Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

de thi hsg van 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.02 KB, 22 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

1) Cảm nhận về bài thơ đồng chí của Chính Hữu


"Đồng chí" là bài thơ hay nhất của Chính Hữu viết về người nơng dân mặc áo lính trong những
năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Bài thơ được viết vào đầu xuân
1948, sau chiến tháng Việt Bắc thu đông 1947, nó đã đi qua một hành trình nửa thế kỉ làm sang
trọng một hồn thơ chiến sĩ của Chính Hữu.


Hai mươi dịng thơ, với ngơn ngữ bình dị, giọng điệu thủ thỉ tâm tình, cảm xúc dồn nén, hình
tượng thơ phát sáng, có một vài câu thơ để lại nhiều ngỡ ngàng cho bạn đọc trẻ ngày nay.
Bài thơ "Đồng chí" ca ngợi tình đồng đội gian khổ có nhau, vào sinh ra tử có nhau của các anh
bộ đội Cụ Hồ, những người nông dân yêu nước đi bộ đội đánh giặc trong những năm đầu gian
khổ thời 9 năm kháng chiến chống Pháp (1946-1954).


Hai câu thơ đầu cấu trúc song hành, đối xứng làm hiện lên hai “gương mặt" người chiến sĩ rất
trẻ, như đang tâm sự cùng nhau. Giọng điệu tâm tình của một tình bạn thân thiết:


"Quê hương anh nước mặn, đồng chua,
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá".


Quê hương anh và làng tôi đều nghèo khổ, là nơi "nước mặn, đồng chua", là xứ sở "đất cày lên
sỏi đá". Mượn tục ngữ, thành ngữ để nói về làng quê, nơi chơn nhau cắt rốn thân u của
mình, Chính Hữu đã làm cho lời thơ bình dị, chất thơ mộc mạc, đáng yêu như tâm hồn nguời
trai cày ra trận đánh giặc. Sự đồng cảnh, đồng cảm và hiểu nhau là cơ sở, là cái gốc làm nên
tình bạn, tình đồng chí sau này.


Năm câu thơ tiếp theo nói lên một q trình thương mến: từ "đơi người xa lạ" rồi "thành đôi tri
kỉ", về sau kết thành "đồng chí". Câu thơ biến hóa, 7, 8 từ rồi rút lại, nén xuống 2 từ, cảm xúc
vần thơ như dồn tụ lại, nén chặt lại. Những ngày đầu đứng dưới lá qn kì: "Anh với tơi đơi
người xa lạ - Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau". Đơi bạn gắn bó với nhau bằng bao kỉ
niệm đẹp:



"Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đơi tri kỉ


Đồng chí!"


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

mình. Bạn chiến đấu thành tri kỉ, về sau trở thành đồng chí! Câu thơ 7, 8 từ đột ngột rút ngắn lại
hai từ "đồng chí” làm diễn tả niềm tự hào xúc động ngân nga mãi trong lòng. Xúc động khi nghĩ
về một tình bạn đẹp. Tự hào về mối tình đồng chí cao cả thiêng liêng, cùng chung lí tưởng
chiến đấu của những người binh nhì vốn là những trai cày giàu lòng yêu nước ra trận đánh
giặc. Các từ ngữ được sử dụng làm vị ngữ trong vần thơ: bên, sát, chung, thành - đã thể hiện
sự gắn bó thiết tha của tình tri ki, tình dồng chí. Cái tấm chăn mỏng mà ấm áp tình tri kỉ, tình
đồng chí ấy mãi mãi là kỉ niệm đẹp của người lính, khơng bao giờ có thể qn:


"Ơi núi thẳm rừng sâu
Trung đội đã về đâu
Biết chăng chiều mưa mau


Nơi đây chăn giá ngắt
Nhớ cái rét ban đầu
Thấm mối tình Việt Bắc..."


("Chiều mưa đường số 5" - Thâm Tâm)


Ba câu thơ tiếp theo nói đến hai người đồng chí cùng nhau một nỗi nhớ: nhớ ruộng nương,
nhớ bạn thân cày, nhớ gian nhà, nhớ giếng nước, gốc đa. Hình ảnh nào cũng thắm thiết một
tình quê vơi đầy:


"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,
Gian nhà khơng mặc kệ gió lung lay,
Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính".



Giếng nước gốc đa là hình ảnh thân thương của làng quê được nói nhiều trong ca dao xưa:
"Cây đa cũ, bến đò xưa... Gốc đa, giếng nước, sân đình...", được Chính Hữu vận dụng, đưa
vào thơ rất đậm đà, nói ít mà gợi nhiều, thấm thía. Gian nhà, giếng nước, gốc đa được nhân
hóa, đang đêm ngày dõi theo bóng hình anh trai cày ra trận ?


