Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

BÀI bào CHỮA tạ văn TRƯỜNG CHỨA mại dâm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.16 KB, 11 trang )


I.

TĨM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN

Ngơ Văn Thành - sinh năm 1984, là chủ quán tẩm quất thư giãn Ha Na có địa
chỉ tại khu phố Nguyễn Giáo, phường Đồng Nguyên, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Giữa tháng 6/2018 Tạ Văn Trường - sinh năm 1988; HKTT: thôn Phú Đa, xã Công
Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam đến quán tẩm quất thư giãn Ha Na gặp Thành để
xin việc làm. Hai bên thỏa thuận việc làm không ký hợp đồng lao động mà chỉ thỏa
thuận miệng, Thành trả lương cho Trường 4.000.000đ/tháng và giao tồn bộ cơng
việc quản lý, điều hành quán cho Trường.Vào buổi tối hàng ngày, Trường có trách
nhiệm quản lý quán và điều hành nhân viên, thu tiền tẩm quất của khách, không
được mua bán, sử dụng ma túy và hoạt động mại dâm.
Khoảng 20 giờ 45 phút ngày 05/07/2018, Thành khơng có mặt tại qn thì có
ba đối tượng tự khai là: Nguyễn Văn Thọ - sinh năm 1986, Nguyễn Trần Trung sinh năm 1987 và Nguyễn Văn Tuấn -sinh năm 1990 đều ở thị trấn Chờ, huyện Yên
Phong, tỉnh Bắc Ninh đi xe taxi của Nguyễn Văn Huy, HKTT: thôn Việt Vân, xã
Việt Thống, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh đến quán tẩm quất Ha Na. Huy làm nghề
lái taxi, không quyen biết gì với Thọ, Trung và Tuấn và đây là lần đầu tiên chở ba
thanh niên này. Đến nơi, Thọ bảo Huy vào đợi còn Thọ, Trung, Tuấn đi đến gặp
Trường. Tại đây, Thọ hỏi Trường nhà có nhân viên tàu nhanh khơng (tức hỏi có
nhân viên bán dâm khơng), Trường trả lời “có”. Thọ hỏi tiếp: “Cho anh 3 vé hết bao
nhiêu tiền”, Trường trả lời: vâng và nói anh lên phòng thỏa thuận và đưa tiền cho
nhân viên thấp nhất là 300.000đ, còn em chỉ thu tiền phòng 150.000đ /1 người, 3
người là 450.000 đ. Trường bảo Thọ, Trung, Tuấn lên phòng 201, 202, 203 để
Trường gọi nhân viên đến bán dâm. Trường gọi Phùng Thị Kim Liên - sinh năm
1990, HKTT: khu 1, xã Hương X, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ - là nhân viên tại
quán bảo Liên vào phòng 203 bán dâm.
Trường tiếp tục dùng điện thoại gọi cho người tên Bắc bảo cho hai nhân viên
đến quán tẩm quất Ha Na để bán dâm. Một lúc sau, Lê Thị Thanh Tâm – sinh năm
1995, HKTT: đội 6, xã Ninh Thắng, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình đến. Trường


bảo Tâm lên phịng 202 để bán dâm. Tại phòng, Thọ và Trung đưa tiền cho gái bán
dâm là Tâm và Liên, mỗi người 500.000d. Còn Tuấn vẫn ở phòng 201 để đợi gái
bán dâm đến. Khi Trung với Liên, Thọ với Tâm đang thực hiện hành vi mua bán
dâm thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Ninh bắt quả tang thu giữ
các vật chứng: 02 bao cao su đã qua sử dụng; tiền VNĐ: 1.500.000đ do Tạ Văn
Trường, Lê Thị Thanh Tâm và Phùng Thị Kim Liên giao nộp; 02 điện thoại di động
của Trường và Liên.
Trường khai: Trường thực hiện việc chứa mại dâm theo chỉ đạo của Thành và
số điện thoại của người tên là Bắc là do Thành đưa cho Trường. Trường khơng rõ
Bắc là ai, chỉ biết có số điện thoại là 0974.061.663 và số điện thoại này được dán
trên quầy tại quán Hana. Cơ quan điều tra, đã tiến hành gọi hỏi, lấy lời khai của
Thành, Thành khai không biết Bắc là ai và Thành không đưa cho Trường số điện


