ mình, khác hẳn với những người đàn ơng khác trong chế
độ nam quyền cùng thời. Ông là người có tri thức, lại thấu hiểu sự đời. Vì thế, ông
hiểu hơn ai hết những nỗi vất lo toàn mà vợ mình đang gánh.


Ơng đã dành cho vợ những lời thơ rất giản dị với hình ảnh và từ ngữ chân thành, giàu
cảm xúc. Ông hiểu rằng, vợ mình vất vả như vậy là vì phải “Ni đủ năm con với một
chồng”. Đủ là đủ ăn đủ mặc, đủ ấm, đủ khơng thiếu thứ gì. Ơng tự đặt mình cân xứng
với “năm con” để khắc họa thêm trọng trách lớn lao mà bà Tú đang đảm đương.
Khơng phải ơng hạ mình trước vợ, càng khơng phải ông thấp hèn, kém cỏi mà vì cái
nghiệp văn chương của ông lúc bấy giờ không phải là thời thịnh nên khơng thể dựa
vào đó mà lo toan cuộc mưu sinh cơm áo gạo tiền được. Trong lời thơ của ơng cịn
thầm có sự biết ơn, trân trọng sâu sắc đến người vợ đảm đang, tảo tần, giàu hi sinh.
Bởi thế, ông mới hiểu những ngày bà “lặn lội”, “eo sèo” trong cuộc bán buôn, bon
chen đầy vất vả, ganh đua.


Có người đặt ra câu hỏi, tại sao ơng hiểu vợ mình vất vả như vậy mà lại không đứng


lên làm giúp bà? Những vần thơ của ơng có mang lại cơm áo gạo tiền cho bà đỡ vất
vả? Ơng hiểu biết, ơng có tri thức sao lại để vợ mình phải vất vả vậy? Câu hỏi trái
ngang thật khó trả lời. Bởi trong thời thế ấy, ông không thể bỏ cây bút mà lao vào làm
lụng chân tay cùng bà được. Mình bà gánh vác cả năm con đã là một gánh nặng lắm
rồi, lại thêm cả một ông chồng. Liệu rằng người phụ nữ ấy có gục ngã, có kêu than?


<i>“Một duyên hai nợ âu đành phận,</i>
<i>Năm nắng mười mưa dám quản cơng</i>


<i>Cha mẹ thói đời ăn ở bạc</i>
<i>Có chồng hờ hững cũng như không.”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Bên cạnh những tình cảm chân thành dành cho bà Tú, Tế Xương cũng thầm bày tỏ
niềm đồng cảm, xót xa với những thân phận đồng cảnh với bà. Bởi thế, ơng ví vợ
mình với “thân cị” – một hình ảnh quen thuộc trong ca dao Việt Nam khi nói về số
phận vất vả của người nông dân. Dù họ có phải “lặn lội”, phải “eo sèo” hay dù thế nào
đi chăng nữa, những “thân cò” vẫn ngày đêm miệt mài kiếm sống.


Vậy, vì mục đích gì mà họ lại cam chịu như vậy? Khơng phải vì bị ép buộc, mà vì
tình yêu thương lớn lao và cao cả họ dành cho gia đình. Sự hi sinh ấy thật đáng trân
trọng và đáng quý biết bao. Nhưng khơng phải ai cũng có nỗi lịng thấu hiểu như nhà
thơ Tế Xương. Sống trong xã hội nam quyền nhưng ơng khơng tự cho mình được
quyền thong dong, được hưởng thụ thoải mái mọi thứ và được trà đạp lên người phụ
nữ. Ở xã hội ấy, có những người vợ bị coi là nô lệ, là người ở, nhưng Tế Xương thì
khơng. Bà Tú đã đi vào thơ ông với ý nghĩa là một người vợ đích thực, một người vợ
đảm đang, giàu đức hi sinh. Ơng thương vợ và ngược lại cũng trách mình làm chồng
mà “hờ hững cũng như không”.


Đúng như cái tên mà tác giả đã đặt cho bài thơ “Thương vợ”, Tế Xương đã dành
những tình cảm chân thành nhất dành cho vợ. Không giúp được vợ nhưng ông mong


sao những tình cảm của mình sẽ làm bà vơi đi mệt mỏi sau bao ngày lặn lội vất vả
mưu sinh.