Hay "người ra lính” vẫn đêm ngày ơm ấp hình bóng q hương ? Có cả 2 nỗi nhớ ở cả hai phía
chân trời, tình u q huơng đã góp phần hình thành tình đồng chí, làm nén sức mạnh tinh
thần để người lính vượt qua mọi thử thách gian lao, ác liệt thời máu lửa. Cùng nói về nỗi nhớ
ấy, trong bài thơ "Bao giờ trở lại", Hồng Trung Thơng viết:


"Bấm tay tính buổi anh đi,


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Lúa xanh xanh ngắt chân đê,
Anh đi là để giữ quê quán mình.


Cây đa bến nước sân đình,
Lời thề nhớ buổi mít tinh lên đường.


Hoa cau thơm ngát đầu nương,
Anh đi là giữ tình thương dạt dào.


(...) Anh đi chín đợi mười chờ,
Tin thường thắng trận, bao giờ về anh?"


Bảy câu thơ tiếp theo ngồn ngộn những chi tiết rất thực phản ánh hiện thực kháng chiến buổi
đầu! Sau 80 năm bị thực dân Pháp thống trị, nhân dân ta đã quật khởi đứng lên giành lại non
sông. Rồi với gậy tầm vông, với giáo mác,... nhân dân ta phải chống lại xe tăng, đại bác của
giặc Pháp xâm lược. Những ngày đầu kháng chiến, quân và dân ta trải qua muôn vàn khó
khăn: thiếu vũ khí, thiếu qn trang, thiếu lương thực, thuốc men.... Người lính ra trận "áo vải


chân không đi lùng giặc chinh", áo quần rách tả tơi, ốm đau bệnh tật, sốt rét rừng, "Sốt run
người vừng trán ướt mồ hôi":


"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.


Áo anh rách vai
Quần tơi có vài mảnh vá


Miệng cười buốt giá chân không giày..."


Chữ "biết" trong đoạn thơ này nghĩa là nếm trải, cùng chung chịu gian nan thử thách. Các chữ:
"anh với tôi", "áo anh... quần tôi" xuất hiện trong đoạn thơ như một sự kết dính, gắn bó keo sơn
tình đồng chí thắm thiết cao dẹp. Câu thơ 4 tiếng cấu trúc tương phản: "Miệng cười buốt giá"
thể hiện sâu sắc tinh thần lạc quan của hai chiến sĩ, hai đồng chí. Đoạn thơ được viết dưới
hình thức liệt kê, cảm xúc từ dồn nén bỗng ào lên: "Thương nhau tay nắm lấy bàn tay". Tình
thương đồng đội được hiểu hiện bằng cử chỉ thân thiết, yêu thương: "tay nắm lấy bàn tay". Anh
nắm lấy tay tôi, tôi nắm lấy bàn tay anh, để động viên nhau, truyền cho nhau tình thương và
sức mạnh, để vượt qua mọi thử thách, "đi tới và làm nên thắng trận".


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

đêm đông vô cùng lạnh lẽo hoang vu giữa núi rừng chiến khu. Trong gian khổ ác liệt, trong
căng thẳng "chờ giặc tới", hai chiến sĩ vẫn "đứng cạnh bên nhau", vào sinh ra tử có nhau. Đó là
một đêm trăng trên chiến khu, một tứ thơ đẹp bất ngờ xuất hiện:


"Đầu súng trăng treo".


Người chiến sĩ trên đường ra trận thì "ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”. Người lính đi phục
kích giặc giữa một đêm đơng "rừng hoang sương muối" thì có "đầu súng trăng treo". Cảnh vừa
thực vừa mộng, về khuya trăng tà, trăng lơ lửng trên không như đang treo vào đầu súng. Vầng
trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp đất nước thanh bình. Súng mang ý nghĩa cuộc chiến đấu gian


khổ hi sinh. "Đấu súng trăng treo” là một hình ảnh thơ mộng, nói lên trong chiến đấu gian khổ,
anh bộ đội vẫn u đời, tình đồng chí thèm keo sơn gắn bó, họ cùng mơ ước một ngày mai đất
nước thanh bình. Hình ảnh "Đầu súng trăng treo" là một sáng tạo thi ca mang vẻ đẹp lãng mạn
của thơ ca kháng chiến, đã được Chính Hữu lấy nó đặt tên cho tập thơ - Đóa hoa đầu mùa của
mình. Trăng Việt Bắc, trăng giữa núi ngàn chiến khu,trăng trên bầu trời, trăng tỏa trong màn
sương mờ huyền ảo. Mượn trăng để tả cái vắng lặng của chiến trường, để tô đậm cái tư thế
trầm tĩnh "chờ giặc tới". Mọi gian nan căng thẳng của trận đánh sẽ diễn ra (?) đang nhường
chỗ cho vẻ đẹp huyền diệu, thơ mộng của vầng trăng, và chính đó cũng là vẻ đẹp cao cả thiêng
liêng của tình đồng chí, tình chiến đấu.


