Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Xã hội nhật bản dưới ảnh hưởng của nho, phật trung quốc thời phong kiến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.46 KB, 74 trang )

Trờng Đại học Vinh
Khoa lịch sử
-------***---------

Bùi THị THùy Linh

Khoá luận tốt nghiệp đại học
XÃ hội nhật bản dới ảnh hởng
của nho, phật Trung Quốc thời phong kiến

Chuyên ngành : lịch sư ThÕ giíi

Vinh - 2006
1


A. phần mở đầu

1. Lý do chọn đề tài
Trong những thập niên 70 đến 90 của thế kỷ XX có thể nói sự thành công
trong phát triển kinh tế và ổn định xà hội của Nhật Bản cũng nh các con rồng châu
á (Xingapo, Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc) đà thu hút đợc sự quan tâm
nghiên cứu của nhiều học giả. Tốc độ tăng trởng kinh tế vợt bậc và liên tục của các
quốc gia này đà khiến ngời ta hết sức thán phục. Theo đó một loạt câu hỏi đà đợc
đặt ra: Tại sao lại có "Hiện tợng thần kì Nhật Bản"? Tại sao Đài Loan, Hàn Quốc,
Xingapo, Hồng Kông có thể nhanh chóng hoá rồng? Và đặc biệt làm thế nào mà
các nớc này có thể duy trì sự cân bằng, hài hoà giữa sự phát triển cao về kinh tế và
ổn định xà hội mà không đánh mất đi những giá trị văn hoá truyền thống? Đó là
những câu hỏi lớn, phức tạp không dễ trả lời.
Xuất phát từ những góc độ tiếp cận khác nhau, ngời ta đà đa ra những
cách lý giải khác nhau. Tuy nhiên, một điều thú vị là cả Nhật Bản và bốn con rồng


châu á đều nằm trong khu vực lan toả của văn hoá Trung Hoa và đều chịu ảnh hởng mạnh mẽ của t tởng Nho giáo. Chính đặc điểm này đà mở ra cho các học giả
một hớng tiếp cận mới. Phải chăng là có mối liên hệ nào đó giữa văn hoá Nho giáo
với sự phát triĨn cđa c¸c qc gia, hay c¸c vïng l·nh thỉ nói trên? Việc nghiên
cứu theo hớng này của các học giả đà mang lại nhiều kết luận mới đáng chú ý,
mặc dù còn gây không ít tranh cÃi hiện nay.
Bên cạnh những mặt tiêu cực và hạn chế có thể nhận thấy đợc ngời ta đÃ
bắt đầu có sự xem xét đánh giá lại những giá trị của t tởng Nho giáo theo một
chiều hớng tích cực và khách quan hơn. Nhiều nhà nghiên cứu phơng Tây và các
nhà nghiên cứu Nhật Bản, Hàn Quốc, Xingapo thì cho rằng: Một trong những
nguyên nhân làm cho các quốc gia này phát triển nhanh và ổn định, đó chính là
nhờ họ đà biết phát huy đợc những mặt tích cực của t tởng Nho giáo trong di sản
văn hoá của đân tộc mình. Từ kết luận này, có thể thấy rằng việc tìm hiểu quá

2


trình du nhập, phát triển và ảnh hởng của Nho giáo đối với đời sống xà hội Nhật
Bản vẫn luôn mang một ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
Mặt khác, cũng nh nhiều quốc gia ở khu vực Đông Nam á và Đông Bắc
á, Nhật Bản cũng là một trong những mảnh đất mà Phật giáo bén rễ từ khá sớm.
Cho đến ngày hôm nay, khi Nhật Bản đà là một cờng quốc công nghiệp thì Phật
giáo vẫn chiếm một vị trí hết sức quan trọng đối với cộng đồng đân c trên đất nớc
này. Phật giáo hiện vẫn là tôn giáo lớn thứ hai ở Nhật Bản với số lợng tín đồ đông
đảo (hơn 90 triệu) và chỉ sau Thần đạo là tôn giáo bản địa của ngời Nhật. Đến với
Nhật Bản, chúng ta có thể thấy nhiều công trình kiến trúc, điêu khắc, nhiều phong
tục tập quán đặc trng của dân tộc này chịu ảnh hởng sâu sắc của t tuởng Phật giáo
và vẫn đợc duy trì trên đất nớc Nhật Bản hôm nay. Sức sống lâu bền cũng nh ảnh
hởng sâu sắc của Phật giáo đối với một đất nớc nh vậy quả cũng là một điều kì lạ.
Chính vì lẽ đó, việc tìm hiểu vấn đề này vẫn có sức hút đối với những ai muốn
hiểu thêm về nền văn hoá Nhật Bản.

Phật giáo và Nho giáo là những học thuyết triết học, học thuyết chính trịxà hội có nội dung t tởng sâu sắc và triết lý cao siêu. Trong suốt chiều dài của lịch
sử, Phật giáo và Nho giáo đà đợc truyền bá rộng rÃi và có ảnh hởng lớn đến đời
sống, văn hoá của nhiều quốc gia khu vực trên thế giới. Quá trình truyền bá Phật
giáo và Nho giáo cũng là một bộ phận của quá trình truyền bá và giao lu văn hoá
giữa các quốc gia, châu lục. Tìm hiểu quá trình du nhập, phát triển cũng nh ảnh hởng của Phật giáo và Nho giáo tới đời sống xà hội của một nớc láng giềng nh Nhật
Bản sẽ giúp chúng ta có đợc cái nhìn sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về vai trò của giao lu
văn hoá trong tiến trình phát triển của nhân loại.
Phật giáo, Nho giáo và lịch sử Nhật Bản là một phần quan trọng trong chơng trình học tập, nghiên cứu của sinh viên KHXH ở các trờng đại học cao đẳng.
Tìm hiểu về Phật giáo và Nho giáo trong lịch sử Nhật Bản sẽ giúp chúng ta hiểu
biết sâu sắc hơn về lịch sử và nền văn hoá giàu bản sắc của dân tộc này. Đồng thời
nó cũng là cơ sở để củng cố, phát triển mối quan hệ hữu nghị hợp tác giữa hai dân
tộc Việt Nam Nhật Bản và góp phần làm cho mối quan hệ đó ngày càng trở nên
bền vững h¬n.
3


Xuất phát từ những ý nghĩa nói trên, cộng với việc tiếp thu và kế thừa
những thành tựu khoa học của các tác giả đà và đang nghiên cứu về Phật giáo, Nho
giáo và Nhật Bản, tôi mạnh dạn chọn đề tài "XÃ hội Nhật Bản dới ảnh hởng của
Nho, Phật Trung Quốc thời phong kiến" làm khoá luận tốt nghiệp của mình dới sự
hớng dẫn của thầy giáo Hoàng Đăng Long.
2 . Lịch sử vấn đề và nguồn tài liệu.
Có thể nói, việc nghiên cứu Nhật Bản từ trớc đến nay đà thu hút đợc sự
quan tâm của khá nhiều học giả. Tuy nhiên, nghiên cứu về Nho giáo và Phật giáo
cũng nh ảnh hởng của nó đến đời sống xà hội Nhật Bản thời trung đại thì cha có
một tác phẩm chuyên khảo nào. Hầu hết các tác phẩm mới chỉ đề cập đén khía
cạnh này hay khía cạnh khác của vấn đề.
Cuốn "Bách khoa th Nhật Bản" cđa Richard Bowring & Peter Kornicki
®· giíi thiƯu cho ngêi đọc những nét đặc trng nhất về lịch sử Nhật Bản từ khởi
thuỷ đến nay, do đó các dữ liệu thờng chỉ có tính khái quát, vì thế việc xem xét

đánh giá ảnh hởng của Nho, Phật đối với xà héi NhËt B¶n cha thĨ hiƯn râ.
Cn “NhËt B¶n sư lợc của 2 tác giả Châm Vũ Nguyễn Văn Tần đÃ
đề cập một cách khái quát về lịch sử Nhật Bản cũng nh qua trình tiếp thu văn hoá
Trung Hoa của đất nớc này.
Cuốn Lịch sử Nhật Bản của G.Sansom (3 tập) đà đề cập đến toàn bộ
lịch sử Nhật Bản, đồng thời tác giả cũng trình bày khái quát sự du nhật của Phật
giáo vào Nhật Bản và việc Nhật Bản học tập cách thức tổ chức bộ máy nhà nớc của
Trung Hoa. Tuy nhiên, phần viết về ảnh hởng của Nho giáo và Phật giáo đối với
đời sống xà hội Nhật Bản còn mang tính hệ thống.
Cuốn Lợc sử văn hoá Nhật Bản của GB.Sansom (2 tập) đà trình bày
các giai đoạn phát triển lịch sử của Nhật Bản, trong đó tác giả đà đề cập tới một số
tôn giáo và nghệ thuật Nhật Bản. Đây là một cuốn sách đợc viết khá công phu và
là tài liệu tham khảo tốt cho việc viết luận văn.
Cuốn Lịch sử Nhật Bản của GS. Phan Ngọc Liên (Chủ biên) cũng đà đề
cập đến tiến trình phát triển của lịch sử Nhật bản từ thời nguyên thuỷ ®Õn nay.