thoại nào. Ngày 10/8/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Bắc Ninh đã
tiến hành cho Tạ Văn Trường và Ngơ Đình Thành đối chất với nhau. Kết quả đối
chất: Trường và Thành vẫn giữ nguyên lời khai như trước. Do đó, chưa có đủ căn
cứ để xác định Thành chỉ đạo Trường chứa mại dâm tại quán Ha Na.
Qua kết luận điều tra vụ án hình sự đề nghị truy tố của cơ quan Cảnh sát Điều
tra Công An Tỉnh Bắc Ninh số 54/KLĐT – PC02 ngày 17/09/2018 và các tài liệu có
liên quan, Viện Kiểm Sát Nhân Dân tỉnh Bắc Ninh đã đưa ra cáo trạng số 118/CT –
VKS – P1 ngày 18/10/2018 đề nghị truy tố ra trước Tòa Án Nhân Dân thị xã Từ
Sơn, tỉnh Bắc Ninh để xét xử bị can Tạ Văn Trường về tội “Chứa mại dâm”, áp
dụng theo điểm d Khoản 2 Điều 327 BLHS1 quy định: “2. Phạm tội thuộc một
trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: d. Chứa mại
dâm 04 người trở lên.” Ngày 28/12/2018 Tòa Án Nhân Dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc
Ninh ban hành Quyết định số 17/2018/QĐXXST-HS đưa vụ án ra xét xử.
II.
1.


KẾ HOẠCH ĐẶT CÂU HỎI

Đặt câu hỏi đối với bị cáo Tạ Văn Trường:
- Bị cáo vào làm việc tại quán tẩm quất thư giản Ha Na vào thời gian nào?
- Bị cáo hãy nói rõ cơng việc của bị cáo tại quán tẩm quất thư giãn Ha Na? Ai
là người trực tiếp giao việc cho bị cáo?
- Tại sao nghề nghiệp của bị cáo là kỹ thuật viên chụp X-Quang nhưng lại xin
vào làm quản lý ở quán Hana?
- Tiền lương bị cáo được nhận hằng tháng là bao nhiêu? Ngoài tiền lương thì
cịn nhận được khoản tiền nào khác khơng?
- Bị cáo và Liên ai vào làm việc trước?
- Bị cáo có thỏa thuận với Liên trước về việc bán dâm tại qn Hana khơng?
- Trước đây bị cáo có gọi gái bán dâm tới lần nào chưa?
- Bị cáo nêu rõ sự việc diễn ra tối ngày 05/07/2018?
- Số điện thoại 0974061663 của Bắc do đâu mà bị cáo có được?
- Mỗi lần cho khách mua bán dâm tại quán, bị cáo thu bao nhiêu tiền?
- Khi cho các đối tượng mua bán dâm tại quán, bị cáo có thơng báo với ơng
Thành khơng?
- Ơng Thành có biết về việc các đối tượng thực hiện mua bán dâm tại qn hay
khơng?
- Giữa bị cáo và ơng Thành có bàn bạc trước với nhau về việc cho mua bán
dâm tại quán không?
- Bị cáo từng chứng kiến việc ông Thành liên hệ gái bán dâm tới quán phải
không và liên hệ với ai?

2.

Đặt câu hỏi đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Ngô Văn
Thành:
- Anh Thành cho biết quán tẩm quất – thư giản Ha Na ở khu phố 6, Nguyễn

Giáo, Đồng Nguyên, Thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh là của ai?

1 BLHS: là chữ viết tắt của Bộ Luật Hình Sự số 100/2015/QH13 ban hành ngày 27/11/2015 có hiệu lực ngày
01/07/2016, sửa đổi bổ sung ban hành ngày 20/06/2017 có hiệu lực thi hành ngày 01/08/2018.


3.