Bài thơ "Đồng chí" vừa mang vẻ đẹp giản dị, bình dị khi nói về đời sống vật chất của người
chiến sĩ, lại vừa mang vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng, thơ mộng khi nói về đời sống tâm hồn, về
tình đồng chí của các anh – người lính binh nhì buổi đầu kháng chiến.


Ngôn ngữ thơ hàm súc, mộc mạc như tiếng nói của người lính trong tâm sự, tâm tinh. Tục ngữ
thành ngữ, ca dao được Chính Hữu vận dụng rất linh hoạt, tạo nên chất thơ dung dị, hồn


nhiên, đậm đà. Sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và màu sắc lãng mạn chung đúc nên hồn
thơ chiến sĩ.


"Đồng chí" là bài thơ rất độc đáo viết về anh bộ đội Cụ Hồ - người nơng dân mặc áo lính,
những anh hùng áo vải trong thời đại Hồ Chí Minh. Bài thơ là một tượng đài chiến sĩ tráng lệ,
mộc mạc và bình dị, cao cả và thiêng liêng.


2)Cảm nhận và nêu suy nghĩ của em về đoạn kết bài thơ đồng chí


Đồng chí! Ơi tiếng gọi nghe sao mà thân thiết nghĩa tình đến vậy! Là một nhà thơ - chiến sĩ, với
ngịi bút vừa hiện thực vừa lãng mạn, Chính Hữu đã viết bài thơ Đồng chí với tất cả cảm xúc
chân thành nhất của mình. Bài thơ hay khép lại bằng những hình ảnh thật đẹp và đầy ấn
tượng:



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i>Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới</i>
<i>Đầu súng trăng treo.</i>


Cả bài thơ thể hiện tình đồng chí keo sơn gắn bó của những người chiến sĩ trong những tháng
ngày gian khổ của cuộc kháng chiến trường kì. Nhạc điệu bài thơ trầm lắng như lời tâm tình
của hai người lính trong đêm trăng chờ phục kích cơng đồn. Tình cảm ấy đã được hình thành
từ những thiếu thốn vật chất đến những thử thách ngồi chiến trường. Để rồi từ đó trở thành
tình cảm thiêng liêng - tình đồng chí. Hai người lính đến với nhau từ hai phương trời xa lạ
nhưng lại có nhiều nét tương đồng, những nét tưởng lạ mà quen. Đó là tình u q hương, xứ
sở. Và bây giờ sự gắn bó vẫn đang nảy nở và thắm thiết hơn trong đêm chờ giặc tới!


<i>Đêm nay rừng hoang sương muối</i>


Khung cảnh thiên nhiên thật khắc nghiệt: rừng hoang sương muối. Chỉ có ai đã từng sống
trong khói lửa chiến tranh, thiếu thốn như các anh với áo rách vai, chân khơng giày mới có thể
hiểu được cái rét buốt lạnh cắt da thịt của đêm sương muối ở rừng. Trong cảnh rừng hoang
vắng rậm rạp và lạnh lẽo ấy hiện lên hình tượng một con người kì vĩ đẹp lạ thường:


<i>Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới</i>


Câu thơ xua tan đi màn sương mờ ảo, sưởi ấm cả cánh rừng hoang vu. Dưới ánh trăng, người
chiến sĩ thật đẹp, thật trong sáng. Từ đứng cạnh bên nhau đã tạo nên bức chân dung hoàn
chỉnh về tư thế của các anh. Các anh tuy hai mà một, tuy ít mà nhiều. Các anh đã cùng chia sẻ
bao khó khăn, vất vả cùng với những cảm xúc của một người lính trẻ để đi lúc này trong giây
phút căng thẳng hồi hộp chờ giặc tới, các anh vẫn luôn ở bên nhau. Đứng giữa ranh giới của
sự sống và cái chết, giữa hồ bình độc lập và nơ lệ, giữa thiên đường và địa ngục, các anh vẫn
nhớ đến đồng đội trao cho nhau hơi ấm của tình người, tình đồng chí.


Đọc thơ Chính Hữu ta như cảm thấy hơi ấm đang toả ra khắp cơ thể, khắp không gian. Hơi ấm


ấy phải chăng được bắt nguồn từ cảm xúc chân thành, mộc mạc, giản dị trong lời thơ Chính
Hữu. Câu thơ cuối tuy đã khép lại tác phẩm nhưng với em nó mãi là dư âm khơng bao giờ cạn:


<i>Đầu súng trăng treo</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

súng trong bài thơ Đồng chí khiến ta chợt nhớ đến sơng Mã, Tây Tiến trong câu thơ của Quang
Dũng:


<i> Heo hút cồn mây, súng ngửi trời </i>


Đáng trọng và đáng quí làm sao khi trong thời máu lửa oai hùng đó vẫn có những vần thơ thật
hay, thật đẹp và thú vị đến thế!