4


Cuốn Kinh tế Nhật Bản Những bớc thăng trầm trong lÞch sư” cđa Lu
Ngäc TrÞnh chđ u tËp trung nghiên cứu các vấn đề kinh tế đặc biệt từ thời Minh
Trị đến xà hội hiện đại. Trong tác phẩm này, tác giả chỉ mới trình bày dới dạng
giới thiệu những ảnh hởng của văn hoá Trung Hoa đối với Nhật Bản, một số phân
tích về ảnh hởng của Nho giáo đối với xà hội Nhật Bản thời Tokugawa.
Cuốn Nho giáo và phát triển ở Việt Nam của GS.Vũ Khiêu trong chơng I có đề cập tới Nho giáo ở Nhật Bản một cách khái quát, trong đó tác giả chỉ
ra sự khác biệt giữa Nho giáo ở Trung Quốc và Nho giáo ở Nhật Bản, sau đó tập
trung phân tích ảnh hởng của Nho giáo đến sự phát triĨn kinh tÕ cđa NhËt B¶n chđ
u trong thêi hiƯn đại.
Ngoài ra, còn khá nhiều bài viết trên các tạp chí của các tác giả khác cũng
đà đề cập đến mặt này hay mặt khác của vấn đề.

Hai tác giả: Đỗ Công Định và Thích Minh Đăng với bài viết Đạo phật ở
Nhật Bản trên tạp chí Nghiên cứu Phật học số 4 2001 đà đề cập một cách
khá sinh động về quá trình truyền bá, phát triển đạo Phật của Nhật Bản.
Nguyễn Thị Thuý Anh với bài "Tác động của tôn giáo đến đời sống chính
trị Nhật Bản trong thập niên 90 của thế kỷ XX" trong tạp chí "Nghiên cứu Nhật
Bản và Đông Bắc á" số 3 2001 đà cho chúng ta một cái nhìn khái quát về ảnh
hởng của Phật giáo đối với chính trị Nhật Bản.
Hoàng Thị Thơ trong tạp chí Nghiên cứu tôn giáo số 1- 2001 với bài
Vài nét đặc trng của Phật giáo Thiền tông Nhật Bản đà giới thiệu những nét
đại cơng nhất về các tông phái Thiền ở Nhật Bản.
Phạm Đức Thành với bài Vai trò của Khổng giáo trong phát triển ở
đông á trong tạp chí Nghiên cứu Đông nam á số 4 2000 có đề cập dến
vai trò của nho giáo trong sự phát triển của đông á. Tác giả đà phân tích một số
ảnh hởng tích cực của t tởng nho giáo đối víi sù ph¸t triĨn kinh tÕ- x· héi cđa khu
vùc này, nhng chủ yếu trong xà hội hiện đại.
Cung Hữu Khánh với bài ảnh hởng của khổng giáo ở Nhật Bản giai
đoạn trớc thế kỉ XVIII trong tạp chí nghiên cứu Nhật Bản số 1- 1997 cũng đÃ
5


chỉ ra những tác động của đạo khổng đối với xà hội Nhật Bản trên một số lĩnh vực
nh thiết chế chính trị, giáo dục...
Nhìn chung, việc nghiên cứu Nhật Bản đà thu hút sự quan tâm của nhiều
học giả trong và ngoài nớc. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn cha có một công trình nào
đề cập một cách sâu sắc và toàn diện về vai trò của Phật giáo và Nho giáo đối với
đời sống xà hội Nhật Bản thời phong kiến. Do đó, trên cơ sở tập hợp t liệu và kế
thừa thành quả của các tác giả đi trớc, luận văn sẽ cố gắng làm sáng tỏ ảnh hởng
của Nho giáo và Phật giáo đối với xà hội Nhật Bản trong thời phong kiến.
3. Phạm vi nghiên cứu.
Là một sinh viên năm cuối, do khả năng và trình độ có hạn, đặc biệt là khả

năng sử dụng tiếng nớc ngoài trong việc su tầm tài liệu, nên trong khoá luận này
tôi giới hạn đề tài là XÃ héi NhËt B¶n díi ¶nh hëng cđa Nho, PhËt Trung Quốc
thời phong kiến. Ngay trong phạm vi này, do hạn chế về nguồn tài liệu, luận văn
chỉ tập trung tìm hiểu ảnh hởng của Nho giáo và Phật giáo đối với đời sống xà hội
Nhật Bản ở một số lĩnh vực nh: Chính trị, kinh tế, văn học, kiến trúc, điêu khắc,
hội hoạ, giáo dục, đạo đức. Tuy nhiên, để đảm bảo tính lôgic của vấn đề, ngoài
phần mở đầu, phần kết luận và phụ lục, luận văn cũng đề cập tới những vấn đề có
liên quan đến đề tài nh giới thiệu khái quát về đất nớc, con ngời Nhật Bản cũng
nh bối cảnh lịch sử của đất nớc này trớc khi Phật giáo và Nho giáo du nhập vào.
4. Phơng pháp nghiên cứu.
Để hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này, tôi đà sử dụng nhiều phơng pháp
nghiên cứu chuyên nghành của bộ môn đó là: Phơng pháp lôgic và phơng pháp
lịch sử. Ngoài ra, tôi cũng kết hợp các phơng pháp phân tích, so sánh, tổng hợp
Để làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu. Tuy nhiên, trong quá trình làm khoá luận,
chắc chắn không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Vì

vậy rất mong đợc sự

chỉ dẫn, góp ý của các thầy cô cũng nh tất cả các bạn sinh viên. Tôi xin chân thành
cảm ơn và tiếp thu những ý kiến đó.
5. Bố cục khoá luận.
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và mục lục, luận văn bao gồm 2 chơng:

6


Chơng 1: Quá trình du nhập, phát triển của Phật giáo và Nho giáo vào Nhật
Bản thời phong kiến.
Chơng 2: X· héi NhËt B¶n díi ¶nh hëng cđa Nho, PhËt Trung Quèc thêi
phong kiÕn.


7


B. Nội dung
Chơng I
quá trình du nhập, phát triển của phật giáo và nho
giáo vào nhật bản thời phong kiến

1. Vài nét khái quát về đất nớc và con ngời Nhật Bản.
1.1. Đất nớc Nhật Bản.
Nhật Bản là một quốc gia ở Đông Bắc Thái Bình Dơng thuộc miền cực
đông của lục địa châu á. Quần đảo Nhật Bản đợc tạo nên từ những vụ núi lửa cách
đây hàng triệu năm kéo dài từ vĩ tuyến 30 độ đến 45 độ Bắc, theo hình cánh cung
ôm lấy lục địa châu á. Nhật Bản bao gồm 4 đảo lớn: Hokkaido, Honshu, Kyushu,
sikoku và khoảng gần 4000 đảo nhỏ rải ra trên 3800 km. Theo nh kết quả nghiên
cứu của các nhà khoa häc cho biÕt, tríc kia NhËt B¶n vèn nèi liền với lục địa châu
á chứ không bị ngăn cách bởi biển nh ngày nay. Nhật Bản có thể liên lạc với châu
á lục địa qua 3 con đờng: Con đờng phía Bắc từ Đông xibia đến hokkaido qua
xakhalin; Con đờng phía Đông từ bán đảo Triêù Tiên đến honshu và con đờng
phía Nam từ đất Trung Hoa đến đảo kyushu qua Đài Loan và đảo ryukyu. Từ rất
lâu những con đờng này đà trở thành cầu nối giao lu văn hoá giữa Nhật Bản với thế
giới bên ngoài. Do bản thân là một quần đảo nên Nhật Bản hầu nh bị tách biệt với
thế giới bên ngoài đặc biệt là với đại lục (nhất là ở những buổi đầu của lịch sử).
Ngời ta thờng ví Nhật Bản nh là nớc Anh của châu Âu. Tuy nhiên, trờng hợp của
Nhật Bản khác so với nớc Anh. Trong khi Anh cách lục địa châu Âu chỉ có 31 km
thì mỏm cực Tây của Nhật cách Triều Tiên 117 km và phải vợt 800 km đờng biển
mới tới bờ biển Trung Quốc. Trong điều kiện kĩ thuật đóng thuyền còn hạn chế,
cộng thêm vào đó là bÃo tố thờng xuyên xuất hiện thì khoảng cách xa nh vậy của
Nhật Bản với lục địa quả là một trở ngại rất lớn cho việc giao lu giữa Nhật Bản với

lục địa, đặc biệt là Trung Quốc- một trong những trung tâm văn minh lớn cña thÕ
8


