Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giai cấp và dân tộc trong cách mạng Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.02 KB, 26 trang )

0


MỤC LỤC
MỤC LỤC.................................................................................................................... 1
PHẦN MỞ ĐẦU..........................................................................................................2
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ GIAI
CẤP VÀ DÂN TỘC.....................................................................................................3
1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề giai cấp và đấu tranh giai
cấp:................................................................................................................................ 3
2.Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc và mối quan hệ giữa
vấn đề giai cấp, dân tộc:..............................................................................................5
CHƯƠNG II: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP VÀ DÂN
TỘC TRONG CÁCH MẠNG VIỆT NAM................................................................8
1. Khái qt về tư tưởng Hồ Chí Minh......................................................................8
2. Q trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giai cấp, dân tộc..........8
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giai cấp và dân tộc trong cách mạng Việt
Nam:........................................................................................................................... 10
3.1.Vấn đề dân tộc thuộc địa.....................................................................................10
3.2.Chủ trương kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế..................................11
3.3. Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản
lãnh đạo và lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc. 15
3.4. Về kết hợp sức mạnh Dân tộc với sức mạnh thời đại.......................................17
CHƯƠNG III: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ GIAI
CẤP VÀ DÂN TỘC TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY...........................................19
KẾT LUẬN................................................................................................................24

1



PHẦN MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, vị lãnh tụ
vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Cả cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người là tấm
gương mẫu mực về sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội cho các
thế hệ con người Việt Nam nói chung và cho Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng, kế thừa
và phát huy trong mọi điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Hệ thống tư tưởng của Người
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đã được lịch sử minh chứng một cách sinh động. Có
thể nói Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà hoạt động thực tiễn, nhà lý luận tiên phong về dân
tộc, về giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong hệ thống tư tưởng của
Người, không thể không kể đến tư tưởng về vấn đề giai cấp, dân tộc, nhân loại và vai trò
quan trọng của tư tưởng đó đối với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam.
Nhìn lại lịch sử dân tộc Việt Nam trong suốt thời gian qua, đặc biệt là trong thế kỷ
XX, một thế kỷ đầy biến động nhanh chóng và phức tạp của tình hình quốc tế, chúng ta
càng thấy sự đúng đắn và vận dụng sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với vấn đề dân
tộc, giai cấp và nhân loại. Sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo này đã được kiểm nghiệm
bằng thực tế qua quá trình lịch sử lâu dài kể từ những cuộc chiến tranh ác liệt giành độc
lập dân tộc và giải phóng đất nước cho đến tận thời bình trong công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chỉ ra rằng, bất kể thời điểm nào và ở bất
cứ đâu, nếu vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp không được kết hợp một cách hài hòa, đúng
đắn mà bị vận dụng một cách giáo điều, cứng nhắc hay chỉ xem trọng một vấn đề mà coi
nhẹ vấn đề kia, thì cách mạng ở đó sẽ rơi vào hồn cảnh khó khăn, khơng có hướng đi,
thậm chí là bị tổn thất nặng nề. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề dân tộc, giai cấp, nhân loại
trong tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng tư tưởng đó vào thực tiễn cơng cuộc xây dựng
và bảo vệ đất nước là vô cùng cần thiết, đặc biệt là trước những khó khăn và thách thức
trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế ngày nay.
Đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giai cấp và dân tộc trong cách mạng
Việt Nam”.
Bài tiểu luận gồm có 3 chương:
Chương I: Lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề giai cấp và dân tộc
Chương II: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giai cấp và dân tộc trong cách mạng

Việt Nam
Chương III: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giai cấp và dân tộc thời đại
ngày nay

2


CHƯƠNG I:
LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP VÀ DÂN TỘC

1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề giai cấp và đấu tranh
giai cấp:
Từ việc phân tích kết cấu phương thức sản xuất, C.Mác đã có cách tiếp cận khoa
học trong nghiên cứu về vến đề giai cấp. Đó là lấy lý luận về hình thái kinh tế - xã hội
làm cơ sở nghiên cứu xã hội. C.Mác đã tìm ra cái gốc của cơ cấu xã hội, cơ cấu giai
cấp đó chính là kinh tế. Tuy khơng đưa ra định nghĩa hoàn chỉnh về giai cấp, nhưng
trong thư gửi Vây-đờ-mây-e ngày 5/3/1852, ông đã thể hiện tư tưởng về giai cấp như
sau:
- Sự phát triển của các giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn lịch sử nhất
định của sự phát triển sản xuất.
- Đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chun chính vơ sản.
- Bản thân sự chuyển dịch này chỉ là bước quá độ tiến tới xoá bỏ mọi giai cấp và
tiến lên xây dựng xã hội khơng có giai cấp.
Trên cơ sở lý luận của C.Mác, trong tác phẩm “Sáng kiến vĩ đại”, V.I Lênin đã
đưa ra định nghĩa giai cấp: “Người ta gọi giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những
người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong
lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được
pháp luật qui định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ
trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về
phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn

người mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đồn khác, do chỗ các tập
đồn có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định.”
Theo định nghĩa giai cấp của V.I.Lênin thì giai cấp gắn liền với một hệ thống sản
xuất nhất định và có địa vị khác nhau trong hệ thống sản xuất đó. Địa vị này do các
quan hệ sản xuất quyết định. Các giai cấp khác nhau thì có quan hệ khác nhau đối với
sở hữu tư liệu sản xuất. Những giai cấp như chủ nô (trong chế độ nô lệ), địa chủ (trong
chế độ phong kiến), tư sản (trong chế độ tư bản) là những tập đoàn người giữ địa vị
thống trị trong hệ thống kinh tế - xã hội mà họ là đại biểu vì họ nắm được phương tiện,
điều kiện vật chất quan trọng nhất (chiếm hữu tư liệu sản xuất xã hội) để chi phối lao

3


động của tập đồn người khơng có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất. Những tập đoàn
người bị mất tư liệu sản xuất như nô lệ (trong chế độ nô lệ), nông nô (trong chế độ
phong kiến), vô sản (trong chế độ tư bản) buộc phải phụ thuộc về kinh tế vào các tập
đoàn thống trị. Các giai cấp khác nhau cũng có vai trị khác nhau trong tổ chức, quản
lý lao động xã hội: Tập đoàn nào chiếm hữu tư liệu sản xuất sẽ giữ vai trò lãnh đạo,
chỉ huy hoạt động sản xuất và lưu thông trên qui mơ tồn xã hội cũng như từng đơn vị
kinh tế. Cuối cùng, các giai cấp khác nhau có phương thức và quy mô thu nhập của cải
xã hội khác nhau. Là người chiếm hữu tư liệu sản xuất và tổ chức lãnh đạo sản xuất,
tập đoàn thống trị đủ điều kiện thực hiện mục đích của mình trong sản xuất là chiếm
đoạt sản phẩm thặng dư do các giai cấp lao động tạo ra. Địa vị khác nhau của giai cấp
là cơ sở của quan hệ bóc lột giai cấp. Thực chất quan hệ giai cấp trong xã hội đối
kháng là quan hệ bóc lột.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, nguồn gốc cơ bản hình thành giai
cấp là chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Lực lượng sản xuất phát triển dẫn
đến có sự phân cơng lao động, mang lại năng suất lao động cao hơn, từ đó dẫn đến sản
phẩm thặng dư tương đối. Trong xã hội sẽ xuất hiện chế độ tư hữu. Từ đó hình thành
nên giai cấp.