Như lời kết nhẹ nhàng của bản nhạc du dương, Đồng chí của Chính Hữu đã cho thế hệ trẻ
hôm nay phần nào hiểu được giá trị thiêng liêng, cao cả của tình đồng chí, đồng đội thời chiến.
Những lời thơ trong Đồng chí đã gieo vào lòng bạn đọc bao cảm xúc và ấn tượng mới mẻ khép
lại trang thơ mà hình ảnh Đầu súng trăng treo vẫn hiện ra trong ý nghĩ người đọc như một thứ
hào quang soi rọi về một thời quá khứ oai hùng, hướng chúng ta đến những gì tốt đẹp ở tương
lai.


3)Cảm nhận về bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính”


Cuộc kháng chiến chông Mĩ cứu nước của dân tộc ta là một bản anh hùng ca bất


diệt. Trong những năm tháng sục sơi khí thế xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, nhân


dân miền Bắc đã không tiếc sức người sức của, chi viện cho miền Nam ruột thịt.


Những đoàn quân trùng trùng điệp điệp nối nhau ra tiền tuyến và Phạm Tiến Duật


cũng có mặt trong đội ngũ ấy. Anh đã được tôi luyện và trưởng thành trong chiến


tranh ác liệt và trở thành một nhà thơ – chiến sĩ. Chùm thơ: Bài thơ về tiểu đội xe


khơng kính, Nhớ, Gửi em cơ gái thanh niên xung phong đã được giải Nhất cuộc thi


thơ của báo Văn nghệ năm 1969.




Thơ Phạm Tiến Duật không lơi cuốn người đọc bằng những hình ảnh lãng mạn hay


ngôn ngữ mượt mà, trau chuốt, âm điệu du dương… Ngược lại, người đọc thích thơ


anh bỏi sự sống động, tự nhiên, gân guốc, táo bạo và độc đáo. Có thể coi Bài thơ về


tiểu đội xe khơng kính tiêu biểu cho phong cách sáng tác của nhà thơ – chiến sĩ này.


Thông qua bài thơ, Phạm Tiến Duật ca ngợi tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm,


bất chấp khó khăn nguy hiểm, niềm vui trẻ trung, sôi nổi cùng quyết tâm chiến đấu vì


miền Nam ruột thịt của các chiến sĩ lái xe Trường Sơn.



Bài thơ khắc họa thành cơng một hình tượng độc đáo: những chiếc xe ôtô vận tải


không có kính chắn gió mà vẫn băng băng trên đường ra trận. Bên trong cái vỏ ngồi


xấu xí, xây xát của những chiếc xe khơng kính ấy là một bề dày thành tích chiến đấu


và quý giá nhất là có mội trái tim sáng ngời tinh thần yêu nước của những người lính


trẻ.



Mở đầu bài thơ, tác giả giải thích ngun nhân vì sao xe khơng có kính bằng lời lè


giản dị, tự nhiên:



</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Lí do thế là đã rõ. Kính xe đã bị những trận bom ác liệt của giặc Mĩ làm cho vỡ hết.


Lời giải thích đơn sơ nhưng khả năng gợi tả rất lớn, giúp người đọc hiểu ra rằng


những chiếc xe này đã dạn dày, từng trải trên đường ra mặt trận. Giới thiệu về xe mà


cũng là bước đầu giới thiệu về chủ nhân của chúng.



Từ câu thơ thứ ba trở đi, hình ảnh người chiến sĩ lái xe là nhân vật chính và những


chiếc xe khơng kính trở thành cái nền làm nổi bật tính cách, phẩm chất đẹp đẽ của


họ. Khi người lái xe mở máy cho xe lăn bánh đồng nghĩa với bắt đầu bước vào trận


đánh. Sự sống và cái chết cách nhau chỉ trong gang tấc, nhưng họ vẫn giữ được tư


thế hiên ngang, tự tin hiếm có:



Ung dung buồng lái ta ngồi,



Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.