giới. Với vị trí địa lý đặc biệt đó đà giải thích vì sao mÃi đến thế kỉ IVVI thì
quan hệ giữa Nhật Bản với Triều Tiên, Trung Quốc mới đợc đẩy mạnh. Tuy vậy,
cũng cần phải thấy rằng bên cạnh mặt hạn chế ấy thì yếu tố địa lý đặc thù cũng là
nhân tố quan trọng giúp cho Nhật Bản có thể tiếp thu văn hoá Trung Quốc một
cách tự nguyện chứ không phải chịu áp lực quân sự hay xâm lợc. Nhật Bản, Triều
Tiên và Việt Nam là những quốc gia chịu ảnh hởng mạnh mẽ của văn ho¸ Trung
Qc, song do c¸ch biƯt víi Trung Qc nh vậy (800km đờng biển) nên ảnh hởng
của văn hoá Trung Quốc đối với Nhật Bản có khác so với ở Triều Tiên và Việt
Nam. Sự cách biệt ấy đà tạo ra một biên giới an toàn để ngời Nhật tự do lựa chọn
những gì mình muốn từ nền văn hoá rực rỡ của Trung Hoa và chính sự cô lập ấy
đà làm nảy nở những giá trị văn hoá có tính chất độc đáo, khác xa cái vay mựơn.
Có một số quan điểm cho rằng ngời Nhật chuyên đi bắt chớc, nhng sự thật thì ngợc lại. Tuy tiếp thu nhiều luồng văn hoá từ bên ngoài, song ngời Nhật đà biết sắp
xếp lại thành một tổng hợp mới khác hẳn và thích ứng nó với đặc điểm của dân
tộc mình.
Do các đảo của Nhật Bản chạy dài từ Bắc tới Nam tạo thành một vòng
cung dài (3800 km) nên khí hậu của hai miền Nam, Bắc rất khác nhau. Nhiệt độ
trung bình hàng năm ở cực Bắc Hokkaido là 6,50C, trong khi đó ở cực Nam
Kyushu là 170C. Mặc dù vậy, phần lớn đất đai của Nhật Bản đều nằm trong vùng
khí hậu ôn hoà. Có đợc điều này là do tác động của các dòng hải lu ở biển Thái
Bình Dơng và biển Nhật Bản. Nhìn chung khí hậu Nhật Bản thích hợp cho sự phát
triển của động thực vật và đời sống con ngời. Cũng nh nhiều miền ở châu á, Nhật
Bản cũng nằm trong khu vực chịu ảnh hởng của gió mùa trải rộng từ miền duyên
hải Xibia ở phía Bắc đến miền Đông Nam ấn Độ và cũng thuộc vùng nông nghiệp
trồng lúa nớc của miền Nam Trung Quốc và các nớc Đông Nam á. Khí hậu Nhật
Bản tơng đối ôn hoà, mùa hè nóng, mùa đông lạnh nhng không khắc nghiệt. Đất
nớc này nắng lắm ma nhiều, do đó có thảm thực vật phong phú, hoa trái bốn mùa

tơi tốt, cảnh quan và môi trờng sinh thái rất thuận lợi cho sức khoẻ con ngêi
[12,18].

9


Nếu nh thiên nhiên đà u ái khi ban tặng cho Nhật Bản một khí hậu ôn hoà
thì ngợc lại về tài nguyên, nó lại tỏ ra quá khắt khe với quốc gia này khi mà hầu
nh ở Nhật Bản không có nguồn tài nguyên, khoáng sản nào đáng giá. Có thể nói,
Nhật Bản là một quốc gia rất nghèo về tài nguyên. Điểm hạn chế đó đà ảnh hởng
khá lớn đến sự phát triển của Nhật Bản sau này, nhng phải chăng đây cũng là một
nhân tố để hình thành nên tính cách tiết kiệm của ngời Nhật? Mặt khác, đất đai
của Nhật Bản chủ yếu là đồi núi cằn cỗi không thích hợp cho sự phát triển của
nông nghiệp. ở đây diện tích đất canh tác chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ (khoảng
15%). Hơn nữa, việc không có đợc vùng châu thổ rộng lớn nh Ai Cập, Trung
Quốc, ấn Độ cũng là một hạn chế rất lớn cho Nhật Bản trong việc phát triển kinh
tế, nhất là trong điều kiện sản xuất nông nghiệp đóng vai trò chủ đạo. Mặc dù vậy,
việc phát triển kinh tế nông nghiệp vẫn đóng vai trò quan trọng trong đời sống của
c dân Nhật Bản cho đến đầu thế kỷ XIX. Đất đai cằn cỗi, diện tích canh tác ít, do
vậy để đáp ứng nh cầu lơng thực, thực phẩm cho mình, thì không còn cách nào
khác là ngời dân Nhật phải lấy sự cần cù, tiết kiệm để bù đắp vào những chỗ thiếu
hụt đó. Và phải chăng đây là một yếu tố góp phần định hình nên tính cần cù trong
lao động của ngời dân Nhật Bản?
Cũng do nằm trong khu vực cha ổn định của cấu trúc địa chất mà Nhật
Bản phải thờng xuyên hứng chịu những trận núi lửa, những cơn bÃo biển ghê
gớm. Có thể nói, Nhật là một quốc gia có nhiều động đất trên thế giới. Việc phải
thờng xuyên sống chung với động đất, núi lửa, bÃo biển đà có ảnh hởng không nhỏ
đến tính cách của con ngời Nhật Bản. Trong một bức tranh toàn cảnh, ngời ta có
cảm nhận dờng nh ở Nhật có sự đan xen, kết hợp của những điều tởng nh không
thể, những điểm trái ngợc nhau, nhng lại thống nhất trong một chủ thể tạo nên một

Nhật Bản rất riêng, rất độc đáo. Đó là đất nớc của những cảnh quan thiên nhiên
hùng vĩ và dữ dội, ngoạn mục nhng đầy biến động, đẹp nhng cũng hết sức khắc
nhiệt đối với con ngời. Có thể nói,những điều kiện ấy đà trở thành những chất xúc
tác quý giá tôi luyện nên con ngời Nhật Bản, tạo dựng nên ở họ những phẩm chất
đáng quý và một nền văn hoá đặc sắc không hề lẫn lộn với bất cứ quốc gia nào
nền văn hoá của đất nớc Mặt Trời mäc.
10


1.2 Con ngời Nhật Bản .
Nguồn gốc dân tộc Nhật Bản cho đến nay vẫn là một vấn đề gây tranh
cÃi .Ngời ta đà từng đa ra nhiều giả thuyết về tổ tiên của ngời Nhật. Tuy có những
điểm khác nhau giữa các giả thuyết, nhng hầu hết các ý kiến đêù tơng đối thống
nhất ghi nhận đặc tính nổi trội của Môgôlôid trong dòng máu ngời Nhật. Bên cạnh
đó, thông qua các kết quả nghiên cứu, so sánh về mặt văn hoá, các học giả đều
nhận thấy những bằng chứng có tính thuyết phục về mối liên hệ chặt chẽ giữa ngời
Nhật với cộng đồng c dân cổ xa định c ở vùng Đông Bắc á, Nam Trung Hoa cũng
nh Đông Nam á. Những điểm tơng đồng này có thể thấy từ phong cách chế tác
những dụng cụ cầm tay thời đá cũ, nét hoa văn trên các bình, vò gốm nguyên thuỷ,
những huyền thoại về văn hoá tộc ngời và những phong tục tập quán, ngôn ngữ,
âm nhạc, kiến trúc của c dân Nhật Bản với c dân các nớc trong khu vực [7,36]. Từ
những kết quả nghiên cứu liên ngành, trong những thập kỷ gần đây nhiều nhà
khoa học cho rằng: Ngay từ thời kỳ đồ đá cũ, con ngời đà đến sinh sống trên quần
đảo Nhật Bản con số chính xác là khoảng 400.000-500.000 năm [7,35] và tổ
tiên xa xa của ngời đà di c từ phía Bắc lục địa châu á xuống và có một bộ phận từ
miền duyên hải Nam á lên. Khảo cổ học đà chứng minh đợc rằng các nhóm c dân
săn bắt và đánh cá từ phía Đông Xibia di c sang phía Bắc nớc Nhật qua đờng
Hokkaido và Sakhalin. Nền văn hoá của họ lan toả tới trung tâm hòn đảo HonShu
và tới cả miền Kanto... Nhóm ngời này có thể là tổ tiên của tộc Ainu một dân
tộc hiện nay chỉ còn lại rất ít (khoảng 18.000 ngời) ở vùng cực Bắc đảo Hokkaido

và Sakhalin. Còn các nhóm c dân có phơng thức sản xuất chính là trång lóa níc
cã thĨ tõ miỊn Nam Trung Hoa, miỊn Đông Dơng di c vào Nhật qua đảo Đài Loan
và các đảo Ryukyu vào thời kì đồ đá mới [12,23] .
Nh vậy, có thể nhận định rằng : Dân tộc Nhật Bản là một tạp chủng đÃ
hình thành trong thời kỳ tiền sử bởi nhiều thành phần, từ nhiều địa phơng ở châu á
du nhập vào ở những thời điểm khác nhau. Trải qua quá trình sinh sống lâu dài đÃ
có sự hoà đồng giữa các cộng đồng dân c đến sau với những thổ dân đến trớc hình
thành nên dân tộc Nhật Bản. Ngày nay, trên các quần đảo Nhật Bản, 123 triệu dân
11