Trong kết cấu giai cấp của xã hội bao gồm các giai cấp cơ bản đối lập nhau, các
giai cấp không cơ bản và tầng lớp trung gian. Các giai cấp cơ bản đối lập nhau là các
giai cấp do phương thức sản xuất của xã hội sinh ra. Đó là giai cấp chủ nô và nô lệ
(phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ), giai cấp địa chủ và nông nô (phương thức sản
xuất phong kiến), giai cấp tư sản và vô sản (phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa).
Quan hệ giữa các giai cấp này là quan hệ bóc lột và bị bóc lột, thống trị và bị trị. Cuộc
đấu tranh giữa các giai cấp cơ bản quyết định xu hướng tính chất của sự vận động xã
hội. Các giai cấp không cơ bản là các giai cấp tàn dư của phương thức sản xuất cũ để
lại. Các tầng lớp trung gian là sản phẩm của chính phương thức sản xuất đang thống
trị, là kết quả của quá trình phân hóa xã hội khơng ngừng diễn ra như tầng lớp bình
dân (phương thức sản xuất chiếm hữu nơ lệ), tiểu tư sản (phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa) hay tầng lớp trí thức tồn tại trong bất kỳ xã hội có giai cấp nào.
Trong xã hội có giai cấp tất yếu nảy sinh đấu tranh giai cấp. V.I. Lênin đã định
nghĩa đấu tranh giai cấp: “Là cuộc đấu tranh của một bộ phận nhân dân này chống lại

4


một bộ phận nhân dân khác, cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền bị áp
bức và lao động chống lại bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc
đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những
người hữu sản hay giai cấp tư sản.”
Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn về mặt
địa vị và lợi ích giữa giai cấp bị trị và giai cấp thống trị. Đỉnh cao của đấu tranh giai
cấp là những cuộc cách mạng xã hội. Nguyên nhân dẫn tới đấu tranh giai cấp là do sự
đối lập về lợi ích cơ bản ( lợi ích về kinh tế) giữa các giai cấp trong một hệ thống sản
xuất xã hội nhất định.
Đấu tranh giai cấp có vai trị vơ cùng quan trọng. Trong tun ngôn Đảng Cộng
Sản của Mac – Ăngen: “Lịch sử xã hội lồi người từ khi có giai cấp đến nay là lịch sử
đấu tranh giai cấp”. Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực quan trọng của

các xã hội có giai cấp đối kháng. Thơng qua đấu tranh giai cấp, mâu thuẫn cơ bản giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được giải quyết, từ đó thúc đẩy sự phát triển
của toàn xã hội. Đấu tranh giai cấp dẫn đến chun chính vơ sản - cơng cụ xóa bỏ chế
độ tư hữu và giai cấp, xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
2.Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc và mối quan hệ
giữa vấn đề giai cấp, dân tộc:
Khái niệm dân tộc được dùng để chỉ một cộng đồng người ổn định làm thành
nhân dân một nước có lãnh thổ quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung, có ý
thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi những quyền lợi về chính trị,
kinh tế, truyền thống, văn hóa, truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình dựng
nước và bảo vệ đất nước.
Dân tộc có tính thống nhất cao thể hiện ở sự cộng đồng về lãnh thổ, về kinh tế, về
ngôn ngữ và về văn hóa. Dân tộc có tính ổn định, bền vững, đảm bảo bởi nguyên tắc
pháp lý cao, tôn trọng quyền tự quyết của mỗi dân tộc.
Từ thế kỷ XIX, khi chủ nghĩa tư bản chưa trở thành chủ nghĩa đế quốc, vấn đề
quan hệ giữa dân tộc, giai cấp và nhân loại được C.Mác và Ph.Ăngghen xem xét và
giải quyết xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của cách mạng vô sản, cách mạng vô sản là
điều kiện cơ bản nhất để thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc. Mối quan hệ giữa vấn
đề dân tộc và vấn đề giai cấp đã được C.Mác và Ph.Ăngghen đề cập đến trong “Tuyên

5


ngôn của Đảng Cộng Sản” tháng 2 năm 1848 như sau: “ Cuộc đấu tranh của giai cấp
vô sản ở giai đoạn đầu mang tính chất dân tộc, vì phong trào vô sản là phong trào độc
lập của khối đại đa số, mưu lợi ích cho khối đại đa số. Vì vậy, cuộc đấu tranh của giai
cấp vơ sản chống lại giai cấp tư sản, không phải là cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc
đầu lại mang hình thức dân tộc.” Như vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen đã thấy được mối
quan hệ gắn bó giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Hai ông không xem nhẹ vấn đề
dân tộc. Tuy nhiên hai ông không đi sâu giải quyết vấn đề dân tộc vì: (1) Tại các nước

này, mâu thuẩn cơ bản của xã hôi là mâu thuẫn giữa hai giai cấp đối kháng: tư sản và
vô sản; (2) Về cơ bản, ở châu Âu, vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong cách mạng
tư sản; (3) Vào thời của C.Mác, hệ thống thuộc địa đã có, nhưng các cuộc đấu tranh
giành độc lập chưa phát triển mạnh.
Do vậy, trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, hai ơng nhấn mạnh đến giải phóng
giai cấp cơng nhân. C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột
người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác sẽ được xóa bỏ” và “ Khi mà sự
đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc khơng cịn nữa thì sự thù địch giữa
các dân tộc cũng đồng thời mất theo.” ( “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản “ – Tháng
2/1848). Như vậy, theo C.Mác và Ph.Ăngghen, để giải quyết sự đối kháng dân tộc,
trước hết phải giải quyết sự đối kháng giai cấp, giải phóng giai cấp là nhiệm vụ trung
tâm, là điều kiện để giải phóng dân tộc. V.I.Lênin từng nhận xét, đối với C.Mác so với
vấn đề giai cấp vơ sản thì vấn đề dân tộc chỉ là vấn đề thứ yếu thôi.
Đến thời V.I. Lênin, khi chủ nghĩa đế quốc trở thành hệ thống thế giới, cách
mạng giải phóng dân tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, Lênin
mới có cơ sở thực tiễn để phát triển vấn đề dân tộc thuộc địa thành một hệ thống lý
luận. V.I.Lênin cho rằng cuộc đấu tranh của giai cấp vơ sản chính quốc sẽ khơng giành
được thắng lợi, nếu nó khơng liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức.
V.I.Lênin phát triển chủ nghĩa Mác trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, từ thực tiễn tình
hình nước Nga, V.I.Lênin đã nêu lên Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc
địa. Đây được xem như là cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin. Dân tộc là địa
bàn trực tiếp của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân. Mỗi dân tộc có nhiều
giai cấp, cùng tồn tại và phát triển. Do đó “giai cấp vơ sản mỗi nước trước hết phải tự