Tính từ ung dung đặt ở vị trí đầu câu nhấn mạnh tư thế chủ động ấy. Trong bai nhìn


bao quát cả đất trời ẩn chứa niềm kiêu hãnh của người làm chủ tình thế, coi thường


mọi khó khăn nguy hiểm. Đối đầu với máy bay giặc Mĩ, các chiến sĩ lái xe của ta


thường ở thế bị động. Vậy dựa vào đâu mà họ ra trận với phong thái ung dung như


vậy? Chỗ dựa tinh thần lớn lao nhất chính là niềm tin tất thắng vào cuộc đấu tranh


giải phóng dân tộc, là tình cảm tất cả vì miền Nam thân yêu, là chân lí Thà hi sinh tất


cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Họ hiểu rằng


chiến trường và đồng đội đang cần vũ khí, lương thực, thuốc men… để đủ sức đánh


trả qn thù những địn đích đáng. Chủ quyền độc lập, tự do thiêng liêng của Tổ


quốc, của dân tộc thôi thúc họ hành động.



Ai đã từng một lần đặt chân đến Trường Sơn vào thời kì chơng Mĩ mới thấu hiểu


những gian khổ, hiểm nguy của người lính lái xe. Đường Trường Sơn gập ghềnh,


hiểm trở. Mùa mưa, mưa như thác đổ. Mùa khô, xe chạy bụi bay mù trời. Ngày nào


trời quang mây tạnh thì máy bay Mĩ liên tục trút bom đạn xuống những đoàn xe nối


nhau ra mặt trận. Xe có kính người lái xe đã vất vả, xe khơng có kính lại càng vất vả


biết chừng nào. Bút pháp tả thực kết hợp với bút pháp lãng mạn tạo nên vẻ đẹp bất


ngờ của những câu thơ:



Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng



</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Cảm giác của người chiến sĩ lái xe trong chiếc xe khơng kính trên đường ra trận đã


được nhà thơ diễn tả cụ thể và sinh động. Đoàn xe chạy tạo nên những cơn lốc bụi


mù trời. Xe không kính, gió lùa mạnh vào buồng lái khiến người lái xe tưởng như


nhìn thấy gió. Gió thốc làm cay đến chảy nước mắt mà lại nói là gió vào xoa mắt


đắng thì quả là độc đáo và hóm hỉnh. Dường như các chàng lái xe ngạo nghễ thách


thức cái khí hậu khắc nghiệt của rừng núi Trường Sơn. Khơng cịn lớp kính ngăn


cách, con người và thiên nhiên như gần gũi hơn, do đó mà sự cảm nhận dường như



tăng lên gấp bội. Sao trời ban đêm, cánh chim ban ngày nhự say như ùa vào buồng


lái. Xe lao lên phía trước, con đường lùi lại phía sau, người lái xe tưởng như nhìn


thấy con đường chạy thẳng vào tim. Câu thơ chứa đựng ý nghĩa tượng trưng sâu xa:


con đường vào chiến trường miền Nam chính là đích đến của trái tim người lính.


Nỗi vất vả, gian nan được Phạm Tiến Duật miêu tả bằng những hình ảnh chân thực,


giản dị nhưng để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc:



Khơng có kính, ừ thì có bụi,



Bụi phun tóc trắng như người già



Chưa cần rửa, phì phèo châm điệu thuốc


Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.



Khơng có kính, ừ thì ướt áo



Mưa tn mưa xối như ngoài trời


Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa


Mưa ngừng, gió lùa khơ mau thơi.



Hai đoạn thơ tả thực đến từng chi tiết, từng hình ảnh và thật, cả trong cách diễn tả.


Câu thơ đậm chất văn xi, mộc mạc như lời nói thường ngày. Xe khơng kính, bụi


phun tóc trắng như người già. Xe khơng kính,mưa tn mưa xối như ngồi trời. Điệp


từ chưa cần, hình ảnh phì phèo châm điếu thuốc, giọng cười ha ha sảng khối… làm


nổi bật chất bình dị mà ành hùng của những chiến sĩ lái xe trong chiến tranh. Gian


khổ tột cùng nhưng hào hùng cũng tột bậc. Đó là chất lạc quan thanh thản của một


dân tộc, chất dũng cảm thuộc về bản chất con người Việt Nam. Các chiến sĩ lái xe


chấp nhận tất cả với thái độ vui vẻ, phớt đời, pha chút ngang tàng, rất lính.



</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Những chiếc xe từ trong bom rơi



Đã về đây họp thành tiểu đội


Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới


Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi.


Bếp Hồng Cầm ta dựng giữa trời


Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy


Võng mắc chơng chênh đường xe chạy


Lại đi, lại đi trời xanh thêm.



Đến đây thì mọi khó khăn, nguy hiểm đã bị đẩy lùi ra xa, làm nền cho tập thể của


những chiến sĩ lái xe từ mọi chiến trường về đây họp thành tiểu đội xe khơng kính.


Họ thương nhau cịn hơn ruột thịt, sống chết có nhau, cùng chung lí tưởng và tình


cảm cao đẹp: tất cả vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.