Trường đến xin việc làm tại quán tẩm quất Ha Na khi nào?
Khi nhận Trường vào làm việc anh đã giao cho Trường những cơng việc gì?
Liên và bị cáo Trường ai vào làm việc tại quán trước?
Anh có biết việc Liên làm nghề bán dâm tự do trước đây khơng?
Tối ngày 5/7/2018, Anh ở đâu, làm gì?
Khi Trường gọi nhân viên đến bán dâm tại qn thì anh có biết khơng?
Anh có biết về sự việc diễn ra vào tối ngày 5/7/2018 không?
Anh nghĩ sao về việc Trường phạm tội chứa mại dâm tại quán Hana của anh?
Anh Thành có biết người tên Tâm khơng?
Anh có biết về số điện thoại 0974061663 dán tại quầy của quán Hana không?
Anh có biết người tên là Bắc hay Ngun khơng?
Đặt câu hỏi đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị
Thanh Tâm:

- Chị hãy nêu lại sự việc diễn ra tối ngày 05/07/2018?
- Ai là người gọi chị đến quán tẩm quất Ha Na vào tối ngày 05/07/2018?
- Người chở chị đến quán Hana bán dâm có phải là nhân viên của chị Ngun
khơng? Chị có biết người này khơng?
- Chị có biết người nào tên Bắc khơng?
- Có phải chị là nhân viên tại qn karaoke của chị Nguyên không?
- Chị Nguyên đã thỏa thuận công việc bán dâm với chị phải khơng?
- Chị có thỏa thuận với Trường về việc bán dâm khơng?

- Ngồi bán dâm vào tối ngày 05/07/2018 chị có từng bán dâm tại quán Ha Na
trước đây chưa?
- Tiền bán dâm của chị có phải chia cho ai khác hay mình chị hưởng?
4.

Đặt câu hỏi đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Phùng Thị
Kim Liên:
-

Chị hãy nêu lại sự việc diễn ra tối ngày 05/07/2018?
Chị vui lòng nêu rõ thời gian chị làm việc tại quán Hana?
Công việc chủ yếu của chị tại quán Hana là gì?
Chị đã thỏa thuận cơng việc gì với anh Thành khi làm việc tại quán Hana?
Thành có biết việc chị bán dâm khơng?
Chị có thỏa thuận với Trường về việc bán dâm trước đó khơng?
Ngồi bán dâm vào tối ngày 05/07/2018 chị có từng bán dâm tại quán Ha Na
trước đây chưa?
- Tiền bán dâm của chị có phải chia cho ai khác hay mình chị hưởng?
- Chị có biết Tâm trước đây không?
III.

LUẬN CỨ BÀO CHỮA CHO BỊ CÁO TẠ VĂN TRƯỜNG
BÀI BÀO CHỮA CHO BỊ CÁO TẠ VĂN TRƯỜNG

-

Kính thưa Hội Đồng Xét Xử;

-


Thưa vị đại diện Viện Kiểm Sát;

-

Thưa vị luật sư đồng nghiệp;


-

Cùng những người tham dự phiên tịa hơm nay.

Tơi Luật sư ……, thành viên Đoàn Luật sư tỉnh Bắc Ninh hiện đang làm việc
tại Văn phòng Luật sư ………….. Theo yêu cầu của bị cáo Tạ Văn Trường, tôi
được Văn phòng Luật sư P.L và cộng sự cử để tham gia tố tụng và được sự chấp
thuận của Tòa Án Nhân Dân tỉnh Bắc Ninh, tơi có mặt tại phiên tịa hơm nay với tư
cách là luật sư bào chữa cho bị cáo Tạ Văn Trường.
Bị cáo Tạ Văn Trường đã bị Viện Kiểm Sát Nhân Dân tỉnh Bắc Ninh truy tố
về tội “Chứa mại dâm” theo quy định điểm d Khoản 2, Điều 327 BLHS.
Kính thưa Hội Đồng Xét Xử, thưa quý đại diện Viện Kiểm Sát. Qua nghiên
cứu hồ sơ vụ án cùng với việc thẩm tra các chứng cứ, tài liệu, tại phiên tịa hơm nay
tơi xin có một vài quan điểm như sau:
Vấn đề thứ nhất: Vụ án có rất nhiều sai phạm, tn thủ khơng đúng quy
định pháp luật trong thủ tục tố tụng từ giai đoạn điều tra, đến giai đoạn truy tố và
đưa vụ án ra xét xử:
Hoạt động điều tra không tuân thủ đúng theo quy định:
- Biên bản đối chất được xem là nguồn chứng cứ giải quyết vụ án căn cứ theo
điểm đ khoản 1 Điều 87 BLTTHS2 tuy nhiên Biên bản đối chất thể hiện tại
bút lục số 48 – 52 khơng có sự tham gia của kiểm sát viên nhưng điều tra
viên cũng không ghi rõ vào biên bản đối chất. Cơ quan cảnh sát điều tra đã vi
phạm thủ tục trong quá trình đối chất căn cứ theo khoản 1 Điều 189 BLTTHS

