Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Tài liệu Thời kỳ tự chủ Việt Nam doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.78 KB, 5 trang )

Thời kỳ tự chủ Việt Nam
Tự chủ là thời kỳ đầu khôi phục lại nền độc lập của Việt Nam đầu thế kỷ
10 sau hơn 1000 năm Bắc thuộc. Thời kỳ này người Việt đã tự cai trị lãnh
thổ nhưng chưa xưng làm vua, và chưa đặt quốc hiệu. Bề ngoài, Việt
Nam vẫn là một phần lãnh thổ của "thiên triều" phương bắc ở trung
nguyên với tên gọi "Tĩnh Hải quân" và người đứng đầu chỉ nối tiếp nhau
làm chức Tiết độ sứ như một quan cai trị của Trung Quốc trước đây.
Thời kỳ tự chủ bắt đầu từ khi họ Khúc nổi dậy nắm quyền thay các Tiết
độ sứ người Trung Quốc (905) và kết thúc khi Ngô Quyền tiêu diệt Kiều
Công Tiễn và đánh thắng quân Nam Hán, lập ra nhà Ngô (938).
Ba đời họ Khúc
Bối cảnh
Tới đầu thế kỷ 10, Việt Nam đã trải qua hơn 1000 năm Bắc thuộc. Sau
khi nhà Tiền Lý dựng nước Vạn Xuân tồn tại được 60 năm thế kỷ 6, Việt
Nam nằm dưới quyền cai trị của nhà Tuỳ và nhà Đường từ năm 602.
Những cuộc nổi dậy chống lại của người Việt trong hơn 300 năm đều
không thành công hoặc tồn tại ít lâu lại bị người phương Bắc trấn áp.
Từ sau loạn An Sử
[1]
(756-763), nhà Đường bị suy yếu do các phiên trấn
địa phương nổi dậy không thần phục triều đình. Tới cuối thế kỷ 9, nạn cát
cứ của quân phiệt địa phương ngày càng ác liệt, khởi nghĩa Hoàng Sào
(874-884) làm triều đình nhà Đường càng thêm suy yếu.
Sau khi quân Nam Chiếu bị đánh bật ra (866), Việt Nam được đổi tên từ
"An Nam đô hộ phủ" ra "Tĩnh Hải quân", không còn là "thuộc địa",
"ngoại vi" như "An Tây", "An Đông", "An Bắc" mà đã ngang hàng với
các đơn vị hành chính khác của Trung Quốc khi đó. Nhưng điều đó cũng
không ràng buộc được Việt Nam chặt hơn với Trung Quốc.
Đầu thế kỷ 10, nhà Đường rơi vào tay quyền thần Chu Ôn, các thế lực cát
cứ nổi lên đánh giết lẫn nhau, tạo ra thế chia cắt 5 đời 10 nước (Ngũ đại
Thập quốc). Năm 905, ở Tĩnh Hải quân, Tiết độ sứ Độc Cô Tổn mới sang


đã rất độc ác mất lòng người, bị gọi là "Ngục Thượng thư" (thượng thư
ác). Tổn lại không cùng phe với Chu Ôn nên chỉ vài tháng lại bị Chu Ôn
dời tiếp ra đảo Hải Nam và giết chết. Tĩnh Hải quân do đó không có
người cai quản.
Xin mệnh nhà Đường, củng cố nội chính
Khúc Thừa Dụ, khi đó là Hào trưởng Chu Diên
[2]
, được dân chúng ủng
hộ, đã tiến ra chiếm đóng phủ thành Đại La (Tống Bình cũ - Hà Nội), tự
xưng là Tiết độ sứ, mở đầu thời kỳ họ Khúc cầm quyền trong giai đoạn
Tự chủ của lịch sử Việt Nam.
Sau khi đã nắm được quyền lực thực tế trên đất Tĩnh Hải quân, ông đã
cho xây dựng chính quyền dựa trên danh xưng của chính quyền đô hộ nhà
Đường, nhưng thực chất là một chính quyền độc lập và do người Việt
quản lý. Ông khéo léo dùng danh nghĩa "xin mệnh nhà Đường" buộc triều
đình nhà Đường phải công nhận chính quyền của ông. Ngày 7 tháng 2
năm 906, vua Đường phong thêm cho Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ Khúc
Thừa Dụ tước "Đồng bình chương sự". Sau đó, Khúc Thừa Dụ tự lấy
quyền mình, phong cho con là Khúc Hạo chức vụ "Tĩnh Hải hành quân tư
mã quyền tri lưu hậu", tức là chức vụ chỉ huy quân đội và sẽ kế vị quyền
Tiết độ sứ.
Ngày 23 tháng 7 năm 907, Khúc Thừa Dụ mất, Khúc Hạo lên kế vị. Chu
Ôn cướp ngôi nhà Đường, lập ra nhà Hậu Lương, công nhận ông làm "An
Nam đô hộ, sung Tiết độ sứ". Khúc Hạo là nhà cai trị ôn hoà nhưng rất
vững vàng.
Khúc Hạo đã tiến hành cải cách quan trọng về các mặt. Đường lối chính
trị của ông được sử sách tóm lược ngắn gọn song rất rõ ràng: "Chính sự
cốt chuộng khoan dung, giản dị, nhân dân đều được yên vui". Khúc Hạo
sửa lại chế độ điền tô, thuế mà lực dịch nặng nề của thời thuộc Đường.
Ông ra lệnh "bình quân thuế ruộng, tha bỏ lực dịch, lập sổ hộ khẩu, kê rõ