6


vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc”.( “Tuyên ngôn của
Đảng Cộng Sản “ – Tháng 2/1848).
Nếu như áp bức giai cấp là nguyên nhân sâu xa của áp bức dân tộc thì áp bức

dân tộc tác động mạnh mẽ trở lại áp bức giai cấp. Áp bức dân tộc nuôi dưỡng áp bức
giai cấp và làm sâu sắc thêm áp bức giai cấp. Đấu tranh giai cấp tác động vào đấu
tranh dân tộc. Đấu tranh dân tộc tác động vào đấu tranh giai cấp. Nếu dân tộc chưa có
độc lập thống nhất, thì giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất mới muốn trở thành
“giai cấp dân tộc” phải đi đầu trong cách mạng giải phóng dân tộc, thực hiện nhiệm vụ
đầu tiên là khôi phục độc lập dân tộc. Chừng nào trong xã hội còn đối kháng giai cấp,
đấu tranh giai cấp, thì vấn đề quan hệ giai cấp và dân tộc được giải quyết trên lập
trường giai cấp nhất định. Từ đó V.I.Lênin cùng với Quốc tế cộng sản bổ sung khẩu
hiệu nêu trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”: "Vơ sản tất cả các nước đồn kết
lại!" thành khẩu hiệu mới: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đồn kết
lại!”. Đó là lời kêu gọi tập hợp lực lượng xung quanh giai cấp cơng nhân, tất cả các
lực lượng có khả năng cách mạng, chống đế quốc của thời đại đấu tranh vì các mục
tiêu độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH.
Tuy nhiên, sau khi V.I.Lênin mất Ban lãnh đạo Quốc tế cộng sản một thời gian
dài đã nhấn mạnh vấn đề giai cấp, coi nhẹ vấn đề dân tộc, vì vậy không mấy quan tâm
đến chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc của các nước thuộc địa, thậm chí cịn coi đó
là biểu hiện của chủ nghĩa quốc gia hẹp hịi, trái với chủ nghĩa quốc tế vơ sản.

7


CHƯƠNG II:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP VÀ DÂN TỘC
TRONG CÁCH MẠNG VIỆT NAM
1. Khái quát về tư tưởng Hồ Chí Minh
Đại hội Đảng lần thứ IX (2001) đã đưa ra khái niệm: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là
một hệ thống quan điểm tồn diện và sâu sắc về vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt
Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho
cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng

và dân tộc ta”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự tổng hịa và phát triển biện chứng tư
tưởng văn hóa truyền thống của dân tộc, tinh hoa tư tưởng văn hóa của phương Đông
và phương Tây với chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng cùng thực tiễn của dân tộc và
thời đại qua sự tiếp biến và phát triển của Hồ Chí Minh – một con người có tư duy
sáng tạo, có phương pháp biện chứng, có nhân cách, phẩm chất cách mạng cao đẹp tạo
nên.
Q trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giai cấp, dân tộc
Quá trình hình thành tư tưởng về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Chủ tịch
2.

Hồ Chí Minh đã gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của Người ngay từ những
năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Trước khi học thuyết Mác – Lênin được truyền
bá vào Việt Nam thì các phong trào yêu nước của người Việt Nam chống thực dân
Pháp liên tục nổ ra, nhưng kết cục đều thất bại. Nguyên nhân quan trọng nhất khiến
cho các phong trào đó thất bại chính là do bế tắc về đường lối. Mặc dù các bậc lãnh tụ
của những phong trào yêu nước ấy đã dành nhiều tâm huyết cho sự nghiệp của mình,
nhưng do họ khơng nhận thức được xu thế của thời đại, nên không thấy được giai cấp
trung tâm của thời đại lúc này là giai cấp công nhân - giai cấp đại biểu cho một
phương thức sản xuất mới, một lực lượng tiến bộ xã hội. Do đó, mục tiêu đi tới của
những phong trào ấy không phản ánh đúng xu thế vận động của lịch sử và thời đại, nên
không thể đem lại kết quả và triển vọng tốt đẹp cho sự phát triển của xã hội Việt Nam.
Trước yêu cầu bức xúc của vấn đề giải phóng dân tộc, từ chủ nghĩa yêu nước,
người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã quyết định ra đi tìm đường cứu
nước. Cơng lao to lớn đầu tiên của Người đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam là đã

8


tìm ra con đường cứu nước, khai phá con đường giải phóng dân tộc và các dân tộc bị

áp bức trên thế giới. Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, qua khảo sát thực tế ở
các nước trên các châu lục Âu, Phi, Mỹ và ngay cả trên đất Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã
rút ra nhận xét: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân là nguồn gốc mọi sự đau khổ của
công nhân, nông dân lao động ở cả chính quốccũng như ở thuộc địa. Nghiên cứu các
cuộc cách mạng dân chủ tư sản Mỹ (1776), Pháp (1789), Nguyễn Ái Quốc nhận thấy
các cuộc cách mạng này tuy nêu khẩu hiệu “tự do”, “bình đẳng”, nhưng khơng đưa lại
tự do, bình đẳng thực sự cho quần chúng lao động. Người viết: “Cách mệnh Pháp
cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng
là cộng hoà và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục cơng nơng, ngồi thì nó áp bức
thuộc địa.”( Tác phẩm “Đường Kách mênh” – Năm 1927). Tuy khâm phục các cuộc
cách mạng ấy, nhưng Nguyễn Ái Quốc cho rằng đó là cách mạng chưa đến nơi. Vì thế,
Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia hoạt động đấu tranh trong phong trào giải phóng
của các dân tộc bị áp bức, phong trào giải phóng giai cấp công nhân ở các nước tư bản.
Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến với cách mạng Tháng Mười Nga, đến với V.I. Lênin.
Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi là một sự kiện chính trị đặc biệt quan trọng
trong quá trình hoạt động tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Đặc biệt, sau khi
đọc “Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lênin, Nguyễn
Ái Quốc đã thấy rõ hơn con đường đúng đắn mà cách mạng Việt Nam sẽ trải qua.
Người khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng
được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nơ lệ”, và:
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường
cách mạng vơ sản”. Kết luận trên đây của Nguyễn Ái Quốc là sự khẳng định một
hướng đi mới, nguyên tắc chiến lược mới, mục tiêu và giải pháp hoàn toàn mới, khác
về căn bản so với các lãnh tụ của các phong trào yêu nước trước đó ở Việt Nam. Người
đã có cơng đưa cách mạng giải phóng dân tộc vào quỹ đạo của cách mạng vô sản, tức
là sự nghiệp cách mạng ấy phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy hệ tư
tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng. Vì vậy, con đường phát triển tất yếu
của cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng XHCN. Người chỉ
rõ: “Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa
thì mới giành được thắng lợi hồn tồn”.