dẫn đến biên bản đối chất khơng có sự kiểm sốt việc đối chất của kiểm sát
viên. Biên bản đối chất đã không tuân thủ đúng thủ tục theo quy định của
BLTTHS, nên biên bản này không được sử dụng làm căn cứ để giải quyết vụ
án, không được xem là nguồn chứng cứ căn cứ theo khoản 2 Điều 87
BLTTHS.
- Cơ quan cảnh sát điều tra đã vi phạm thủ tục trong quá trình lấy lời khai của
anh Nguyễn Văn Huy. Tại 2 biên bản lấy lời khai của Anh Huy được lập cùng
thời điểm vào lúc 9h ngày 15/07/2018 nhưng có nội dung khác nhau và bởi 2
cán bộ điều tra và điều tra viên khác nhau thể hiện tại bút lục 35-40. Biên bản
thứ 1 từ bút lúc 35-37 ghi địa điểm tại quán karaoke – mát xa Thống Nhất,
biên bản thứ 2 từ bút lục 38-40 không ghi địa điểm và cả 2 biên bản này đều
không ghi thời gian kết thúc. Cả 2 biên bản lấy lời khai này đều vi phạm quy
định tại khoản 1 Điều 133 của BLTTHS ảnh hưởng đến sự thật khách quan
của vụ án, cả 2 biên bản này đều có sự mâu thuẫn trong lúc lấy lời khai của
Anh Huy.
- Quyết Định đưa vụ án ra xét xử của Tòa Án Nhân Dân Thị xã Từ Sơn, tỉnh
Bắc Ninh thể hiện tại bút lục 123 -124, Chị Ngô Thị Yến, sinh năm 1985 vợ
2 BLTTHS là viết tắt của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự số 101/2015/QH13 ban hành ngày 27/11/2015 có hiệu lực thi
hành ngày 01/07/2016.


của Anh Thành là người có quyền và nghĩa vụ liên quan nhưng đã không
được lập biên bản lấy lời khai dẫn đến việc đánh giá chứng cứ, lấy lời khai
khơng được tồn diện, khách quan.
Hoạt động tố tụng của Viện Kiểm Sát, Tòa Án chưa đầy đủ:
- Viện Kiểm Sát Nhân Dân tỉnh Bắc Ninh đã không thông báo cho Viện Kiểm
Sát Nhân Dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh để cử kiểm sát viên thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra dẫn đến Viện Kiểm Sát Nhân Dân thị xã
Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh không tham gia nghiên cứu hồ sơ vụ án tiếp xúc một
cách toàn diện, ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án căn cứ theo Khoản 1