Có lẽ khơng ngơn ngữ nào diễn tả hết tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng trong hoàn


cảnh ấy. Bữa cơm nấu vội giữa trời đất bao la của núi rừng Trường Sơn, giấc ngủ


chập chờn trên cánh võng chông chênh đường xe chạy đã đủ nói lên tất cả. Và lạ


lùng thay, nhà thơ đã bất chợt khám phá ra điều thú vị là những khó khăn, nguy hiểm


của người lính lái xe khơng kính lại trở thành tiện lợi bất ngờ khi họ gặp nhau trên


đường ra mặt trận:



Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới


Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi.



Tình đồng đội đã sưởi ấm lòng chiến sĩ, chắp cánh cho tâm hồn họ bay bổng. Họ tạm


nghỉ bên nhau phút chốc để rồi lại lên đường, lại đi, lại đi đến những nơi cần hàng,


cần đạn. Họ tin tưởng ngày mai trời xanh thêm và chiến thắng đang tới rất gần.



Đoạn kết của bài thơ thật đẹp. Chất hiện thực nghiệt ngã và lãng mạn bay bổng hoà


quyện với nhau:




</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Càng, gần thắng lợi, càng nhiều gian nan, đó là quy luật. Mức độ chiến tranh ác liệt in


dấu rõ ràng trên những chiếc xe vận tải quân sự: khơng kính, khơng đèn, khơng mui,


thùng xe đầy vết xước do bom đạn giặc. Nhưng xe vẫn chạy vào hướng miền Nam –


tiền tuyến lớn đang thôi thúc, vẫy gọi bởi trong xe có một trái tim nóng bỏng tình u


và trách nhiệm cơng dân trước vận mệnh của đất nước, dân tộc. Hình ảnh trái tim


trong câu thơ cuối là một hoán dụ nghệ thuật rất có ý nghĩa, đã tơn vinh tầm vóc


những người chiên sĩ lái xe anh hùng và nâng cao giá trị nội dung, nghệ thuật của bài


thơ.



Tinh thần dũng cảm, thái độ thanh thản, lạc quan của những chiến sĩ lái xe trong mưa


bom, bão đạn quân thù xứng đáng tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng của


tuổi trẻ Việt Nam, của dân tộc Việt Nam thời chống Mĩ.



Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính là một tác phẩm tự sự nhưng đậm chất trữ tình


cách mạng. Nhà thơ đã khắc hoạ hình ảnh những chiến sĩ lái xe bằng tấm lòng cảm


phục và mến thương sâu sắc. Họ là những con người tự nguyện dấn thân, vui trong


gian khổ, chấp nhận hi sinh. Ngôn ngữ thơ giản dị, tự nhiên nhưng giàu sức gợi cảm,


hình ảnh sáng tạo, độc đáo, nhịp thơ tự đo, phóng khống… Tất cả những yếu tố đó


làm nên cái hay, cái đẹp của bài thơ. Song điều quý giá nhất vẫn là cái tình, là sự hố


thân của tác giả vào nhân vật để tìm tòi, phát hiện ra những hạt ngọc long lanh trong


tâm hồn thế hệ trẻ anh hùng của một dân tộc anh hùng.



4)Suy nghĩ của em về người lính lái xe trong bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính”
Trong những đồn qn điệp trùng nối nhau ra trận có chàng trai trẻ Phạm Tiến Duật .Anh
được tôi luyện và trưởng thành trong chiến tranh và trở thành nhà thơ chiến sỹ .Thơ anh không
cuốn hút người đọc bằng ngôn từ mượt mà, âm điệu du dương mà nó khiến người đọc say
bằng chính sự tự nhiên,sống động,gân guốc,độc đáo và đậm chất lính tráng.“Bài thơ về tiểu đơi
xe khơng kính” là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ đó .


Xuyên suốt bài thơ là hai hình ảnh trung tâm:những chiếc xe và những người chiến sĩ lái


xe.Những chiếc xe khơng kính và ngun nhân của nó được giới thiệu bằng lời thơ tự nhiên
,mộc mạc như một lời phân bua mà có lẽ trước tác giả chưa ai khám phá ra chất thơ bộc lộ
ngay trong vẻ tự nhiên của ngôn từ :


Khơng có kính khơng phải vì xe khơng có kính
Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi .


Cách lý giải đơn giản ,ngộ nghĩnh tạo thú vị cho người đọc .Cảm hứng thơ bắt đầu từ hiện thực
ác liệt nơi chiến trường với “bom giật, bom rung ”giúp ta hình dung sự tàn phá của đạn bom
trên những nẻo Trường Sơn năm ấy vô cùng dữ dội. Song thiếu đi những phương tiện vật chất
tối thiểu lại là cơ sở để người lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp và sức mạnh tinh thần lớn
lao của họ :


Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất ,nhìn trời ,nhìn thẳng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

bảo đảm .Vậy mà thái độ của các anh bình thản tự tin đến khơng ngờ.Trong tư thế ung dung
,trong cái nhìn bao quát cả đất trời cịn có cả niềm kiêu hãnh của người làm chủ hồn cảnh ,tự
hào ngắm nhìn đón nhận thiên nhiên.Nhịp thơ cân xứng,ý thơ trôi chảy ,lời thơ nhẹ nhàng như
diễn tả hình ảnh những đồn xe lăn bánh trên những nẻo đường ra trận .Cái vất vả ,gian khổ
hiểm nguy được miêu tả bằng những hình ảnh giản dị trung thực đến từng chi tiết:


Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng


Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái .


Xe khơng kính ,gió lùa mạnh vào cabin,người lái xe khơng chỉ cảm thấy mà cịn nhìn thấy “gió
vào xoa mắt đắng ”. Cử chỉ quá đỗi trìu mến,dịu dàng và thân thiện ấy của gió làm đắng những


đơi mắt cay xè vì thiếu ngủ .Và hơn thế nữa ,nắng mưa gió bụi của Trường Sơn đã trở thành
những bạn đồng hành :


Khơng có kính ừ thì có bụi


Bụi phun tóc trắng như người già .
…Khơng có kính ừ thì ướt áo
Mưa phun mưa xối như ngoài trời .


Điệp từ “ừ thì” , “chưa cần” ,hình ảnh “phì phèo châm điếu thuốc ”,giọng “cười haha” hào sảng
làm tôn lên chất bình dị mà anh hùng của những chàng trai trẻ biết biến cái vất vả gian nan
thành phút giây thư giãn thoải mái .Qua đó làm sáng lên tinh thần cứng cỏi đầy nghị lực và bất
chấp gian khó của những người biết vượt lên hồn cảnh để làm chủ hồn cảnh .Có lẽ ai đã
từng đến Trường sơn mới thấu hết cái gian nan của người cầm lái.Đường Trường Sơn gập
ghềnh,mưa Trường Sơn như trút nước,mùa khô xe chạy bụi mù trời.Bom đạn của qn thù
khơng làm các anh chùn bước thì gió, bụi,mưa sa của thiên nhiên khắc nghiệt nào có đáng kể
chi.Trên những chiếc xe khơng kính ,tâm trạng người chiến sĩ lái xe vẫn phơi phới thênh thang:
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới


Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi .


Lạ lùng thay ,như một khám phá bất chợt của nhà thơ ,sự hiểm nguy của những chiếc xe
khơng kính lại trở thành sự tiện lợi bất ngờ khi các chàng lính gặp nhau , bởi họ có thể khơng
cần phải xuống xe mà vẫn có thể bắt tay nhau thể hiện tình thân ái. Cơng việc vất vả, hiểm
nguy nhưng phút nghỉ ngơi của những người lính lại vơ cùng giản dị :


Bếp Hồng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy .


Cuộc sống dẫu giản dị, xuềnh xồng nhưng ấm áp tình cảm .Những người lính khơng chỉ là


đồng chí ,đồng đội của nhau mà họ cịn là những người cùng trong một gia đình . Bởi vậy sau
những phút nghỉ ngơi ngắn ngủi họ lại tiếp tục cơng việc của mình với niềm tin mãnh liệt vào
ngày mai chiến thắng . Chỉ có điều càng gần đến phương Nam những chiếc xe ngày càng hư
hỏng :


Khơng có kính rồi xe khơng có đèn
Khơng có mui xe, thùng xe có xước .


Khi tứ xe “khơng kính” được gói lại thì những con số khơng khác lại mở ra : “không đèn”,“không
mui”,chỉ một thứ duy nhất có thêm nhưng lại là “có xước”.Như vậy cả “khơng có” và “có ”đều là
tổn thất ,đều là hư hại.Điệp ngữ “khơng có” được nhắc lại ba lần như nhân lên ba lần những
thử thách khốc liệt của chiến tranh , hoàn thiện dung mạo trụi trần đến kinh ngạc của chiếc xe
vận tải. Vượt dãy Trường Sơn ,đi qua đạn bom khói lửa của kẻ thù ,mang trên mình đầy
thương tích những chiếc xe như một dũng sĩ kiên cường . Kì lạ thay :


Xe vẫn chạy vì miền nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

và lạc quan tin tưởng vào thắng lợi tất yếu của cuộc kháng chiến .Câu thơ khép lại nhưng con
mắt thơ thì mở ra .Ta chợt nhận ra người chiến sỹ lái xe là một phần không thể thiếu ,là con
mắt ,là bộ não ,là linh hồn của xe .Có trái tim chiếc xe thành một cơ thể sống ,thành một khối
thống nhất với người chiến sĩ .Ta hiểu vì sao cả đồn xe có thể vượt qua dãy Trường Sơn khói
lửa bởi cội nguồn sức mạnh của nó kết tụ lại cả trong trái tim gan góc, kiên cường, giàu bản
lĩnh và chan chứa u thương.Có lẽ vì thế mà nhiều người cho rằng đây là hình ảnh trái tim
cầm lái .


