Nhiếp ảnh Việt Nam nhìn từ xa
Tại Việt Nam, nếu một bức ảnh được gọi là đẹp thì đó quả là một lời khen
ngợi và chính cái đẹp là mục tiêu của tất cả những nhà nhiếp ảnh của đất nước này.
Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy nhiếp ảnh Việt Nam có mối liên
quan chặt chẽ với các ý niệm về không gian và bố cục của hội họa truyền thống.
Và hoàn toàn không phải ngẫu nhiên mà rất nhiều nhà nhiếp ảnh cho biết họ thỉnh
thoảng cũng vẽ tranh khi rảnh rỗi. Hơn hẳn các đồng nghiệp phương Tây của họ,
các nhà nhiếp ảnh Việt Nam không những quan tâm nhiều hơn đến sự cân bằng bố
cục mà còn khao khát điều đó. Vì vậy, nếu làm một phân tích nghiêm túc thì ta sẽ
thấy rõ sự hiện diện của cách bố trí các yếu tố hình ảnh theo Tỷ Lệ Vàng trong
mọi bức ảnh ở đây.
Cái
khoảng khắc quyết định
của Cartier-Bresson không hề tác động chủ
đạo trong nhiếp ảnh Việt Nam. Thay vào đó, linh hồn của nhiếp ảnh Việt Nam là
một ý thức sâu xa của cái tĩnh lặng. Thay cho những gì đang diễn tiến hoặc đang
thoáng qua
c
ốt lõi của cái biến động không ngừng, các nhà nhiếp ảnh ở đây lại
nỗ lực cho những điều vĩnh cửu và bất biến. Điều này đặc biệt thấy rõ ở những
người hâm mộ ảnh trắng đen bởi vì bản thân ảnh trắng đen vốn đã trừu tượng và
phi thời gian tính hơn là ảnh màu.
Nếu nhiếp ảnh là một ngôn ngữ thị giác thì nhiếp ảnh Việt Nam, giống như
chính tiếng Việt, không hề có chia thì (tense). Những gì đang xảy ra bây giờ có thể
đã xảy ra trong quá khứ và có khả năng sẽ xảy ra trong tương lai. Xét về cả khía
cạnh ngôn ngữ lẫn hình ảnh thì Thời Gian ở đây không đi theo đường thẳng mà
theo một vòng tròn.
Việc sắp xếp các yếu tố hình ảnh luôn hòa hợp chặt chẽ với những giềng
mối và cấu trúc hệ cấp của nền tảng chính trị lẫn tôn giáo truyền thống của Việt
Nam
nói cho cùng, đó là một nền tảng Khổng Nho. Cái cốt lõi quan trọng ấy tức
thì hiển hiện, sự tập trung của người xem được dẫn dắt rõ ràng. Mọi hình ảnh đều
chứa sẵn một cảm giác trật tự, không bị rối loạn bởi sự tranh chấp của nhiều yếu tố
thu hút thị giác. Đặc tính đồ họa đặc trưng của nhiếp ảnh Việt Nam chính là sự
tương quan giữa hình dáng với hình dáng hoặc giữa hình dáng với bối cảnh vật
chất, chứ không phải sự tương quan giữa hình dánh với mặt đất và khung hình như
quan niệm bố cục của phương Tây.
Thêm vào đó, các hình ảnh đều mang đậm tính biểu trưng (symbolic) và
chính đây là yếu tố gắn liền với một tính khí lãng mạc đặc thù cái tính khí ấy
khiến các nhà nhiếp ảnh Việt Nam có khuynh hướng hòa trộn những ý nghĩa
chung cho một sự việc riêng biệt.
Trong khi một nhiếp ảnh phương Tây có thể chụp một bức ảnh rất riêng tư
về người mẹ của mình với nội dung tự sự và qua cái riêng biệt hàm ý một cái
chung, các nhà nhiếp ảnh Việt Nam thường làm theo ngược lại. Thay vì chụp ảnh
người mẹ của chính mình (hầu hết các nhà nhiếp ảnh Việt Nam thường không
chụp ảnh người thân trong gia đình ngoại trừ chụp những bức ảnh kỷ niệm), họ lại
đi tìm một biểu tượng điển hình của tình mẫu tử và áp đặt một tựa đề Mẹ Tôi .