<b>4. Tâm sự của Tú Xương qua bài thơ “Thương vợ”</b>


Thơ văn Việt Nam xưa và nay có những bài thơ thương vợ, khóc vợ rất cảm động.
Người ta còn truyền tụng một bài thơ của Tự Đức khóc một bà phi có câu:


<i>Đập vỡ gương ra tìm thấy bóng</i>
Xếp tàn y lại để dành hơi.


Nỗi nhớ nhung đau đớn, dữ dội ấy còn được Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Thượng Hiền,
Nguyễn Khuyến thể hiện cảm động trong bài văn tế, câu đối khóc vợ sau này. Cảm
phục, xót thương, tự hào... trước tấm lịng, đức hi sinh của vợ bằng giọng văn vừa có
chút tính nghịch, vừa rất cảm động; giữa sự kết hợp giữa trào phúng và trữ tình Tú
Xương đã làm “giàu” thêm đề tài viết về bà Tú và kịp góp vào nền văn học Trung đại
Việt Nam một bài thơ về tình cảm thương vợ hay và sâu sắc.


Thương vợ là một bài thơ vừa cảm động, vừa dí dỏm của Tú Xương. Chỉ hai câu đầu
của bài thơ đã nêu bật lên được vai trò trụ cột gia đình của bà:


<i>Quanh năm bn bán ở mom sông</i>
<i>Nuôi đủ năm con với một chồng.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

cường điệu của chuyện văn chương, trong trường hợp này chính là sự bày tỏ lòng biết
ơn đối với bà Tú về mặt thời gian lao dộng. Và điều cảm động, đáng để khâm phục bà
Tú là nhịp độ làm việc không ngừng nghỉ tại một nơi làm ăn, buôn bán khó khăn
nhưng khơng phải chỉ để ni thân mà “Ni đủ năm con với một chồng’. Đâu cịn
thấy hình ảnh:



<i>Trên đồng cạn, dưới đồng sâu</i>
<i>Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.</i>


Mà trái lại đó là loại chồng: “Tiền bạc phó cho con mụ kiếm”, loại chồng “Thưng đấu
nhờ lưng một mẹ mày”. Người chồng là trụ cột của gia đình, gánh vác việc nặng nhọc
để cưu mang cuộc sống cho vợ con vậy mà ở đây, trong câu thơ này ơng Tú cảm thấy
mình như một người “thừa”, một kẻ vô dụng và như một “thứ con” đặc biệt để bà Tú
phải nuôi riêng. Chế độ xã hội cũ đã sản sinh ra loại ông chồng đoảng, loại ông chồng
“dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm” như ơng Tú khơng ít. Tốt lên qua hai câu thơ là một
niềm thương cảm của ông Tú dành cho vợ trước đức hi sinh, tần tảo của bà; đồng thời
là một lời tự trách mình vì thân làm chồng mà để vợ gánh vác việc gia đình đồng thời
cịn thấp thống niềm tự hào về vợ của mình khi làm lụng vất vả để “Ni đủ năm con
với một chồng”. Mặc dù, đó là một ơng chồng khơng phải nhưng bằng lối văn dí dỏm,
tình cảm chân thành, nhận ra được sự vất vả của vợ, tỏ ra biết nhận lỗi, biết đền bù lại
bằng cái tình, bằng tấm lịng nên người đọc khơng hề trách mà ngược lại có chút
thơng cảm đối với “ơng chồng’ này.


Tình thương vợ được thể hiện trọn ven trong hai câu thơ 3, 4:
<i>Lặn lội thân cò khi qng vắng</i>
<i>Eo sèo mặt nước buổi đị đơng.</i>