9


3.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giai cấp và dân tộc trong cách mạng

Việt Nam:
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn của cách mạng
Việt Nam, Hồ Chí Minh đã có nhiều quan điểm sâu sắc về mối quan hệ giai cấp, dân
tộc, nhân loại, đáp ứng yêu cầu mới của thực tiễn cách mạng Việt Nam trong thời đại
ngày nay.
3.1.Vấn đề dân tộc thuộc địa
Vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề đấu tranh giải phóng dân tộc thuộc
địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành độc lập dân tộc, xố bỏ ách áp
bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập nhà nước dân tộc
độc lập.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng bất
khả xâm phạm của các dân tộc.
Giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam - một nước thuộc địa nửa phong kiến,
trước hết phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh đuổi quân xâm lược,
đánh đổ bọn tay sai, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hồ bình và thống
nhất đất nước. Độc lập, tự do, hồ bình và thống nhất đất nước là khát vọng cháy bỏng
của người dân mất nước. Mất nước là mất tự do. Khi mất nước, con người khơng chỉ
mất quyền bình đẳng, tự do dân chủ mà ngay cả quyền sống của họ cũng bị đe dọa.
Chính vì vậy mà “Khơng có gì q hơn độc lập tự do”, một trong những tư tưởng lớn
của Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt Nam đã trở thành chân lý của dân tộc Việt
Nam và của cả nhân loại có lương tri.
Độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân – tư tưởng đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh

đã trở thành mục tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đó được qn triệt
trong tồn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam và nó được thể hiện nổi bật trong các thời
điểm có tính bước ngoặt lịch sử.
Phát biểu trong buổi họp đầu tiên của Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch kiến quốc,
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng ta đã hi sinh phấn đấu giành độc
lập. Chúng ta đã giành được rồi... Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ
chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng khơng làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự
do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. Tư tưởng này thể hiện tính nhân văn
cao cả và triệt để cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Độc lập tự do là quyền tự
nhiên của dân tộc, thiêng liêng và vô cùng quý giá. Với việc tiếp xúc với các tác phẩm

10


“Tuyên ngôn độc lập” của Mỹ 1776 và “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” của
Pháp 1791, Người đã khái quát chân lý: “Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều
có quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự
do”.
Mục tiêu của cách mạng Việt Nam là: đánh đổ Đế quốc Pháp và phong kiến, làm
cho nước Nam hoàn toàn độc lập. Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, Hồ Chí
Minh đã đọc bản tun ngơn độc lập và khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng
tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt
Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ quyền tự do
độc lập ấy”.
Người khẳng định chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn ở các nước đang đấu
tranh giành độc lập. Do kinh tế lạc hậu, sự phân hoá giai cấp chưa triệt để, vì thế cuộc
đấu tranh giai cấp ở các nước thuộc địa không diễn ra giống như ở phương Tây. Đối
với với các dân tộc thuộc địa có sự tương đồng lớn, dù là ai, cũng đều là nô lệ mất
nước. Chủ nghĩa dân tộc bản xứ là chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa dân tộc chân
chính, là động lực to lớn để phát triển đất nước.

3.2.Chủ trương kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin khi Hồ Chí Minh bàn đến vấn đề dân
tộc và cách mạng giải phóng dân tộc thì độc lập dân tộc phải gắn với CNXH, mối quan
hệ dân tộc và giai cấp được đặt ra.
Vấn đề dân tộc bao giờ cũng được nhận thức và giải quyết theo lập trường của
một giai cấp nhất định. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, chỉ trên lập trường
của giai cấp vô sản, cách mạng vô sản mới giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc.
Thất bại của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Việt Nam cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX chứng tỏ rằng, những con đường giải phóng dân tộc dưới ngọn
cờ tư tưởng phong kiến hoặc tư tưởng tư sản là không đáp ứng được yêu cầu khách
quan là giành độc lập, tự do của dân tộc do lịch sử đặt ra. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất
khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng Người không tán thành các con
đường cứu nước ấy, mà quyết tâm ra đi tìm một con đường cứu nước mới.
Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách mạng có xu
hướng tư sản đương thời, Người đã đến với học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác
– Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản.

11


Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, đã
nhận thức được mối quan hệ chặt chẽ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc
lập dân tộc và CNXH, lựa chọn cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách
mạng vô sản. Người nêu, các nước thuộc địa phương Đông không phải làm ngay cách
mạng vô sản, mà trước hết giành độc lập dân tộc. Có độc lập dân tộc rồi mới bàn đến
cách mạng XHCN. Từ thực tiễn của đấu tranh cách mạng, Người đã phê phán quan
điểm của các đảng cộng sản Tây Âu không đánh giá đúng vai trị, vị trí, tương lai của
cách mạng thuộc địa và từ đó đi đến luận điểm: “Các dân tộc thuộc địa phải dựa vào
sức mình là chính, đồng thời biết tranh thủ sự đồn kết, ủng hộ của giai cấp vô sản và

nhân dân lao động thế giới để phải đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, từ cách
mạng giải phóng dân tộc tiến lên làm cách mạng XHCN.”
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu quan điểm: giải phóng giai cấp kết hợp chặt chẽ
với giải phóng dân tộc, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng vô sản ở các nước tư bản va cách mạng giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc địa có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, và cùng là động lực cơ
bản cho cách mạng thế giới. Cách mạng vô sản ở các nước tư bản tạo điều kiện cho
cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa giành thắng lợi. Ngược lại, cách
mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa cũng thúc đẩy cách mạng vô sản ở các
nước tư bản phát triển, và đóng góp vào thắng lợi của các cuộc cách mạng vơ sản đó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển hơn nữa quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về
vai trị của cách mạng giải phóng dân tộc. Quan điểm của C.Mác đã khái quát thực tiễn
của thế kỷ XIX và cho rằng: xóa bỏ nạn bóc lột giai cấp là điều kiện cơ bản để xóa bỏ
áp bức dân tộc. Nhưng C.Mác lại chưa đề cập đến chiều ngược lại, đó là tác động của
cách mạng giải phóng dân tộc đối với cách mạng vơ sản ở các nước tư bản. Đến
V.I.Lênin, ông đã phát triển lý luận của C.Mác vào điều kiện xã hội những năm đầu thế
kỷ XX, khi chủ nghĩa tư bản đẽ phát triển thành chủ nghĩa đế quốc. V.I.Lênin đã đánh
giá cao vai trị của phong trào giải phóng dân tộc. Ông cho rằng: cách mạng vô sản ở
các nước tư bản phải kết hợp chặt chẽ với cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa. Phát triển hơn nữa tư tưởng của Lênin về vai trò cách mạng giải phóng dân
tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên chỉ ra rằng cách mạng giải phóng dân tộc
không những cần phối hợp chặt chẽ với cách mạng vơ sản ở các nước tư bản, mà cịn