Điều 239 BLTTHS.
- Cáo trạng của Viện Kiểm Sát Nhân Dân tỉnh Bắc Ninh không ghi rõ hồ sơ
gồm bao nhiêu tập, bao nhiêu bút lục, khơng làm rõ được ngun nhân, mục
đích phạm tội, không xem xét việc xử lý vật chứng quy định tại Điều 243
BLTTHS.
- Quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa Án Nhân Dân thị xã Từ Sơn, tỉnh
Bắc Ninh ngày 28/12/2018 quá thời hạn không tuân thủ đúng thời gian tổ
tụng căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều 277 BLTTHS.
- Tịa Án đã khơng ban hành quyết định phân cơng thẩm phán chủ tịa phiên
tịa giải quyết vụ án căn cứ theo quy định Khoản 2 Điều 276 BLTTHS.
- Khơng có biên bản giao nhận Quyết định đưa vụ án ra xét xử giữa Tòa Án
cho bị cáo, Viện Kiểm Sát, người có quyền và nghĩa vụ liên quan, người bào
chữa căn cứ theo quy định tại Điều 286 BLTTHS.
Từ những căn cứ nêu trên có thể thấy Cơ quan cảnh sát điều tra, Viện Kiểm
Sát và Tịa Án đã có những vi phạm trong q trình điều tra, truy tố, chưa tồn diện
và đầy đủ, không tuân thủ đúng quy định của pháp luật cụ thể không tuân thủ đúng
thủ tục của BLTTHS làm ảnh hưởng lớn đến việc điều tra, truy tố vi phạm đến quy
định tại Điều 19, 20 BLTTHS.
Vấn đề thứ hai: Cơ quan tiến hành tố tụng chưa điều tra làm rõ được nội
dung của vụ án, cịn có những tình tiết chưa rõ ràng, đánh giá chưa đúng với sự thật
khách quan trong quá trình lấy lời khai:
- Chưa làm rõ được chính xác thời điểm vào làm việc của Liên và Trường.
Ông Thành khai Trường đến làm việc vào giữa tháng 6 năm 2018, Liên đến
làm việc vào cuối tháng 6 năm 2018 dựa theo bút lục số 42-44. Nhưng bút
lúc 88- 90 Liên lại khai khi đang làm thì Trường xin vào làm quản lý. Có sự
mâu thuẩn giữa lời khai Liên và Thành về mốc thời gian vào làm việc. Cơ
quan tiến hành tố tụng chưa làm rõ được tình tiết này để xác định Liên hay
Trường vào làm trước. Vì Liên là gái bán dâm tự do nên khả năng Liên đã



thỏa thuận với Thành là chủ quán Hana về việc bán dâm tại quán trước thời
điểm Trường vào làm.
- Chưa làm rõ Bắc là ai? Tại sao Trường lại có số điện thoại của Bắc? Theo
biên bản lấy lời khai thì Thành khai khơng biết Bắc là ai khơng có số điện
thoại của Bắc, cũng không dán số điện thoại tại quầy của quán Hana. Nhưng
tại bút lục số 94-96 Trường khai do Thành cung cấp. Có sự mâu thuẫn trong
lời khai của Thành và Trường nhưng vẫn chưa được làm rõ vì Thành là chủ
quán hưởng lợi trực tiếp từ hoạt động kinh doanh, còn Trường chỉ người làm
thuê cho Thành, không được hưởng lợi khi gọi Liên và Tâm đến bán dâm tại
quán Hana.
- Chị Nguyên là có phải là người thỏa thuận với Tâm đi bán dâm hay
khơng? Chị Ngun có liên quan gì tới số điện thoại của một người tên
Bắc? Số điện thoại dán tại quầy của quán Hana là của một người tên Bắc
nhưng chủ thuê bao lại là chị Nguyên và chị Nguyên khai đã làm mất số điện
thoại vào cuối tháng 6 năm 2018, tuy nhiên cơ quan điều tra chưa tiến hành
làm rõ việc này. Thời điểm xảy ra vụ án là vào ngày 05/07/2018 gần với mốc
thời gian mà chị Nguyên khai làm mất số điện thoại. Sau khi mất thì chị
Ngun tại sao khơng báo về nhà mạng? Chị Nguyên lại là người có mối liên
quan trực tiếp tới lời khai Tâm, tại bút lục số 57-61 chị Nguyên có khai Tâm
là nhân viên quán karaoke của chị Nguyên và không thỏa thuận với Tâm đi
bán dâm. Nhưng Tâm lại khai về việc thỏa thuận với chị Nguyên đi bán dâm
tại bút lục số 82- 87. Có mâu thuẫn trong lời khai giữa chị Nguyên và Tâm,
việc Tâm đi bán dâm tại quán Hana sau khi Trường gọi vào số điện thoại một
người tên Bắc có phải do sự chỉ đạo của chị Nguyên hay không? Cơ quan
điều tra chưa làm rõ về việc chị Nguyên có phải là Bắc khơng vì số điện thoại
của một người tên Bắc nhưng chủ thuê bao lại của chị Nguyên, theo lời khai
của Tâm thì chị Nguyên lại là người thỏa thuận với Tâm đi bán dâm. Đề nghị
Hội Đồng Xét Xử điều tra để làm rõ tình tiết này, xử lý đúng người, đúng tội.
- Quán Hana có gắn camera quan sát nhưng không được tiến hành giám
định, điều tra. Tại bút lục số 97-98 thì Trường khai tại qn có gắn camera