Nhật là một dân tộc thống nhất với những truyền thống văn hoá, phong tục tập
quán, tôn giáo, tâm lý xà hội riêng biệt và độc đáo [12,23].
Nói chung văn hoá của một bất cứ dân tộc nào cũng có nét riêng biệt độc
đáo, nhng đối với trờng hợp Nhật Bản, những nét đặc trng trong văn hoá của họ
mang sắc thái khá rõ ràng và đồng nhất. Có thể kiểm định điều đó qua lịch sử hay
quan sát trong những sinh hoạt hiện tại [25,19]. Xuất phát từ nhiều góc độ tiếp cận
khác nhau, các nhà nghiên cứu có thể nhấn mạnh mặt này hay mặt kia, đặc điểm
này hay đặc điểm khác, nhng nhìn chung là khá thống nhất, mặc dù để đi đến giải
quyết đợc vấn đề bản sắc của văn hoá Nhật Bản là gì thì đòi hỏi phải có những
công trình nghiên cứu công phu của nhiều chuyên gia. Song tựu trung lại có thể
thấy một số đặc trng nổi bật sau đây:
Thứ nhất: Đó là tính hiếu kì và nhạy cảm đối với văn hoá nớc ngoài. Về
điều này, giáo s Vĩnh Sính đà đa ra những nhận xét hết sức sắc sảo "Có thể nói
rằng không có một dân tộc nào nhạy bén về văn hoá nớc ngoài cho bằng ngời
Nhật. Họ không ngừng theo dõi những diễn tiến trên thế giới bên ngoài, đánh giá
và cân nhắc ảnh hởng của những trào lu và xu hớng chính đối với Nhật Bản. Một
điều đáng chú ý khác là khi họ biết trào lu nào đang thắng thế thì họ có khuynh hớng chấp nhận, học hỏi, nghiên cứu để bắt kịp trào lu đó, không để mất thời cơ"
[25,20].
Trong lịch sử Nhật Bản có hai thời điểm hết sức quan trọng phản ánh nét

đặc trng này. Vào thế kỷ VII VIII và nưa sau thÕ kû XIX, khi nhËn thÊy Trung
Qc díi thời nhà Đờng và phơng Tây là trung tâm văn hoá, khoa học tiên tiến thì
ngay lập tức Nhật Bản đà gửi các đoàn học giả, s tăng và du học sinh sang các nớc
đó để học tập. Đặc biệt, họ còn cho mời những ngời nớc ngoài có trình độ cao để
sang giúp họ xây dựng và canh tân ®Êt níc. Tinh thÇn thùc dơng, tÝnh hiÕu kú, ãc
cÇu tiến của ngời Nhật là động lực quan trọng giúp họ có thể đuổi kịp các nớc tiến
tiến. Mặc dù rất nhạy cảm đối với văn hoá nớc ngoài, song ngời Nhật rất có ý thức
về tài sản văn hoá của họ. Họ học tập nớc ngoài, nhng không phải bắt chớc một
cách nguyên xi mà là tiếp thu có chọn lọc và chủ động biến nó thành cái của mình,
phù hợp với dân tộc mình. Vừa nhạy cảm và sẵn sàng tiếp thu văn hoá nớc ngoài,
12


vừa cố gắng bảo tồn văn hoá truyền thống của dân tộc, đó chính là hai dòng chủ lu
trong văn hoá Nhật Bản.
Thứ hai: Ngời Nhật hết sức tôn trọng thứ bậc và địa vị. ý thức tôn trọng thứ
bậc có lẽ đà có từ lâu trong đời sống của ngời Nhật, bằng chứng là các sử liệu
Trung Quốc dựa trên sự quan sát của các sứ thần đến thăm Nhật Bản, biên soạn
vào cuối thế kỷ III có ghi lại: "Khi ngời ở tầng lớp thấp gặp ngời ở tầng lớp cao thì
họ tránh khỏi đờng và bớc ra chỗ cỏ. Nói với ngời trên thì phải ngồi bệt hoặc quỳ,
hai bàn tay chống xuống đất. Đó là cách tỏ lòng cung kính" [22,39]. Thái độ
nhún mình hoặc khúm núm trớc ngời có địa vị, quyền chức đợc đặc biệt nhấn
mạnh trong hơn 250 năm dới thời Tokugawa. Vào thời kỳ này, xà hội Nhật Bản đợc chia làm 4 giai cấp: Sĩ (võ sĩ), nông, công, thơng dựa trên quan niệm xà hội của
Nho giáo. Ngày nay, ý thức tôn trọng thứ bậc vẫn đợc thể hiện trong cuộc sống
hàng ngày, từ vị trí ngồi trong phòng họp, trong các buổi tiệc tùng Không ai bảo
ai, tất cả đều biết chỗ nào mình có thể ngồi mà không đi ngợc lại trật tự thứ bậc.
Trong cách ăn nói, giao tiếp hàng ngày cũng vậy, đối với ngời lớn tuổi hay ngời có
địa vị thì phải dùng ngôn ngữ kính trọng; Khi nói về mình và những ngời trong gia
đình mình thì phải dùng ngôn ngữ khiêm tốn. Ngời nào nói không đúng cách có
thể bị xem nh là ngêi thiÕu häc [25,24].

Thø ba: Ngêi NhËt cã tÝnh céng ®ång rÊt cao. Céng ®ång, tËp thĨ ®ãng mét
vai trß hÕt søc quan träng trong ®êi sèng cđa ngêi NhËt. Một trong những việc
cấm kỵ nhất đối với họ là làm mất danh dự của tập thể, của cộng đồng. Trong mọi
hoạt động, ngời Nhật thờng gạt "cái tôi" lại để đề cao cái chung, tìm sự hoà hợp
giữa mình và những thành viên khác trong một tập thể, trong cộng đồng. Giải
thích về tính cộng đồng cao của ngời Nhật, có ngời cho rằng đó là do những điều
kiện thiên nhiên dữ dội của Nhật làm cho ngời Nhật phải đề cao cộng đồng tập
thể, có ngời lại cho "đó là hệ quả của sự kết hợp giữa t tởng Khổng giáo với Thần
đạo" [12,25]. Còn Ruth Benedict nhà dân tộc học ngời Mỹ thì cho rằng: "Đạo
đức phơng Tây dựa vào ý thức cá nhân nhận thấy mình có tội với chúa, do đó xng
tội hay thú tội là nhẹ ngời, còn đạo đức Nhật Bản và một số nền văn hoá khác lấy
13


động cơ hổ thẹn, sợ xà hội chê bai là chính chứ không phải tự lơng tâm cắn rứt, do
đó các nhân gắn chặt với chuẩn mực xà hội" [15,109].
Thứ t : Ngêi NhËt cã thãi quen sèng thanh b¹ch, giản dị, gần gũi với thiên
nhiên. Có thể nói không ngoa rằng họ đà học đợc nghệ thuật sống thanh bạch,
giản dị và điều này đợc thể hiện trong các món ăn hàng ngày, trong lối kiến trúc
nhà cửa Tất cả đều là những vật liệu hết sức quen thuộc nh gỗ, tre, rau, cá
Ngời Nhật cũng rất gắn bó với thiên nhiên. Tình cảm gắn bó với thiên nhiên của
họ có sắc thái tín ngỡng và tôn giáo trong tiềm thức dân gian. Ngời Nhật cho cây
cối, loài vật đều có quỷ thần nên phải tôn thờ. Đến nay, dân Nhật còn giữ những
lễ hội gắn với thiên nhiên, xuất phát từ sinh hoạt nông nghiệp theo mùa (lễ hội cấy
lúa vào tháng 4, lễ hội cơm mới vào tháng 10). Ng ời Nhật cũng có tục lệ ngắm
hoa Anh đào, hoa Mẫu đơn, hoa sen, hoa cúc, hoa Asagaô Núi non đối với ngời
Nhật cũng gần gũi chứ không đáng sợ. Họ quan niệm rằng đó là những nơi thanh
bình, yên tĩnh, trong lành, nên thơ. Chính vì vậy, ở Nhật Bản từ "San" nghĩa là núi
thờng gắn với tên các tu viện hoặc các ngôi đền thiêng liêng.
Thứ năm: Ngời Nhật có óc thẩm mỹ rất cao. ấn tợng ban đầu của du khách