12


phải có tính chủ động tích cực, khơng thụ động chờ cách mạng vơ sản thành cơng để
có tiền đề và điều kiện thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Trái lại, trong
những điều kiện nhất định, cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa có thể
giành thắng lợi trước cách mạng vơ sản ở các nước tư bản, từ đó giúp đỡ giai cấp vô

sản ở các nước tư bản trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng giải phóng con người của
mình. Trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của
cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vơ sản ở chính quốc. Đề
cương về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa được thông qua
tại Đại hội VI Quốc tế cộng sản (ngày 1-9-1928) cho rằng: “Chỉ có thể thực hiện hồn
tồn cơng cuộc giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở
các nước tư bản tiên tiến”. Quan điểm này, vơ hình chung đã làm giảm tính chủ động,
sáng tạo của các phong trào cách mạng ở thuộc địa. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, giữa
cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có mối
quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ
thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Đó là mối quan hệ bình đẳng chứ khơng phải là quan
hệ lệ thuộc, hoặc quan hệ chính - phụ. Năm 1925, Hồ Chí Minh viết: "CNTB là một
con đỉa có một cái vịi bám vào giai cấp vơ sản ở chính quốc và một cái vịi khác bám
vào giai cấp vơ sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải
đồng thời cắt cả hai vịi. Nếu người ta chỉ cắt một vịi thơi, thì cái vòi kia vẫn tiếp tục
hút máu của giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc
ra". Nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả năng cách mạng to lớn. Theo Hồ Chí
Minh, khối liên minh các dân tộc thuộc địa là một trong những cái cánh của cách mạng
vô sản. Phát biểu tại Đại hội V Quốc tế cộng sản (tháng 6-1924), Người khẳng định
vai trị, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa: "Vận mệnh của giai cấp vô sản thế
giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa
gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa... nọc độc và sức sống
của con rắn độc TBCN đang tập trung ở các thuộc địa hơn là ở chính quốc, nếu xem
thường cách mạng ở thuộc địa tức là "muốn đánh chết rắn đằng đi". Do nhận thức
được vai trị, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa, đánh giá đúng sức mạnh dân
tộc, năm 1921, Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có
thể giành thắng lợi trước cách mạng vơ sản ở chính quốc. Trong tác phẩm Đường kách

13



mệnh, Người có sự phân biệt về nhiệm vụ của cách mạng vơ sản và cách mạng giải
phóng dân tộc và cho rằng: hai thứ cách mạng đó tuy có khác nhau, nhưng có quan hệ
chặt chẽ với nhau. Người nêu ví dụ: "An Nam dân tộc cách mệnh thành cơng thì tư
bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ.
Và nếu cơng nơng Pháp làm cách mệnh thành cơng, thì dân tộc An Nam sẽ được tự
do". Đây là sự kết hợp rất biện chứng, sáng tạo giữa giải phóng giai cấp với giải phóng
dân tộc trong điều kiện cụ thể của thời đại; một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận
và thực tiễn to lớn; một cống hiến rất quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý
luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, đã được thắng lợi của phong trào cách mạng giải
phóng dân tộc trên toàn thế giới trong gần một thế kỷ qua chứng minh là hồn tồn
đúng đắn.
Giải phóng giai cấp kết hợp với giải phóng dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh
cịn có nghĩa là độc lập dân tộc là điều kiện cho giải phóng giai cấp. Muốn xóa bỏ áp
bức giai cấp cả đối với các nước tư bản, cả đối với các nước phụ thuộc, thuộc địa phải
giải phóng dân tộc. Khơng có độc lập dân tộc thì khơng thể giải phóng con người
được. Vì vậy, nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đấu tranh giành độc lập dân tộc phải được
đặt lên hàng đầu. Tư tưởng đó được thể hiện trong luận điểm nổi tiếng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh: “Khơng có gì q hơn độc lập tự do”. Nhưng dân tộc độc lập thực sự
lại phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vì chỉ có chủ nghĩa xã hội mới xóa bỏ triệt để áp
bức giai cấp. Đây là sự giải quyết rất tài tình và độc đáo mối quan hệ giữa giai cấp và
dân tộc trong điều kiện cụ thể của thời đại và của Việt Nam. Ngay từ đầu, cách mạng
Việt Nam đã xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, và trên thực tế cách mạng
Việt Nam giành được thắng lợi không thể thiếu sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ
nghĩa. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, thắng lợi của sự nghiệp giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước khơng thể thiếu vai trị của cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc. Độc lập dân tộc của Việt Nam được đảm bảo đến nay không thể
tách rời với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Như vậy độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội là quy luật tất yếu xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam từ
khi có Đảng đến nay và từ nay về sau. Đây là sự sáng tạo rất đặc sắc của tư tưởng Hồ

Chí Minh trong việc giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc, giai cấp và nhân loại.

14


3.3. Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng
sản lãnh đạo và lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm tồn dân
tộc
Các nhà yêu nước Việt Nam đã ý thức được tầm quan trọng và vai trò của tổ chức
cách mạng nhưng các tổ chức cách mạng kiểu cũ không thể đưa cách mạng giải phóng
dân tộc đi đến thành cơng, vì nó thiếu một đường lối chính trị đúng đắn và một phương
pháp cách mạng khoa học, khơng có cơ sở rộng rãi trong quần chúng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu: "Kách mệnh trước phải làm cho dân giác ngộ, phải
giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu, phải hiểu phong triều thế giới, phải bày
sách lược cho dân... Vậy nên sức kách mệnh phải tập trung, muốn tập trung phải có
đảng kách mệnh". (“Đường Kách mệnh” – Năm 1927)
Trong chỉ đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln khẳng định: để
đưa cách mạng đến thắng lợi triệt để trước hết phải có Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đảng
Cộng sản vừa là đội tiền phong của giai cấp cơng nhân người đại diện chân chính cho
lợi ích của giai cấp cơng nhân, vừa là đại diện cho lợi ích dân tộc và lợi ích của tồn
thể nhân dân Việt Nam. Đảng phải có lý luận cách mạng soi đường, đó là Chủ nghĩa
Mác – Lênin.
Đầu năm 1930, Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một chính đảng của
giai cấp cơng nhân Việt Nam, có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh và liên hệ mật
thiết với quần chúng.
Cách mạng do giai cấp công nhân lãnh đạo nhưng sự nghiệp cách mạng lại là của
“đa số dân chúng” chứ khơng phải của số ít người. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách
mạng giải phóng dân tộc "là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai
người". Do vậy phải xây dựng được khối đoàn kết toàn dân. Muốn xây dựng được
khối đoàn kết tồn dân, Đảng phải dựa vào cơng nhân và nông dân, xem liên minh