quan sát tuy nhiên cơ quan điều tra vẫn chưa tiến hành điều tra, trích xuất
camera tại quán Hana để làm rõ diễn biến, hay có các sự thỏa thuận khác giữa
Trường và Thành về công việc.
- Chưa làm rõ việc Thọ đã từng đến quán Hana mua dâm trước đó. Tại bút
lúc số 77 Thọ khai thỉnh thoảng có đến quán Hana mua dâm. Trong khi đó
Liên khai Liên bán dâm lần đầu tại quán Hana và Thành là chủ quán nhưng
lại khai không biết về việc mua dâm. Tình tiết này có ý nghĩa quan trọng để
xác định xem quán Hana có phải hoạt động chứa mại dâm trước khi Trường
đến làm việc hay không? Trường đang làm ngươi làm thuê và làm theo sự chỉ
đạo của Thành là chủ quán Hana.


Vấn đề thứ ba: Cáo trạng của Viện Kiểm Sát chưa làm rõ được nguyên
nhân, động cơ và mục đích phạm tội của bị cáo Tạ Văn Trường về tội chứa mại dâm
theo quy định Điểm d Khoản 2, Điều 327 BLHS.
- Chưa đảm bảo về mặt khách quan của tội chứa mại dâm: Tội phạm chứa
mại dâm được thể hiện ở hành vi chứa mại dâm với biểu hiện của hành vi là
cho thuê, cho mượn địa điểm như nơi ở, nơi làm việc, nhà hàng, quán trọ để
thực hiện hành vi mại dâm căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Nghị
định số 178/2004/NĐ-CP, "cho thuê, cho mượn địa điểm, phương tiện để
hoạt động mại dâm" là hành vi của tổ chức, cá nhân có quyền quản lý, chiếm
hữu, sử dụng hoặc định đoạt tài sản cho thuê, cho mượn để hoạt động mại
dâm. Trong khi đó người đứng tên chủ hộ kinh doanh quán Hana là Anh Ngơ
Văn Thành, bị cáo Trường hồn tồn khơng có quyền quản lý, chiếm hữu hay
sử dụng địa điểm để chứa mại dâm mà chỉ là người làm thuê. Vậy xét thấy về
mặt khách quan thì chưa đạt được về tội danh chứa mại dâm với bị cáo
Trường.
- Chưa làm rõ được động cơ, mục đích phạm tội của bị cáo: Động cơ, mục
đích có ý nghĩa rất lớn trong việc kết luận một người phạm tội, cụ thể ở đây
bị cáo Tạ Văn Trường khơng có động cơ vụ lợi cá nhân, số tiền mà Liên và

Tâm bán dâm đều tự thỏa thuận với khách và khơng có sự thỏa thuận chia lại
số tiền bán dâm cho Trường. Trong sự việc này bị cáo khơng được hưởng gì
từ khoản thu 150.000 đồng tiền phòng, bị cáo chỉ là người làm thuê cho
Thành và số tiền phòng thu được đều giao nộp cho chủ quán Thành. Trong vụ
án này, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cùng với lời khai của bị
cáo tại phiên tòa ngày hôm nay cho thấy Trường đã phạm tội chứa mại dâm,
nhưng khơng phải hồn tồn là do Trường chủ động việc này mà phải có sự
dẫn dắt chỉ đạo của một người khác, cụ thể đối tượng cần làm rõ ở đây là
Thành chủ quán Hana.
- Tội “chứa mại dâm 04 người trở lên” chưa phù hợp: Căn cứ theo Điểm d
Khoản 2 Điều 327 BLHS tội “chứa mại dâm 04 người trở lên” là không phù
hợp. Tại lúc sự việc bắt quả tang ngày 05/07/2018 tại quán Ha Na, chỉ có 02
người bán dâm là Tâm và Liên nên không được coi là “Chứa mại dâm 4
người trở lên”, nếu khơng có các tình tiết định khung khác thì anh Trường
chỉ phạm tội “chứa mại dâm” theo khoản 1 Điều 327 BLHS với khung hình
phạt tù từ 1 năm đến 5 năm nên việc Viện Kiểm Sát áp dụng Điểm d Khoản 2
Điều 327 BLHS là không thể hiện được đúng với bản chất của hành vi phạm
tội. Hội Đồng Xét Xử cần phải đánh giá đúng tính chất của hành vi phạm tội
của bị cáo, từ đó áp dụng đúng đắn các quy định của pháp luật vào việc giải
quyết vụ án.
Vấn đề thứ tư: Thời hạn tạm giam của bị cáo Tạ Văn Trường đã hết. Thời
hạn tạm giam theo lệnh tạm giam số 52/CSĐT vào ngày 11/7/2018 và Quyết định