khi đến thăm Nhật Bản đó là sự ngạc nhiên và thán phục về óc thẩm mỹ của ngời
Nhật. Từ cách bày biện đồ ăn thức uống, nhà cửa, trang hoàng sách vở, báo chí,
hàng quán, cho đến các đền chùa đều khiến cho ngời đến thăm mơ màng về một
thuở xa xa. Gian phòng trà đạo nhỏ nhắn, đơn sơ, phảng phất mùi Thiền mà ở đó
thời gian nh ngừng lại, hay những khu vờn lát đá la tha với những phiến đá không
xếp thành hàng, bao quanh là rêu phong, cỏ dại khiến cho khách bớc qua có cảm tởng nh mình ®ang l×a câi tơc. NÐt chung nhÊt trong ãc thÈm mỹ của ngời Nhật là
coi trọng cái duyên dáng, tế nhị bên trong hơn là cái tráng lệ bên ngoài. Vờn
Thiền một công trình nghệ thuật độc đáo thấm đợm óc thẩm mỹ tinh tế của ngời Nhật là một ví dụ điển hình. "Đó là một loại hình điêu khắc trên mặt đất, tôn
trọng mặt đất nguyên thuỷ Thiên nhiên ở đây đợc nghệ thuật sắp xếp lại mang ý
nghĩa tợng trng. Một gốc cây, một hòn đá, một vũng nớc hay một cái thác nhỏ
cũng đủ gợi lên một hình bóng cả vũ trụ". [12,30]. Nghệ thuật trà đạo nổi tiếng
14


của Nhật Bản thể hiện sự hoàn thiện óc thẩm mỹ và tâm tính ngời dân xứ sở Mặt
Trời mọc. Phòng trà phải hẹp, thể hiện sự khiêm tốn, các đờng nét phải giản dị,
trang trọng, vật liệu thông thờng là tre và các thứ bình thờng khác. Khi thởng thức
trà, thể xác và tâm hồn phải trong sạch (tĩnh tâm) theo tinh thần của Thiền và Thần
đạo. óc thẩm mỹ của ngời Nhật không chỉ biểu hiện qua các sự vật hiện tợng bên
ngoài mà quan trọng hơn là thể hiện trong nhân sinh quan của họ. Giáo s Vĩnh
Sính đà nhận định "có lẽ ngời Nhật xem công việc của họ không những là một
hoạt động kinh tế mà còn là một hoạt động thẩm mỹ" [25,25].
Tóm lại, những đặc trng nêu trên chắc chắn cha thể khái quát hết cái gọi là
bản sắc văn hoá Nhật. Tuy nhiên, đây là những đặc trng nổi bật dễ nhận thấy khi
xem xét lịch sử Nhật Bản. Có nhiều tác giả đà tìm cách giải thích "tính độc đáo
Nhật Bản" bằng những yếu tố kinh tế, xà hội, địa lý, lịch sử, chủng tộc Song thật
khó để khẳng định nhân tố nào đóng vai trò quyết định. Có lẽ chính sự tác động
tổng hợp của các nhân tố đó đà tạo nên một "tính cách Nhật Bản", một nền văn
hoá truyền thống hết sức độc đáo và đến lợt mình, những nhân tố độc đáo ấy đÃ
góp phần xây dựng một nớc Nhật hùng cờng. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử,

bản sắc dân tộc Nhật Bản vẫn giữ gìn và phát huy cho đến tận hôm nay. Bên cạnh
nền văn minh hiện đại, ngời Nhật vẫn luôn tôn trọng những giá trị độc đáo của nền
văn hoá cổ truyền. Phải chăng bản sắc dân tộc trong đời sống xà hội nói chung,
trong nền văn hoá truyền thống nói riêng đà góp phần tạo nên sức mạnh cho nớc
Nhật nhanh chóng bớc lên con đờng giàu mạnh, văn minh?
2. Qúa trình du nhập, phát triển của Phật giáo và Nho giáo vào Nhật
Bản thời phong kiến.
2.1. Tình hình Nhật Bản trớc khi Phật giáo và Nho giáo du nhập.
Theo truyền thuyết, nớc Nhật Bản đợc thành lập từ năm 660 TCN khi Thiên
hoàng Jimmu (Thần Vũ) thuộc dòng dõi của thần mặt trời Amaterasu lên ngôi.
Jimmu là ngời đầu tiên dựng lên nớc Nhật Bản và là vị Thiên hoàng thứ nhất của
đất nớc này. Các biên niên sử đà ghi lại sự việc Jimmu trở thành Thiên hoàng nh
15


sau: "Trong nhiều năm nhà vua này đà đánh thắng và bình định đợc các bộ lạc mà
ông ta gặp trên đờng tiến của mình và đà trở thành chủ nhân của Yamato. ở vùng
này, ông xây dựng một cung điện ở đó ông ăn mừng cuộc chinh phục của mình
bằng những cuộc tế lễ Nữ thần Mặt Trời vào ngày 11 tháng 2 năm 660 TCN"
[22,37]. Nhng tất nhiên ®ã lµ mét ngµy hoµn toµn dùa vµo trun thut và hiện
nay đà hoàn toàn bị các nhà sử học bác bỏ. Những thành tụ của khoa học liên
nghành cho phép ta dựng lại tiến trình phát triển của lịch sử Nhật Bản từ buổi đầu,
dù rằng còn khá sơ sài.
Cách đây khoảng 400.000-500.000 năm, trên dất nớc Nhật Bản đà có con
ngời sinh sống. Điều chắc chắn là dấu vết của thời đại đồ đá đà đợc các nhà nhà
khảo cổ học phát hiện có niên đại từ 30.000-10.000 năm trớc đây. Nền văn hoá đồ
đá giữa và nền văn hoá đồ đá mới bắt đầu từ khoảng 8.000 -7.500 TCN đà đợc tìm
thấy ở nhiều nơi trên đất nớc Nhật Bản. Những di chỉ khảo cổ tìm thấy trong nền
văn hoá Jômôn (thế kỷ V-I TCN) cho thấy hoạt động kinh tế chủ yếu của thời kỳ
này là săn bắn, đánh cá và hái lợm. Con ngời cũng đà biết dựng lều để ở bằng cách

đào nền sâu xuèng mét Ýt råi c¾m cäc xung quanh, che cá bên ngoài [12,35].
Thời kỳ Jômôn, ngời ta cũng biết làm đồ gốm bằng đất nung nhng không có
men, hình dáng thô sơ và đợc trang trí bằng hoa văn nh dây thừng xoắn, do vậy tên
gọi Jômôn đợc đặt cho nền văn hoá này. Văn hoá Jômôn tồn tại trên khắp quần
đảo Nippon và đây là nền văn hoá thực sự của ngời Nhật Bản.
Sang thế kỷ III TCN, trên phần lớn lÃnh thổ miền Nam Nhật Bản đà xuất
hiện một nền văn hoá cao hơn Nền văn hoá Yayoi. Nền văn hoá này tồn tại đến
khoảng thế kỷ III sau công nguyên. Yayoi là xà hội nông nghiệp trọn vẹn đầu tiên
trên quần đảo này. Đồ gốm đợc nung một cách cẩn thận, thờng nhẵn và có màu
nâu tơi, không có hoa văn, nhng đà đợc làm trên bàn xoay với hình dáng cân đối,
tinh tế mà giản dị. Đặc biệt hơn, ngoài đá mài thì c dân nông nghiệp Yayoi đà bắt
đầu biết sử dụng những công cụ bằng đồng và sắt để nâng cao sản xuất.