quê quán, giao cho giáp trưởng (quản giáp) trông coi". Khúc Hạo đặt
thêm 150 giáp, cộng với những giáp trước đây nhà Đường đặt, cả thảy
toàn bộ Tĩnh Hải quân có 314 giáp.
Sự chiếm đóng của Nam Hán
Nhà Hậu Lương, trước đây vì mới cướp ngôi nhà Đường, phương Bắc
nhiều biến cố nên thừa nhận Khúc Hạo làm Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân năm
907. Nhưng qua năm sau, vua Hậu Lương là Chu Ôn lại phong cho Tiết
độ phó sứ ở Quảng Châu là Lưu Ẩn kiêm chức “Tĩnh Hải quân tiết độ,
An Nam đô hộ”, ý muốn cho Ẩn cai trị luôn Việt Nam.
Khi Quảng Châu mạnh lên, tháng 9 năm 917, em Lưu Ẩn là Lưu Nghiễm
(lên thay từ năm 911) bèn xưng đế, lập ra nước Nam Hán, một trong
Mười nước thời Ngũ Đại.
Cuối năm 917, Khúc Hạo mất. Khúc Thừa Mỹ lên thay cha làm Tiết độ
sứ Tĩnh Hải quân. Ông không tiếp tục chính sách "khoan thứ sức dân" mà
Khúc Hạo đã áp dụng. Nhân dân tại Tĩnh Hải quân phải lao dịch nặng nề,
do đó sự ủng hộ với họ Khúc không còn được như trước.
Về đối ngoại, Khúc Thừa Mỹ chủ trương kết thân với nhà Hậu Lương ở
Trung nguyên mà gây hấn với nước Nam Hán liền kề. Năm 919, theo lời
khẩn cầu của Khúc Thừa Mỹ, vua Lương là Mạt đế Chu Hữu Trinh ban
tiết việt và phong ông làm Tiết độ sứ Giao châu. Khúc Thừa Mỹ chủ quan
cho rằng uy thế của nhà Lương rộng lớn ở trung nguyên có thể kìm chế
được Nam Hán nhỏ hơn ở Quảng Châu. Ông công khai gọi nước Nam
Hán là "nguỵ đình". Chính sách đối ngoại đó của Khúc Thừa Mỹ khiến
vua Nam Hán tức giận và quyết định sai Lý Khắc Chính cầm quân sang
đánh chiếm Tĩnh Hải quân.
Do mất sự ủng hộ của nhân dân trong nước, nhà Hậu Lương thừa nhận
ông cũng sắp bị diệt vong lại ở quá xa càng không thể hỗ trợ được gì,
Khúc Thừa Mỹ đơn độc và bị thua trận. Ông bị quân Nam Hán bắt đưa về
Phiên Ngung. Vua Hán cử Lý Tiến làm thứ sử Giao châu. Các nguồn sử
liệu nói khác nhau về thời điểm Nam Hán xâm chiếm Tĩnh Hải quân: 923