công nông là cái gốc của cách mạng. Và trên cái gốc công nông liên minh bền vững đó
để xây dựng khối đại đồn kết dân tộc. Chỉ có như vậy mới có đủ sức mạnh để đánh
đổ các thế lực phản cách mạng. Người đánh giá rất cao vai trò của nhân dân trong khởi
nghĩa vũ trang. Người coi sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo vô tận của quần chúng
là then chốt bảo đảm thắng lợi.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ, Chủ tịch
Hồ Chí Minh lấy nhân dân làm nguồn sức mạnh. Người luôn chăm lo xây dựng và
phát triển sức mạnh của khối đoàn kết dân tộc và nêu cao khẩu hiệu “đoàn kết, đoàn

15


kết, đại đồn kết; thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”. Quan điểm "lấy dân làm
gốc" xun suốt q trình chỉ đạo chiến tranh của Người.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln đề
cao vấn đề đại đoàn kết dân tộc. Người coi đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược,
bảo đảm thành cơng của cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, cuộc đấu tranh
cứu nước của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX bị thất bại có một nguyên
nhân sâu xa là cả nước đã khơng đồn kết được thành một khối thống nhất. Người thấy
rằng, muốn đưa cách mạng đến thành công phải có lực lượng cách mạng đủ mạnh để
chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành công xã hội mới; muốn có lực lượng cách mạng
mạnh phải thực hiện đại đồn kết, quy tụ mọi lực lượng cách mạng thành một khối
vững chắc. Do đó, đồn kết trở thành vấn đề chiến lược lâu dài của cách mạng, là nhân
tố bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng. Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách
mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực
lượng cho phù hợp với những đối tượng khác nhau, nhưng đại đồn kết dân tộc ln
ln được Người nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc, chúng ta không chỉ thấy rõ
việc Người nhấn mạnh vai trị to lớn của dân mà cịn coi đại đồn kết dân tộc là mục
tiêu của cách mạng. Xem dân là gốc, là lực lượng tự giải phóng nên Hồ Chí Minh coi

vấn đề đồn kết dân tộc, đồn kết toàn dân để tạo ra sức mạnh là vấn đề cơ bản của
cách mạng. Hồ Chí Minh cịn cho rằng đại đồn kết dân tộc khơng chỉ là mục tiêu,
nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc.
Bởi vì, đại đồn kết dân tộc chính là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng, vì
quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, đoàn kết quần chúng tạo thành sức
mạnh vơ địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh
phúc cho con người.
3.4. Về kết hợp sức mạnh Dân tộc với sức mạnh thời đại
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nắm bắt chính xác đặc điểm và xu thế phát triển thời
đại, đặt cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam trong sự gắn bó với cách mạng vơ sản
thế giới. Thời đại mà Người sống và hoạt động là thời đại đã chấm dứt sự tồn tại biệt
lập của các quốc gia, mở ra mối quan hệ quốc tế ngày càng rộng lớn giữa các dân tộc.
Nhận thức được sự biến chuyển của thời đại, Người đã tìm thấy con đường giải phóng
dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng vơ sản. Cách mạng giải phóng dân tộc

16


nói chung và cách mạng Việt Nam nói riêng là một bộ phận khăng khít của cách mạng
vơ sản trên thế giới, do vậy cần có liên minh chặt chẽ giữa các dân tộc thuộc địa và
giai cấp vô sản các nước để chiến đấu chống lại kẻ thù chung. Người đã bảo vệ và phát
triển quan điểm của V.I. Lênin về khả năng to lớn và vai trò chiến lược của cách mạng
giải phóng dân tộc ở thuộc địa đối với thắng lợi của cách mạng vô sản. Cũng từ đó,
Người đã xác định chính xác đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp cách
mạng đúng đắn cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam theo con đường
cách mạng vô sản.
Là nhà yêu nước chân chính, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệt để phát huy sức
mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc. Người đã suốt đời đấu tranh không
mệt mỏi để củng cố và tăng cường tình đồn kết và hữu nghị giữa Việt Nam và các dân
tộc khác đang đấu tranh cho mục tiêu chung là hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và

CNXH. Đề cao sự giúp đỡ quốc tế với cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng đồng thời nhấn mạnh trách nhiệm của cách mạng Việt Nam với cách mạng thế
giới
Như vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ đại đồn kết dân tộc phải đi đến đại
đoàn kết quốc tế, đại đoàn kết dân tộc đúng đắn là cơ sở cho việc đại đoàn kết quốc tế
trong sáng. Đại đoàn kết dân tộc là một trong những nhân tố bảo đảm thắng lợi cho
cách mạng cho cách mạng Việt Nam. Đoàn kết quốc tế cũng là một trong những nhân
tố hết sức quan trọng giúp cho cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi hồn tồn của sự
nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước quá độ lên CNXH. Kết
hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế đòi hỏi phải đấu tranh chống lại mọi
biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, chủ nghĩa xô vanh và mọi chủ nghĩa cơ hội
khác.
Trong mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, Chủ tịch Hồ Chí
Minh bao giờ cũng coi nguồn lực nội sinh giữ vai trò quyết định, còn nguồn lực ngoại
sinh chỉ phát huy tác dụng thông qua nguồn lực nội sinh. Vì vậy, Người ln nêu cao
khẩu hiệu “tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”.
Người cho rằng muốn tranh thủ được sức mạnh thời đại, ngoài sức mạnh cần
thiết bên trong, cịn phải có đường lối độc lập tự chủ đúng đắn mới tranh thủ được sức
mạnh thời đại. Để tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân thế giới, Đảng
ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra đường lối kết hợp chặt chẽ mục tiêu đấu tranh cho

17


độc lập, thống nhất của dân tộc mình với mục tiêu của thời đại là hồ bình, độc lập dân
tộc và CNXH.
Trong cuộc đời hoạt động của mình, Người ln chăm lo xây dựng, vun đắp cho
tình hữu nghị, hợp tác và đoàn kết giữa nhân dân các nước theo tinh thần “bốn
phương vô sản đều là anh em” nhằm tạo nên sức mạnh to lớn cho sự nghiệp cách
mạng của các dân tộc. Người chủ trương giương cao ngọn cờ hồ bình, đồn kết quốc

tế, đồng thời ln phân biệt giữa bạn và thù của cách mạng, tỉnh táo với mọi âm mưu
xấu xa của các thế lực phản động quốc tế, chân trọng mọi sự giúp đỡ, hợp tác chân
thành, nhưng cũng kiên quyết đấu tranh chống sự chia rẽ xâm lược.