16


Cùng với sự phát triển nhanh chóng của sức sản xuất, trong xà hội đà xuất
hiện của cải d thừa, từ đó làm nảy sinh chế độ t hữu. Việc tập trung của cải ngày
càng nhiều vào tay một số ngời đà dẫn đến hiện tợng phân hoá xà hội sâu sắc và
trong những thế kỷ đầu công nguyên ở Nhật Bản đà diễn ra quá trình tan rà của
chế độ công xà nguyên thuỷ và giai cấp xuất hiện. Những hình thức phôi thai của
nhà nớc bắt đầu ra đời ở miền Tây Nhật Bản. Qua các th tịch cổ của Trung Quốc
ngời ta đà biết rằng vào khoảng giữa thế kỷ I, một tiểu quốc đầu tiên đà đợc hình
thành ở miền bắc đảo Kyushu. "Địa lý chí" trong sách" Hán th" có chép "Trong
biển Lạng LÃng có ngời Nuynô, chia làm hơn trăm nớc"[12,37]. Tuy nhiên chữ "nớc" đợc chép ở đây về thực chất chỉ là các bộ lạc hoặc liên minh bộ lạc đợc hình
thành trong quá trình thôn tính lẫn nhau .Từ thế kỷ II trở đi, sự xung đột giữa các
bộ lạc xảy ra thờng xuyên hơn, làm cho các bộ lạc này hoặc hoà nhập lại hoặc phụ
thuộc vào nhau. Đến đầu thế kỷ III đà xuất hiện những nớc tơng đối lớn với hàng
nghìn, hàng vạn hộ, trong đó lớn mạnh nhất là nớc Yamatai do nữ vơng Himico
thống trị. Tuy nhiên, về sau này nó đà bị một tiểu quốc khác hùng mạnh hơn là

Yamato chinh phục.
Khoảng cuối thế kỷ IV, ở miền Tây Nam đảo Honshu đà xuất hiện vơng
quốc Yamato (Đại Hoà). Nhà nớc Yamato hình thành là kết quả của quá trình
chinh phục, chiếm đoạt đất đai của nhiều tiểu quốc và cử sứ thần sang Trung Quốc
cầu phong. Đến thế kỷ V, Yamato đà thống nhất đợc cả Nhật Bản. Tuy nhiên, về
thực chất Yamato mới chỉ là một nớc sơ khai, một liên minh các thÞ téc víi sù tËp
trung u thÕ kinh tÕ, chÝnh trị, tôn giáo vào thị tộc Thiên hoàng, do đó mối quan hệ
giữa các thị thị tộc còn hết sức lỏng lẻo.
Về mặt xà hội: Yamato chia c dân ra thành các tầng lớp khác nhau: đại
nhân, hạ hộ, bộ dân và nô lệ, trong đó bộ dân là tầng lớp khá đông đảo trong xÃ
hội Yamato. Tầng lớp này xuất hiện vào khoảng thế kỷ III, khi sự phân hoá xà hội
và chế độ t hữu tài sản bắt đầu phát triển. Một bộ phận hết sức quan trọng của bộ
dân là những ngời Trung Quốc và Triều Tiên do chiến tranh loạn lạc hay vì cuộc
sống đà di c đến Nhật Bản. Những ngời này đà trải qua nền văn hoá có trình độ
17


cao hơn rất nhiều so với nền văn hoá Nhật Bản khi đó nên họ đóng một vai trò rất
lớn trong việc truyền bá văn hoá và kỹ thuật tiến tiến vào Nhật Bản.
Trong thời gian tồn tại của Yamato có một sự kiện vô cùng quan trọng đÃ
xảy ra. Vào năm 391, Yamato đà đa quân xâm lợc Triều Tiên và chiếm đóng mỏm
đất phía Nam có tên gọi là Mimana (hay Nhiệm Na). Việc Nhật Bản chiếm đóng
Mimana của Triều tiên trong một khoảng thời gian dài có ý nghĩa rất lớn đối với
quan hệ giao lu văn hoá giữa Nhật Bản và các nớc bên ngoài, nhất là với Triều
Tiên và Trung Quốc. Văn hoá, kỹ thuật của Triều Tiên đợc du nhập ngày càng
mạnh mẽ vào Nhật Bản. Thông qua Triều Tiên, Nhật Bản cũng mở rộng giao lu,
tiếp xúc với Trung Quốc. Triều đình Yamato ngoài việc cử các phái bộ sang Trung
Quốc còn cho mời nhiều ngời Trung Quốc, Triều Tiên sang ở hẳn bên Nhật để
truyền bá kỹ thuật và văn hoá, do đó ảnh hởng của văn hoá Trung Quốc với Nhật
Bản ngày càng mạnh mẽ. Bắt đầu từ đây, ảnh hởng của văn hoá Trung Quốc

không còn phụ thuộc vào Triều Tiên nữa mà đà có thể du nhập trực tiếp sang Nhật
bởi các nhân viên kỹ thuật, các phái đoàn ngoại giao của Trung Quốc gửi đến, hay
các phái đoàn cđa NhËt B¶n gưi sang Trung Qc du häc. Con đờng giao lu văn
hoá Trung Nhật đang ngày càng đợc mở rộng. Đây chính là một nhân tố vô
cùng quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của xà hội Nhật Bản, từ đó
chuyển xà hội Nhật Bản sang một giai đoạn lịch sử mới. Sự phát triển của nội tại
bên trong cùng với những tác động của các yếu tố đến từ Trung Quốc, Triều Tiên
đà làm cho xà hội Yamato có những chuyển biến mạnh mẽ.
Từ thế kỷ VI trở đi, các quý tộc không ngừng bành trớng thế lực của mình
bằng cách xâm chiếm đất công làm của riêng và biến dân tự do thành bộ dân.
Chính vì vậy, mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị trong xà hội
Yamato ngày càng gay gắt. Bên cạnh đó, trong cuộc cạnh tranh để tăng cờng thế
lực thì mâu thuẫn giữa các dòng họ thống trị cũng đà bùng nổ. Tiêu biểu là cuộc
đấu tranh giữa 2 dòng họ Sôga và Mônônôbê. Chính những mâu thuẫn trên đà làm
cho Yamato bị chia rẽ và suy yếu. Đây chính là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự
thất bại của quân đội Yamato ở Triều Tiên. Mỏm đất Mimana ở phía nam của
18


Triều Tiên bị Yamato chiếm từ năm 391 đà bị rơi vào tay Silla năm 562 và từ đây
Yamato bị mất chỗ đứng ở Triều Tiên. Cũng trong thời gian này, Trung Quốc dần
dần đợc thống nhất lại dới nhà Tuỳ. Sự lớn mạnh của nhà Tuỳ đà trở thành mối đe
doạ đối với Yamato. Nhu cầu cấp thiết đặt ra cho Yamato lúc này là phải xây dựng
đợc một bộ máy nhà nớc tập trung thống nhất và nhà Tuỳ là một tấm gơng, một
khuôn mẫu hoàn chỉnh mà Yamato cã thĨ häc tËp. ChÝnh v× vËy, viƯc tiÕp thu, học
hỏi những tinh hoa của văn hoá Trung Quốc đối với Yamato đà trở nên cấp thiết
và là sự lự chọn của giới cầm quyền ở đây.
Về mặt tín ngỡng: Trớc khi Phật giáo và Nho giáo du nhập vào Nhật Bản,
ngời Nhật cũng có tín ngỡng bản địa của mình. Tín ngỡng này lúc đầu cha có tên
gọi, chỉ sau khi Phật giáo du nhập thì tên gọi Shinto (Thần đạo) mới xuất hiện để

phân biệt nó với tôn giáo ngoại lai. Nói đến Shinto là nói đến thế giới thần thánh,
đó là thế giới thần quyền có tác động đến số phận của con ngời trong một xà hội
nông nghiệp. Thế giới đó ngăn cách hoá bằng các thần núi, thần sông, thần lửa,
thần nớc, thần ma, thần gió
Đối với ngời dân Nhật Bản, thế giới thần thánh là biểu hiện tình cảm cao
quý của họ. Về mặt nào đó mà nói, tình cảm giống nh tín ngỡng đa thần của ngời
La MÃ và Hy Lạp cổ đại. Đó cha phải là tôn giáo với những giáo lý có nguồn gốc
nh lịch sử đạo Phật, đạo Kitô hay đạo Hồi, nó không có ngời sáng lập, không có
kinh thánh, không có thầy tu, không có kẻ tử vì đạo, không có các vị thánh thần có
tên tuổi cụ thể.
Có thể coi đây là một hình thái tín ngỡng tự nhiên, xuất phát từ nhận thức
cho rằng tất cả mọi vật đều có linh hồn, đều có đời sống tình cảm. Những biểu
hiện của tự nhiên lớn hay nhỏ đều có sự hiện diện của thánh thần (Kami). Do vậy,
trong Nihongi (Nhật Bản th kỷ) đà viết: "ở mảnh đất trung tâm của đồng bằng lau
sậy này có vô số Kami, chúng toả sáng rực rỡ nh đom đóm, còn Kami ác thì kêu
vo vo nh ruồi. ở đó có cả loài cây và các loài cỏ, tất cả đều có thể nói đợc"
[8,207].