hoặc 930.
Dương Đình Nghệ đánh đuổi Nam Hán
Một tướng cũ của Khúc Hạo là Dương Đình Nghệ, người Ái Châu (Thanh
Hóa) không thần phục Nam Hán. Ông tập hợp lực lượng ở quê nhà để
chống lại.
Dương Đình Nghệ có hơn 3.000 "con nuôi" làm vây cánh tại lò võ ở làng
Giàng, Tư Phố (nay là đất các xã Thiệu Dương, Thiệu Khánh, huyện
Thiệu Hoá), dùng Ngô Quyền, Đinh Công Trứ (thân sinh của Đinh Bộ
Lĩnh), Kiều Công Tiễn ... làm nha tướng.
Để lung lạc ông, vua Hán là Lưu Cung sai người phong ông làm thứ sử Ái
châu. Nhưng chẳng bao lâu sau, tháng 3 năm 931, Dương Đình Nghệ ra
quân từ Ái châu, giết chết Lý Khắc Chính, đánh đuổi thứ sử Lý Tiến của
Nam Hán. Lý Tiến bỏ chạy, Dương Đình Nghệ giải phóng thành Đại La.
Lưu Cung sai Trần Bảo mang quân sang tiếp viện. Dương Đình Nghệ chủ
động mở cửa thành nghênh đón địch, tiêu diệt viện binh Nam Hán, chém
chết Trần Bảo.
Dương Đình Nghệ làm chủ Tĩnh Hải quân, ông tự lập làm Tiết độ sứ.
Ông là Tiết độ sứ thứ 4 trong thời Tự chủ. Sử sách không nói về việc cai
trị của ông.
Tháng 4 năm 937, ông bị một tướng dưới quyền là Kiều Công Tiễn, hào
trưởng Phong Châu, giết hại để cướp quyền. Theo Thiên nam ngữ lục,
Công Tiễn lấy cớ Đình Nghệ là người gây ra cái chết của chúa cũ Tĩnh
Hải quân là Khúc Thừa Mỹ nên mới ra tay giết Đình Nghệ. Nhưng mọi
người không tin theo.
Kiều Công Tiễn phản chủ bị giết
Kiều Công Tiễn nắm lấy quyền bính, trở thành Tiết độ sứ thứ 5 thời Tự
chủ. Theo các thần phả, ngay trong hàng ngũ họ Kiều cũng có chia rẽ về
sự việc này. Con Công Tiễn là Công Chuẩn và cháu nội là Kiều Công
Hãn không theo Tiễn. Công Chuẩn mang con nhỏ là Công Đĩnh về Phong
châu, Công Hãn mang quân vào châu Ái theo Ngô Quyền. Chỉ có một

người con khác của Chuẩn là Thuận theo giúp ông nội.
Một số tướng cũ của Dương Đình Nghệ mà tiêu biểu là Ngô Quyền - con
rể Đình Nghệ - quyết tâm tiêu diệt Kiều Công Tiễn. Ngô Quyền đang trấn
thủ Ái châu, tập hợp lực lượng ở đó và phát lời kêu gọi mọi người chống
Công Tiễn. Các hào trưởng, hào kiệt nhiều nơi như Dương Tam Kha,
Đinh Công Trứ, Kiều Công Hãn, Đỗ Cảnh Thạc, ... về theo. Công Tiễn bị
cô lập, sợ hãi cầu cứu vua Nam Hán. Tuy nhiên, vua Nam Hán rất chậm
trễ trong việc cứu giúp Tiễn.
Tháng 4 năm 938, Ngô Quyền mang quân ra bắc, nhanh chóng hạ thành
Đại La, giết chết Kiều Công Tiễn. Khi đó quân Hán chưa kịp đến cứu
giúp Tiễn. Công Tiễn xưng Tiết độ sứ chưa đầy 1 năm.
Cuối năm 938, quân Hán do con Lưu Cung là Hoằng Tháo chỉ huy mới
kéo sang Tĩnh Hải quân. Ngô Quyền đóng cọc nhọn dưới sông Bạch
Đằng nhử quân Hán kéo vào, làm cho thuyền địch mắc cạn khi thuỷ triều
rút xuống và đánh tan, giết chết Hoằng Tháo. Quân Nam Hán thua to, Lưu
Cung phải từ bỏ ý định đánh Tĩnh Hải quân.
Ngô Quyền làm chủ Tĩnh Hải quân, không làm Tiết độ sứ nữa mà xưng là
Ngô vương, lập ra nhà Ngô, bỏ hẳn sự ràng buộc với phương Bắc, dù chỉ
là trên danh nghĩa.
Thời kỳ tự chủ từ năm 905 đến năm 938, kéo dài 33 năm, có 5 Tiết độ sứ.
Trong 5 Tiết độ sứ, chỉ có 2 vị được trọn vẹn, 2 vị bị giết vì tranh chấp
nội bộ, 1 vị bị bắt làm tù binh của người phương Bắc.

×