Hình ảnh này sẽ là một tái hiện mang tính biểu tượng qua đó cái riêng cũng được
công nhận. Hặc giả nhà nhiếp ảnh Việt nam có thể chụp chân dung một người
đứng tuổi để minh họa ý niệm về tuổi già thay vì dò tìm, chụp bắt những hình ảnh
đặc thù cho cá tính của cá nhân được chụp ảnh. Một hình ảnh được xem là có nội
dung biểu trưng mạnh gây được cảm xúc cho người xem thì được gọi là có chứa
đựng ngôn ngữ nhiếp ảnh .
John Szarkowski, nguyên giám đốc Phân hệ Nhiếp Ảnh tại Viện Bảo tàng
Nghệ Thuật Hiện Đại ở New York, khi viết về mỹ học và sự phát triển của nhiếp
ảnh trong cuốn Looking at Photographs đã kết luận rằng: Những bức ảnh
thường có vẻ như ngụ ý một điều hoàn toàn khác hẳn những gì mà bản thân sự
kiện chứa đựng nếu như chúng ta đã có mặt ngay lúc đó .
Điều này có thể là một quan điểm được công nhận rộng rãi ở phương Tây
nhưng không phải là một quan điểm được chia xẻ tại Việt Nam. Thực tế thì câu
trích dẫn trên chỉ phục vụ như một minh họa hữu dụng để thấy sự cách biệt giữa
các ý tưởng phương Tây và Việt Nam. Ở Việt Nam, bức ảnh chụp được xem là
bản sao của chính sự kiện, đưa cả người chụp lẫn người xem quay về với chính
diễn tiến đã thúc đẩy nhà nhiếp ảnh bấm máy. Như vậy có nghĩa là việc chụp ảnh
là một hành động ghi nhận
th
ậm chí là ghi nhận với định kiến có sẵn
hơn
là
một hành động cảm nhận; việc chụp ảnh sẽ mang tính xác định chứ không phải dò
tìm. Nếu có sự chuyển hóa nào đó thì sự chuyển hóa ấy nhằm làm cho hình ảnh
mang tính tâm linh hơn là mang tính thời gian.
Đặc điểm này thể hiện qua hai bằng chứng hiển nhiên. Thứ nhất, các hình
ảnh luôn luôn được hỗ trợ bằng những tựa đề đầy ngụ ý và định hướng. Việc đề
tựa được các nhà nhiếp ảnh Việt Nam hết sức coi trọng; một tựa đề phù hợp có thể
quyết định số phận một bức ảnh bình thường hay một bức ảnh đoạt giải trong các
cuộc thi. Trong khi việc một nhà nhiếp ảnh phương Tây đặt tên cho tác phẩm của
mình là vô đề (Untitled) là chuyện bình thường, nhà nhiếp ảnh Việt Nam hiếm
khi nào để mặc cho công chúng tự diễn dịch lấy những phụ chú. Một nhà nhiếp
ảnh phương Tây có thể xác định bức ảnh một địa danh chính xác nhưng điều này
lại hiếm xảy ra tại Việt Nam mặc dù các nhà nhiếp ảnh Việt Nam vốn có ý thức về
nơi chốn rất rõ ràng và cụ thể. Việc dùng một địa danh làm tựa đề thường được
xem là thừa hay là làm giảm giá trị tác phẩm.
Thứ hai, các bức ảnh chụp của các tác giả Việt Nam hiếm khi đề ngày chụp.
Tất nhiên các nhà nhiếp ảnh có khả năng sẽ lưu ngày tháng vào hồ sơ riêng nhưng
ngày giờ chụp không bao giờ đi kèm với chữ ký tác giả ở sau lưng bức ảnh mà
cũng không hề xuất hiện khi các tác phẩm ấy được in lại. Bằng cách ấy, những
hình ảnh sẽ được tách lìa khỏi vòng kềm tỏa của thời gian và có thể tồn tại mãi
mãi phi thời gian tính.
Phong cách cá nhân
và do đó bất kỳ yếu tố tác động khác thường nào,
vẫn là điều kém quan trọng hơn sự công nhận tập thể. Trong lúc các nhà nhiếp ảnh
phương Tây chú tâm nhiều hơn trong cách thể hiển sự khác biệt giữa những con
người và tính cách đặc thù của mỗi cá nhân thì các nhà nhiếp ảnh Việt Nam lại tận