19


Từ những ý nghĩa trên ta thấy tín ngỡng Thần đạo ở Nhật Bản cũng có nhiều
điểm giống các dân tộc khác ở giai đoạn sơ khai. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy
rằng, Thần đạo vẫn có những đặc trng hết sức riêng biệt và do đó, nó là một tôn
giáo riêng của Nhật Bản trong thời cổ đại. Đặc trng riêng ấy chính là sự quan tâm
đặc biệt đến sự trong sạch của nghi lễ. Những cái xúc phạm đến Thần thì tiếng
Nhật ngày xa gọi là Tsumi (tội). Tránh đợc những tội ấy thì gọi là Imi (trai), có
nghĩa là kiêng giữ. ở Nhật Bản có phờng Imibe gồm những ngời ăn kiêng chuyên
nghiệp. Nhiệm vụ của họ là giữ gìn trai tịnh sạch sẽ để khi gần các Thần sẽ không
làm xúc phạm đến Thần. Điều cần phải tránh trớc hết là sự bẩn thỉu. Đối với Thần

đạo, ngời bẩn là điều tối kỵ, muốn tế lễ phải tắm rửa, thay quần áo sạch sẽ. Giao
hợp, hành kinh, sinh đẻ, bệnh tật, vết thơng, cái chết đều bị coi là bẩn và là nguồn
gây bệnh. Do đó, khi tiến hành nghi lễ tất cả những ai vi phạm vào những điều
cấm kỵ ở trên đều tuyệt đối không đợc tham gia. Sử liệu Trung Quốc đà ghi nhận
việc để tang ở Nhật rất ngắn, sau khi đa tang thì cả gia đình xuống sông, hồ tắm để
tẩy uế. Thậm chí đến thế kỷ VIII, khi nhà vua chết thì Kinh đô hay ít ra là cung
điện dọn đi nơi khác [22,61]. Việc tẩy uế đợc thực hiện bằng các phơng pháp khác
nhau nh trừ tà, tẩy uế và trai giới.
Ngoài ra, trong tín ngõng Thần đạo, ngời Nhật đặc biệt tôn thờ Nữ thần Mặt
Trời Amatêrasu. Amatêrasu đợc xem là ngời đứng đầu 800 vạn thần dân của vũ trụ
và thiên hà. Về sau, Nữ thần đà cử con cháu của mính xuống cai quản các đảo
Nhật Bản, đó chính là Thiên hoàng. Dòng dõi Hoàng tộc đó vẫn trị vì ở Nhật Bản
cho đến tận ngày nay. Có lẽ chính vì sự tôn sùng Thần Mặt Trời mà ngời dân Nhật
Bản thờng gọi đất nớc mình là "Nippon" tức là "Xứ sở Mặt Trời" hay "Đất nớc
Mặt Trời mọc". Cùng với thời gian, tín ngỡng này ăn sâu bám rễ trong đời sống
ngời dân Nhật Bản và trở thành một tôn giáo bản địa có sức sống lâu bền, có ảnh
hởng sâu sắc trong đời sống xà hội Nhật Bản.
Tóm lại: Trớc khi Phật giáo và Nho giáo du nhập, ở Nhật Bản đà hình thành
các nhà nớc cổ đại. Đặc biệt đến thế kỷ IV, nhà nớc Yamato ra đời và đến thế kỷ
V đà thống nhất Nhật Bản. Nhà nớc đó tuy còn cha hoàn chỉnh và các mối liên hệ
20


còn lỏng lẻo, nhng cũng đà cho thấy những bớc tiến ban đầu về mặt tổ chức xà hội
của Nhật Bản cổ đại. Mặc dù còn hết sức lạc hậu, nhng c dân nơi đây đà có đợc tín
ngỡng bản địa của mình, đó là Thần đạo. Dù cha có hệ thống, nhng Thần đạo đÃ
ăn sâu bám rễ trong đời sống của c dân Nhật Bản cổ đại. Sự xâm nhập và tác động
của các yếu tố văn hoá đến từ Triều Tiên và Trung Quốc là nhân tố hết sức quan
trọng thúc đẩy xà hội Yamato phát triển. Sự chuyển biến bên ngoài đà đặt ra cho
Yamato một yêu cầu cấp bách là phải thiết lập bộ máy nhà nớc tập trung thống

nhất, xoá bỏ những tàn d lạc hậu của nhà nớc liên hiệp, của các dòng họ trớc đây.
Tấm gơng Trung Quốc (nhà Tuỳ) cùng với sự phát triển rực rỡ của nền văn hoá ấy
đà lµm cho Yamato hÕt søc ngìng mé vµ Trung Qc trở thành khuôn mẫu để nó
noi theo. Việc học tập theo mô hình Trung Quốc đà thúc đẩy Yamato phát triển vợt bậc và đa lịch sử Nhật Bản sang một trang mới.
2.2. Quá trình du nhập, phát triển của Phật giáo và Nho giáo vào Nhật
Bản trong thời phong kiến.
Vào thế kỷ VI, nhu cầu học hỏi văn hoá Trung Quốc đà trở thành vấn đề
cấp thiết với quốc gia Yamato. Tuy nhiên, việc học hỏi nền văn hoá Trung Quốc
lại đợc thực hiện trớc tiên thông qua việc tiếp nhận Phật giáo. Điều này có nguyên
nhân của nó.
Vào thế kỷ V trên bán đảo Triều Tiên có 3 nớc: Paikche (Bách tế), Silla và
Koguryo. Thời bấy giờ Nhật Bản có quan hệ thân thiện với Paikche và thù địch với
Silla. Chính sách của Nhật Bản là bành trớng ảnh hởng sang bán đảo Triều Tiên.
Bằng cách ủng hộ một trong 3 nớc kia đánh nhau. Thời kỳ đó, Paikche chẳng
những bị Silla đe doạ mà còn phải đơng đầu với một lực lợng mạnh hơn ở phía bắc
đó là Koguryo. Vua Paikche đà nhiều lần cầu cứu sự giúp đỡ của Yamato. Lịch sử
đà từng ghi nhận vào các năm 517, 527 quân đội của Yamato đà đợc cử sang
Paikche chống lại Silla nhng không thành công. Năm 554, Silla đánh bại quân
Paikche và đến năm 562 thì ngay cả mỏm đất Mimana ở phía nam Triều Tiên của
Yamato cũng bị rơi vào tay Silla. Mặc dù vậy, vua Paikche vẫn trông chờ vào sự
viện trợ của Triều đình Yamato và theo đó nhiều đồ cống vật cũng ®ỵc gưi sang.
21


Năm 538 (có sách nói 552) vua Paikche sai ngời gưi biÕu Yamato mét bøc tỵng
PhËt kÌm theo mét sè bộ kinh và khuyên Yamato nên tiếp nhận thứ tôn giáo này.
Ông ta nói rằng, tuy học thuyết Phật giáo là khó hiểu và khó giải thích, song đây
là một häc thut hay nhÊt vµ cã thĨ gióp thùc hiƯn mọi nguyện vọng. Món quà
mà vua Paikche tặng triều đình Nhật Bản đà gây ra sự chú ý trong giới quý tộc
Nhật Bản.

Đạo Phật với t cách là một tôn giáo đợc ca ngợi với những lời đẹp nhất đÃ
phần nào làm xáo động tâm lý trong giới quý tộc Nhật. Niềm tin vào "Con đờng
thần thánh" bắt đầu bị phân tán bởi tôn giáo mới là đạo Phật. Tuy nhiên, thực chất
vấn đề không phải là tôn giáo hay là tín ngỡng khác mà là sự xung đột về ý thức
hệ giữa phái bảo thủ và phái cấp tiến hơn trong lĩnh vực chính trị. Phái cấp tiến
đứng đầu là dòng họ Sôga đà sớm nhận thấy sức mạnh của các vơng quốc trên bán
đảo Triều Tiên và sự u việt của nền văn hoá từ Trung Hoa. Do đó, để vơn lên, Nhật
Bản nhất thiết phải có sự cải cách bằng việc nhanh chóng tiếp thu nền văn hoá
Trung Hoa, tất nhiên là thông qua việc tiếp nhận Phật giáo. ở đây chúng ta cần
hiểu rằng, Phật giáo đợc tiếp nhận chắc chắn không phải vì lý do tín ngỡng mà ẩn
đằng sau đó là động cơ chính trị. Những ngời cấp tiến ở Nhật Bản đà nhận thức đợc rằng "ẩn chứa đằng sau Phật giáo là cả bề dày của một nền văn minh đang đạt
đến giai đoạn phát triển sung mÃn" [7,42]. Và bên cạnh việc đa đến Nhật Bản một
vũ trụ luận mới thì "hẳn là ấn tợng mạnh mẽ nhất của ngời Nhật Bản vào thế kỷ
VII và thế kỷ VIII về Phật giáo chính là vì giá trị thiết yếu của một nền văn minh
phát triển cao hơn" [7,42].
Đợc sự ủng hộ của dòng họ Sôga, trải qua những khó khăn ban đầu thì Phật
giáo đà đợc triều đình Yamato chấp nhận. Sau cuộc nội chiến năm 587, với dòng
họ Mônônôbê bị tiêu diệt thì Phật giáo có đợc địa vị chính thức ở Nhật Bản. Nhiều
đền chùa đợc xây dựng, nhiều xá lị đợc mang thêm từ Triều Tiên về cùng với thầy
cúng, s, thợ mộc làm chùa, thợ vẽ, ngời đúc đồng, nặn tợng. Nhiều con gái của các
nhà quý tộc đà đi tu và một số ngời gốc Trung Quốc đà xuất gia tu hành. Umako