Hai câu thơ gợi lên cảnh làm ăn vất vả, tội nghiệp của bà Tú. Chẳng hay, ơng Tú đã
đón nhận câu ca dao “Con cị lặn lội bờ sơng/ Gánh gạo ni chồng tiếng khóc nỉ
non”, từ bào giờ? Qua tiếng ru con cua một bà mẹ láng giềng hay chính trong lời ru
của bà cụ Nhuận đã đi vào tiềm thức của tế Xương? Chắc chắn từ “con cị lặn lội bờ
sơng”, hình ảnh những bà vợ Việt Nam ngàn xưa trong xã hội cũ, ngược xuôi tần tảo,
gian nan cực nhọc để nuôi chồng con cũng từ lâu đã đi vào hồn thơ giàu rung động
của Tú Xương với bao nhiêu xót xa, thương cảm. Để giờ đây, trong lúc nghĩ đến bà
Tú thì con cị ấy bỗng vụt dậy vỗ cánh bay vèo thi hứng Thương vợ của Tú Xương.
Phép đảo ngữ “lặn lội thân cò” càng khắc hoạ rõ nét nỗi khổ cực, đức hi sin, sự chịu


đựng của bà Tú. Hai từ “lặn lội” chen lên đứng đầu câu. Cảnh lặn lội lại càng “lặn
lội”. Ca dao nói “con cị”, Tú Xương nói “thân cị”. Ý thơ cổ như xốy sâu vào sự cực
khổ. “Thân cị” gợi thân phận lẻ loi, yếu ớt, cô đơn và nó lại càng cơ quạng, lạc lõng
hơ khi đi cùng với từ “eo sèo”- một sự mặc cả, nhỏ nhoi, cơ đơn, tội nghiệp. Vì “năm
con với một chồng”, vì “miếng cơm manh áo” mà bà Tú phải chen chúc với nhau trên
những chuyến đò đưa khách sang sông. Chật hẹp, bấp bênh, mỏng manh, chơi vơi đến
quá chừng! Và dường như sông nước càng mênh mông bao nhiêu thì cái độ chơi vơi,
mỏng manh, bấp bênh đó lại càng tăng lên bấy nhiêu. Từ đó càng làm nổi bật tấm
lòng thương vợ của Tú Xương và qua đó ơng tỏ ra thấu hiểu hết những vất vả của bà
Tú:


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Câu thơ như nói lên ý nghĩ của bà Tú. Cuộc đời như thế là duyên, mà cũng là nợ,
duyên một thì nợ hai, thơi đành chịu theo số phận, khơng giám nề hà, khơng kể cơng
gì nữa. Nhưng câu thơ còn làm nhứ đến câu ca dao:


<i>Một duyên, hai nợ, ba tình,</i>


<i>Chiêm bao lẩn khuất bên mình năm canh.</i>


Ngồi cái dun, cái nợ cịn có cái tình; cái tình nghĩa vợ chồng của bà Tú dành cho
chồng mình. Thành ra nói “nợ” mà thực ra là nói “tình”, mà đã là tình thì ai lại kể
cơng. Số từ tăng tiến: “một”, “hai”, “năm”, “mười” càng dồn nén sự chịu đựng của bà
Tú, càng làm trào dâng lên nỗi niềm xót thương, cảm thơng trước sự hi sinh vất vả,
tảo tần của bà Tú.


Bài thơ kết bằng một cấu chửi - một câu chửi yêu:
<i>Cha mẹ thói đời ăn ở bạc</i>
<i>Có chồng hờ hững cũng như khơng.</i>


Nhìn cuộc đời bà Tú như vậy có chửi cũng là lẽ tất yếu. Nhưng ở đây ai chửi? chửi


ai? Và chửi cái gì? Thì cũng chỉ là ơng Tú thương xót cho bà Tú mà chửi thay cho bà
Tú. Ơng Tú đã tự chửi mát mình về cái thói “ăn ở bạc”, cái tội “làm chồng mà hờ
hững cùng như không”, làm chồng mà để vợ phải trăm cơ, nghìn cực như thế. Hai câu
kết khép lại bài thơ vừa như là một lời chửi, vừa như là một lời than. Nhà thơ tự phán
xét chính mình, tự trách mình và tha cho hồn cảnh của vợ. Câu thơ cũng chỉ ra
nguyên nhân dẫn đến nỗi khổ của bà Tú là do “thói đời” bạc bẽo. “Thói đời” bạc bẽo
đã biến ơng Tú trở thành kẻ vơ tích sự, chính vì thế ơng trở thành gánh nặng cho vợ.
Lời chửi vừa thể hiện nỗi niềm tâm sự cay đắng ch hoàn cảnh của ơng Tú, vừa thể
hiện nỗi xót thương, ngậm ngùi của ông Tú đối với vợ.


</div>

<!--links-->

×