phê chuẩn lệnh tạm giam của Viện Kiểm Sát Nhân Dân tỉnh Bắc Ninh ngày
08/07/2018 tạm giam bị cáo Tạ Văn Trường trong thời hạn 3 tháng 24 ngày từ ngày
12/07/2018 đến ngày 02/11/2018. Đến thời điểm đưa ra vụ án ra xét xử
(28/12/2018) đã hết thời hạn mà không ban hành quyết định gia hạn lệnh tạm giam
nhưng cơ quan tiến hành tố tụng không trả tự do cho Trường đã vi phạm quy định
tại Khoản 7 Điều 173 BLTTHS.

Với các phân tích như đã nêu trên, xét thấy vẫn còn nhiều vấn đề chưa được
làm rõ trong quá trình điều tra vụ án, các biên bản trong quá trình điều tra vi phạm
quy định BLTTHS nên khơng thể sử dụng làm chứng cứ vụ án. Mặc dù bị cáo Tạ
Văn Trường đã khai nhận hành vi của mình, tuy nhiên chưa thấy rõ được động cơ,
mục đích của bị cáo, bị cáo phạm tội dưới sự chỉ đạo của Thành hay ai vẫn chưa
được làm rõ dẫn đến lời khai của bị cáo, những người có quyền và nghĩa vụ liên
quan còn rất nhiều mâu thuẫn chưa được cơ quan điều tra làm rõ.
Tơi kính đề nghị Hội Đồng Xét Xử trả hồ sơ điều tra bổ sung, làm rõ vấn đề
như đã nêu trên theo Điểm c Khoản 6 Điều 326 BLTTHS.
Trên đây là quan điểm bào chữa của tôi cho bị cáo Tạ Văn Trường. Xin cảm
ơn Hội Đồng Xét Xử, quý đại diện Viện Kiểm Sát, luật sư đồng nghiệp và những
người tham dự phên tòa đã chú ý lắng nghe.
IV.

NHẬN XÉT TẠI BUỔI DIỄN ÁN

1.

Hình thức tổ chức buổi diễn án

2.

Về trình tự, thủ tục tố tụng

3.

Về các vai diễn trong buổi diễn án

3.1.


Thư ký phiên tòa

3.2.

Chủ tọa phiên tòa

3.3.

Hội thẩm nhân dân

3.3.1. Hội thẩm nhân dân 1

3.3.1. Hội thẩm nhân dân 2 – Lê Kim Yến


3.4.

Đại diện Viện Kiểm Sát

3.4.1 Kiểm sát viên 1 – Nguyễn Hữu Tín

3.4.2 Kiểm sát viên 2 – Bùi Mai Anh

3.5.

Về luật sư của bị cáo:

3.5.1. Luật sư thứ nhất của bị cáo Tạ Văn Trường

3.5.2. Luật sư thứ hai của bị cáo Tạ Văn Trường


3.6.

Về bị cáo Tạ Văn Trường

3.7.

Những người tham gia làm chứng phiên tịa:

3.7.1 Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Ngô Văn Thành

3.7.2 Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Ngơ Thị Yến

3.7.4 Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Phùng Thị Kim Liên


3.7.5 Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Lê Thị Thanh Tâm



×