22


(ngời đứng đầu dòng họ Sôga đang thống trị toàn nớc Nhật lúc đó) đà cử các Nico
sang Triều Tiên để học và xúc tiến việc phổ biến tôn giáo mới [22,78].
Nh vậy là đến cuối thế kỷ VI, Phật giáo đà chính thức đứng chân ở Nhật
Bản. Năm 538 đà trở thành một mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của Phật
giáo ở Nhật Bản. Mặc dù từ khi giới thiệu đến khi có đợc địa vị chính thức ở Nhật

Bản, tôn giáo này cũng phải trải qua không ít cản trở từ các thế lực bảo thủ. Bằng
con mắt tinh tờng và nhạy bén về chính trị, tầng lớp lÃnh đạo Nhật Bản đà tiếp thu
Phật giáo và biến nó trở thành một "phơng tiện quan trọng nhất trong việc truyền
tải văn minh Trung Hoa vào Nhật Bản. Và ngời Nhật, qua niềm tin tôn giáo cũng
đà lĩnh hội những yếu tố văn hóa từ lục địa một cách hứng khởi, sâu sắc hơn"
[7,42].
Từ khi du nhập (thế kỷ VI) đến thế kỷ XIX , Phật giáo đà trải qua những
giai đoạn phát triển khác nhau. Lịch sử Phật giáo Nhật Bản có thể chia làm 3 thời
kỳ:
Thời kỳ truyền bá đạo Phật (Từ thế kỷ VI đến thế kỷ VIII), Thời kỳ "Nhật
Bản hoá" đạo Phật (Tõ thÕ kû IX ®Õn thÕ kû XIV), Thêi kú suy thoái của đạo Phật
ở Nhật Bản (Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX).
+ Thời kỳ truyền bá đạo phËt (Tõ thÕ kû VI – thÕ kû VIII).
Thêi kú này nổi bật lên vai trò của Thái tử Shotoku (572 - 622). Ông đợc
xem là ngời thực sự hiểu biết các t tởng của đạo Phật và tin tởng vào nó cũng nh
bản thân Đức Thích Ca. Đặc biệt, ông còn đợc đánh giá là ngời sáng lập ra Phật
giáo ở Nhật Bản một cách chính thức, thậm chí ông còn đợc xem là hoá thân của
Đức Phật.
Là ngời có học vấn uyên thâm, ngay từ năm 21 tuổi Thái tử đà đợc tể tớng
Umako của dòng họ Sôga chọn làm quan nhiếp chính cho Thiên hoàng Suiko.
Năm 604, Shotoku đà công bố hiến pháp 17 điều mà nội dung của nó phần lớn là
đạo Nho xen lẫn ảnh hởng của t tởng pháp gia, nhng xét về bản chất thì lại là các

23


giáo lý của đạo Phật. Điều mà Thái tử thực hiện đánh dấu bớc tiến lớn đầu tiên
trong sự phát triển của đạo Phật Nhật Bản .
Bản thân thái tử Shotoku là ngời mộ đạo, do đó ông đà làm rất nhiều việc có
ích để đa đạo Phật đến với đại đa số quần chúng, nhân dân. Năm 607, ông đà cử sử

đoàn đầu tiên của Nhật Bản do học giả OnonoImoko dẫn đầu sang Trung Quốc để
học tập văn hoá của nớc này. Không những thế, ông còn cho mời nhiều học giả
Triều Tiên, Trung Quốc là các Tăng, Ni sang Nhật Bản để giúp đỡ trong việc
truyền đạo và phát triển văn hoá Phật giáo trong đại bộ phận các tầng lớp nhân
dân.
Trong suốt 30 năm làm nhiếp chính, Thái tử Shotoku đà 3 lần cử các sứ
đoàn sang Trung Qc thùc hiƯn sø mƯnh quan träng vµ cao cả này. Đồng thời,
"46 ngôi chùa cũng đợc xây dựng, trong đó có Horyuji (Pháp Long tự ) ngôi
chùa gỗ cổ nhất Nhật Bản đợc công nhận là di sản văn hoá thế giới cho 816 hoà
thợng và 569 Nicô học tập và tu luyện" [4,33]. Nhiều kinh sách, tợng Phật, các
bức bích hoạ quý vẫn còn đợc lu giữ cẩn thận cho đến tận ngày nay, dù đà trải qua
hàng nghìn năm lịch sử với bao biến cố thăng trầm. Sau khi Thái tử Shotoku mất,
công việc mà ông khởi xớng vẫn tiếp tục trong các thế kỷ tiếp theo.
Năm 685, Thiên hoàng Nhật Bản ra một chiếu chỉ khuyên mỗi gia đình nên
có một bàn thờ Phật, một bức tợng Phật và một quyển kinh Phật. Việc làm này đÃ
có tác động thúc đẩy Phật giáo nhanh chóng phát triển, nhất là trong các gia đình
quyền quý và những ngời thuộc tầng lớp trên. Do vậy, đến cuối thế kỷ VII đà có
trên 540 ngôi chùa đợc xây dựng. Giáo lý của đạo Phật đợc giảng giải sâu rộng
thêm nhờ công lao to lớn của các vị hoà thợng du học từ Trung Hoa trở về và các
học giả Nhật Bản đi truyền giáo khắp nơi. Triều đình đà giành nhiều u ái cho hoạt
động của chùa chiền, kể cả việc trở cấp những khoản tiền lớn. Đạo Phật đà thực sự
trở thành quốc giáo.
Sau khi Thái tử Shotoku qua đời (năm 621), ở Nhật hàng loạt biến cố chính
trị đà xảy ra do sự lộng quyền của dòng họ Soga. Nhu cầu phát triển của NhËt B¶n

24


đòi hỏi phải gạt bỏ dòng họ Soga và do ®ã ®· dÉn ®Õn cc chÝnh biÕn cđa Hoµng
tư Nacanoe dới sự ủng hộ của dòng họ Nakatomi (sau đổi thành Fujiwara) vào

năm 645. Ngày sau đó Hoàng tử Nacanoe đà đa Thiên hoàng Côtoc lên ngôi, đặt
niên hiệu là Taika, còn mình thì giữ vai trò nhiếp chính. Một năm sau khi lên ngôi
(646) Thiên hoàng Côtoc đà ban chiếu cải cách, mà lịch sử Nhật Bản gọi đó là cải
cách Taika một cuộc cải cách do tầng lớp quí tộc thực hiện dựa vào các luận
thuyết chính trị của Shotoku. Dòng họ Soga bị lật đổ, và giờ đây quyền lực nằm
trong tay dòng họ mới Fujiwara. Một hệ thống chính quyền theo mô hình nhà Đờng đợc hình thành với chế độ định đô.
Sang thời kỳ Nara (710 794), do đợc triều đình xem là một quyền lực
thiêng liêng bảo vệ xứ sở nên Phật giáo trở thành một thế lực quan trọng. Mọi
hành động phá hoại tợng Phật đều bị coi là trọng tội và ở một mức độ nào đó còn
bị coi là hành động chống lại chính quyền. Sở dĩ có quan niệm đó là vì các Thiên
hoàng Nhật Bản không chỉ là lÃnh tụ về chính trị mà còn là lÃnh tụ về tôn giáo.
Nơi ở của Thiên hoàng cũng chính là nơi ở của thần linh. Nhiều chùa chiền, tự
viện đợc xây dựng khắp nơi.
Tuy nhiên, sự phát triển của Phật giáo không buộc phải loại trừ yếu tố
truyền thống Shinto bản địa, mà thay vào đó là xu hớng Thần- Phật hỗn hợp. Trên
thực tế, đây là một trong những cách thức chủ yếu để Phật giáo đợc "Nhật Bản
hoá". Đức Phật đợc xem là một Kami thợng đẳng. Các Kami lại đợc coi nh thần hộ
Pháp với quyền lực tối cao. Nhiều Kami đợc đa vào Phật điện, nhiều bậc tôn giả đợc đa vào thần điện Shinto [28,34].
Xu hớng Thần- Phật hỗn hợp vừa thể hiện đợc sự uyển chuyển của Phật
giáo khi vào Nhật Bản, vừa thể hiện đợc sức sống của tín ngỡng bản địa Shinto.
Điều này cho thấy đặc tính dung hoà, đan xen bổ sung cho nhau các giá trị văn
hoá thuộc các khuynh hớng khác nhau ở Nhật Bản một đặc tính chung của văn
hoá phơng Đông. Đi sâu phân tích các khía cạnh cụ thể thì chúng ta thấy rằng:
Thần đạo lúc này còn là một tôn giáo sơ khai. Nó quan tâm đến lợi ích trần thế mà
không đa ra đợc giải pháp thoả đáng về cuộc sống sau khi chÕt. Trong khi ®ã, PhËt
25


×