18


CHƯƠNG III:
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP VÀ DÂN
TỘC TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY
Trong thực tiễn công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay,
việc vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giai cấp, dân tộc
và nhân loại càng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng hết sức cấp thiết. Bởi vì, thực tế cho ta
bài học là, có thời kỳ, khi triển khai các nhiệm vụ xây dựng CNXH, đã có lúc Đảng ta
phạm sai lầm nóng vội, chủ quan, duy ý chí, quá nhấn mạnh vấn đề giai cấp nên đã
xem nhẹ vấn đề dân tộc trong việc hoạch định và thực hiện chiến lược phát triển kinh
tế xã hội, dẫn đến lợi ích các giai cấp, tầng lớp khơng được tính đến đầy đủ và kết hợp
hài hồ, sức mạnh dân tộc không được phát huy như một trong những động lực chủ
yếu nhất. Nhưng ngay sau đó, Đảng ta đã kịp thời khắc phục có hiệu quả cả về phương
điện nhận thức lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn về vấn đề này.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay,
Đảng ta đã ngày càng cụ thể hoá và hoàn thiện đường lối đổi mới toàn diện, mà thực
chất là nhận thức đúng đắn và sâu sắc hơn về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp trong công cuộc xây
đựng CNXH ở nước ta.
Văn kiện của Đảng ta tại Đại hội lần thứ IX đã xác định rõ: “Mối quan hệ giữa
các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân,
đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây đựng và bảo vệ Tổ quốc được sự lãnh
đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp cơng nhân thống nhất với lợi ích tồn dân tộc trong
mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Điều này đã thể hiện

rõ quan điểm biện chứng về sự thống nhất giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc ,
giữa lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc. Mục tiêu này vừa thể hiện vừa đáp ứng nguyện
vọng của toàn thể dân tộc, của các giai cấp và của mỗi người dân yêu nước.
Mặc dù tình hình đã có nhiều thay đổi so với trước đây nhưng cả hiện nay và
trong giai đoạn sắp tới của thời kỳ quá độ không thể chỉ chú ý đến lợi ích của một giai
cấp riêng biệt nào đó, kể cả lợi ích của giai cấp cơng nhân ra khỏi lợi ích của tồn thể
dân tộc. Tuy nhiên khơng thể không nhận thấy rằng trong bối cảnh hiện nay của đất
nước và thế giới, nội dung, tính chất và mức độ của cuộc đấu tranh này trên đất nước

19


ta khơng hồn tồn giống như trước đây. Khơng thể để lặp lại một quan niệm sai lầm
cho rằng khi đã có độc lập dân tộc hồn tồn rồi thì chỉ cần tập trung vào việc giải
quyết mâu thuẫn giai cấp. Nhận thức được điều đó chúng ta sẽ thấy được sự cần thiết
phải tập trung toàn bộ sức mạnh của các thành phần kinh tế, của các giai cấp và của
toàn dân tộc vào nhiêm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ là nhanh chóng phát triển
lực lượng sản xuất, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Thực hiện được nhiệm vụ phát triển kinh tế không chỉ là hiện thực hóa nội dung
của con đường xã hội chủ nghĩa mang tính giai cấp cơng nhân sâu sắc mà cịn là hiện
thực hóa nội dung mang tính dân tộc, là nhiệm vụ cơ bản của toàn dân tộc, của mọi
thành phần kinh tế. Lúc này đây, cả giai cấp công nhân và tồn thể dân tộc Việt Nam
khơng có nhiệm vụ nào quan trọng hơn nhiệm vụ từng bước thực hiện thành cơng sự
nghiệp cơng nghiêpk hóa, hiện đại hóa giống như trước đây cả dân tộc đã tập trung vào
nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Chính vì lẽ đó mà trong nhiệm vụ phát triển đất nước,
tính giai cấp và tính dân tộc hịa quyện vào nhau. Đảng ta cũng đã chỉ rõ trong q
trình thực hiện chính sách dân tộc cần nhận thức và giải quyết thỏa đáng mối quan hệ
giữa cái chung và cái riêng, giữa cái thống nhất và cái đa dạng, giữ gìn và phát huy
truyền thống của dân tộc cũng như tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại.
Hiện nay, tình hình thế giới có nhiều thay đổi lớn, khoa học và cơng nghệ ngày

càng phát triển. Kinh tế tri thức có vai trị ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển
lực lượng sản xuất. Tồn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan của nhân loại. Các
mâu thuẫn cơ bản trên thế giới, biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau
vẫn tồn tại và phát triển, có mặt sâu sắc hơn. Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp
tiếp tục diễn ra gay gắt. Các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau
cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc.
Thế giới đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu mà khơng một quốc gia riêng rẽ nào có thể
tự giải quyết nếu khơng có sự hợp tác đa phương. Thế giới ngày càng phát triển nhưng
vẫn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định, nhất là các hoạt động khủng bố, xung đột
tôn giáo, tranh chấp tài nguyên, lãnh thổ, biển, đảo cùng những vấn đề toàn cầu khác,
như: đói nghèo, dịch bệnh, biến đổi khí hậu và các thảm họa thiên nhiên..., địi hỏi
phải có sự hợp tác giải quyết giữa các quốc gia. Các quốc gia độc lập ngày càng tăng
cường cuộc đấu tranh để tự lựa chọn và quyết định con đường phát triển của mình. Đối

20


với nước ta, trong xu thế hồ bình, hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra
mạnh mẽ, các mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước trong khu vực, trên thế giới và
các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ cũng mở rộng hơn về quy mô, phát triển
cao hơn về cấp độ, phong phú, đa dạng hơn về hình thức; quyền hạn và nghĩa vụ quốc
tế của Việt Nam cũng tăng lên, nặng nề hơn. Cùng với đó, những thách thức về an ninh
đối với nước ta cũng đa dạng, phức tạp, nguy hiểm hơn, nhất là việc giải quyết tranh
chấp chủ quyền biển, đảo và chống lại mưu đồ lợi dụng “mở cửa” để đẩy mạnh “diễn
biến hồ bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch. Tình hình đó địi hỏi việc kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc thời kỳ mới phải có chiến lược, sách lược, hình thức và phương pháp xử lý đúng
đắn, sáng tạo. Để tận dụng thời cơ, đẩy lùi thách thức, đưa sự nghiệp cách mạng Việt
Nam tiến lên, vấn đề quan hệ giai cấp, dân tộc, nhân loại ở nước ta cần phải đảm bảo
những nội dung sau:

Thứ nhất, giải quyết tốt mối quan hệ giai cấp với đoàn kết dân tộc.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay vẫn còn giai cấp và đấu tranh
giai cấp. Vấn đề này có quan hệ mật thiết với đại đoàn kết dân tộc. Đoàn kết toàn dân
tộc khơng có nghĩa là loại trừ đấu tranh giai cấp mà là thực hiện đấu tranh giai cấp
đúng quy luật, phục vụ mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, vì hạnh phúc của nhân
dân…
Mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH đáp ứng lợi ích chung của mọi tầng lớp, mọi
thành viên trong cộng đồng dân tộc, nên đấu tranh giai cấp ở nước ta sẽ không mâu
thuẫn với đại đồn kết dân tộc, khơng những thế cịn củng cố vững chắc hơn khối đại
đoàn kết toàn dân.
Thứ hai, giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng và phát triển kinh tế thị
trường với đoàn kết dân tộc.
Kinh tế thị trường đang và sẽ dẫn đến sự khác biệt ngày càng lớn giữa các giai
cấp và tầng lớp xã hội. Tầng lớp tư sản rất có thể phát triển thành giai cấp tư sản, khi
đó xuất hiện nhiều vấn đề mới phức tạp về quan hệ giai cấp, dân tộc và nhân loại. Vì
vậy, việc kết hợp phát triển kinh tế thị trường với đoàn kết dân tộc phải bảo đảm sự
cơng bằng và bình đẳng xã hội.

21


Thứ ba, giải quyết tốt mối quan hệ giữa giữ vững độc lập tự chủ với mở
rộng quan hệ hợp tác quốc tế, phát huy sức mạnh nội lực của toàn dân tộc với
tranh thủ sức mạnh của thời đại.
Kiên định ý chí độc lập, tự chủ, khơi dậy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc,
phát huy cao độ nội lực; đồng thời, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, tranh thủ và
sử dụng có hiệu quả nguồn lực bên ngoài cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xuất phát từ bối cảnh quốc tế, khu vực và trong nước, kế thừa và phát triển những
kinh nghiệm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong quá khứ, Đảng ta
đã rút ra bài học và khẳng định: phải “phát huy dân chủ, khơi dậy sức mạnh tổng hợp

của toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, huy động và sử
dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển đất nước”. Đồng thời, Đảng ta cũng xác
định rõ mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, giữa yếu tố nội lực
và ngoại lực trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; trong đó, coi “phát
huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, đồng thời tranh thủ ngoại lực và
sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng”. Đây là những quan điểm cơ bản chỉ đạo
xuyên suốt quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN thời kỳ mới.
Trong hội nhập quốc tế, phải ln chủ động thích ứng với những thay đổi của
tình hình, bảo đảm hiệu quả và lợi ích quốc gia, dân tộc. Đó chính là bài học xây dựng,
sử dụng sức mạnh tổng hợp, làm cho các yếu tố thời đại, quốc tế chuyển hoá và kết
hợp với nội lực tạo ra thế và lực mới, giúp chúng ta vượt qua khó khăn, thách thức, tận
dụng tốt thời cơ để đổi mới và phát triển bền vững.
Trên cơ sở nâng cao nhận thức, nắm vững quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng,
cần vận dụng và xử lý một cách linh hoạt, sáng tạo việc kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại trong thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng an ninh, bảo vệ tổ
quốc XHCN. Trong hoạt động hợp tác quốc phịng, tuy có đặc thù và nhiệm vụ riêng,
nhưng đều phải quán triệt và phục vụ mục tiêu chung của cách mạng; đó là, xây dựng
nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng XHCN. Hợp tác
quốc phòng muốn đạt hiệu quả cao phải phối hợp chặt chẽ với các lĩnh vực hợp tác và
đấu tranh khác, nhất là về kinh tế, chính trị, khoa học - cơng nghệ, văn hố, nhằm đạt
được u cầu là hợp tác trên các lĩnh vực đều phải tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác
quốc phòng và xây dựng sức mạnh quốc phòng; ngược lại, kết quả hợp tác quốc phòng

22


phải góp phần thúc đẩy các quan hệ hợp tác về kinh tế, khoa học - công nghệ, đầu tư,
thương mại phát triển.

23



KẾT LUẬN
Vấn đề dân tộc, giai cấp và nhân loại luôn tồn tại đan xen xuyên suốt trong hệ
thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Khi nói đến vấn đề dân tộc luôn phải lấy cơ sở giai cấp
làm điểm tựa để giải thích và phát triển. Cịn khi bàn về vấn đề giai cấp thì chắc chắn
phải đi liền với việc giải quyết cho tốt vấn đề dân tộc. Muốn giải quyết tốt vấn đề dân
tộc và giai cấp cần phải có sự đồn kết thống nhất của tồn nhân loại. Và ngược lại,
khi giải quyết được hai vấn đề đó sẽ khiến cho nhân loại phát triển. Đó khơng những là
minh chứng đắt giá cho sự trung thành của Hồ Chí Minh với Chủ nghĩa Mác-Lênin,
mà cịn thể hiện sự tài tình của người trong việc vận dụng hợp lý, phát triển sáng tạo lý
luận ấy trong thực tiễn cách mạng nước nhà. Có thể khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh
về vấn đề giai cấp, dân tộc, nhân loại là một trong những mái chèo đắc lực đưa con
thuyền cách mạng Việt Nam đến bến bờ thành công rực rỡ.
Bởi thế dù đang sống trong thời bình, vì thế theo em mỗi cơng dân Việt Nam cần
có ý thức trau dồi và rèn luyện để thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, hiểu rõ và sâu
mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp. Điều này đặc biệt quan trọng đối với những cán
bộ, Đảng viên và những nhà lãnh đạo đất nước trong việc dùng đó làm cơ sở để hoạch
định chiến lược, chính sách xây dựng và phát triển đất nước, đưa dân tộc vượt qua mọi
khó khăn thử thách, vững bước trong tiến trình xây dựng một đất nước vì mục tiêu dân
giài, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đặc biệt là vào thời điểm hiện
tại khi mà thế giới đang có nhiều biến động, địi hỏi đất nước phải hội nhập cùng với
cuộc đua tranh gay gắt của cộng đồng quốc tế. Nhưng dù thời cuộc biến đổi thế nào,
thì giá trị tư tưởng của Hồ Chí Minh vẫn ln phù hợp với xu thế thời đại. Từ đó
chứng tỏ cho cả dân tộc Việt Nam và bạn bè thế giới rằng: Tư tưởng cao đẹp của Hơ
Chí Minh đã, đang và sẽ mãi mãi là chân lý sáng ngời, góp phần vào sự kiến tạo và
phát triển của dân tộc và cả nhân loại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đang thể hiện giá trị trường tồn nhất là trong bối cảnh
các dân tộc đang đứng trước những thách thức cực kì nguy hiểm khi các thế lực hiếu
chiến dựa vào tiềm lực quân sự hiện đại tiến hành chiến tranh xâm lược những nước có

chủ quyền, bất chấp luật pháp.
Do vậy, cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu, học tập, quán triệt tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp trong tình hình mới, làm cơ sở vững chắc cho việc

24


×