Đến với bài thơ ta thú vị nhận ra cái giọng rất trẻ,rất lính.Chất giọng ấy bắt nguồn từ sức trẻ ,từ
tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam mà chính tác giả đã từng sống, từng trải


nghiệm.Ngôn ngữ thơ giản dị đậm chất văn xi,hình ảnh thơ sáng tạo bất ngờ ,đặc biệt là sự


linh hoạt của nhạc điệu trong thơ đã góp phần tạo nên sức hấp dẫn sâu sắc của bài thơ trong
lịng độc giả


5)Phân tích bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá “


Huy Cận là một trong những tên tuổi tiêu biểu của phong trào Thơ mới trước Cách


mạng tháng Tám năm 1945, với những tác phẩm nổi tiếng như Lửa thiêng, Vũ trụ


ca… Sau Cách mạng, ơng nhanh chóng hịa nhập vào cơng cuộc kháng chiến vĩ dại


của dân tộc chống thực dân Pháp. Hịa bình lập lại, từng trang thơ Huy Cận ấm áp


hơi thở của cuộc sống mới đang lên. Đồn thuyền đánh cá được sáng tác ở Hịn Gai,


năm 1958. Sau một chuyến tác giả đi thực tế dài ngày, được đánh giá là một trong


những bài hay của thơ ca Việt Nam hiện đại.



Với đôi mắt quan sát sắc sảo, trí tưởng tượng phong phú, trái tim nhạy cảm và tài


năng nghệ thuật điêu luyện, nhà thơ đã vẽ nên trước mắt chúng ta một khung cảnh


lao động tuyệt vời trên biển. Cả bài thơ như một bức tranh sơn mài lộng lẫy với


những màu sắc huyền ảo, cuốn hút vô cùng:



Mặt trời xuống biển như hịn lửa.


Sóng đã cài then, đêm sập cửa.


Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,


Câu hát căng buồm cùng gió khơi.



</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Lời hát ngợi ca sự giàu có và hào phóng của biển cả cùng vẻ đẹp lung linh, diệu kì


của nó trong đêm. Bút pháp lãng mạn của nhà thơ vẽ nên khung cảnh vừa thực vừa


ảo:



Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng


Cá thu biển Đơng như đồn thoi


Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.



Đến dệt lưới ta, đàn cá ơi !



Vẻ đẹp của biển đã làm giảm bớt nỗi nhọc nhằn vất vả, đem lại niềm vui và sức


mạnh cho con người đang chinh phục thiên nhiên, làm chủ cuộc đời.



Cảnh đánh cá trong đêm dược nhà thơ quan sát và miêu tả với một cảm hứng trữ


tình mãnh liệt. Tác giả như nhập thân vào thiên nhiên, vào cơng việc, vào con người:


Thuyền ta lái gió với buồm trăng



Lướt giữa mây cao với biển bằng,


Ra đậu dặm xa dò bụng biển,


Dàn đan thế trận lưới vây giăng.



Những hình ảnh lái gió, buồm trăng, mây cao, biển bằng phảng phất phong vị thơ cổ


điển nhưng vẫn tươi mới chất hiện thực. Một chuyến ra khơi đánh cá cũng giống như


một trận đánh. Cũng thăm dị tìm cho ra bãi cá; cũng dàn đan thế trận để giăng lưới,


bủa lưới sao cho trúng luồng cá bạc, để sáng mai lúc trở về, thuyền nào thuyền nấy


đầy ắp cá.



Đã bao đời, người ngư dân có mối quan hệ chặt chẽ với biển cả. Họ thuộc biển như


thuộc lịng bàn tay. Bao lồi cá họ thuộc tên, thuộc dáng, thuộc cả thói quen của


chúng:



Cá nhụ cá chim cùng cá đé,


Cá song lấp lánh đuốc đen hồng


Cái đi em quẫy trăng vầng chóe.


Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.



</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Trăng chiếu sáng cho ngư dân kéo được những mẻ cá đầy. Thiên nhiên, con người


thật là hồ hợp.




Bóng đêm đang tan, ngày đang đến, nhịp độ công việc càng sôi nổi, khẩn trương:


Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,



Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.


Vảy bạc đi vàng lóe rạng đơng,


Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.



Bao cơng lao vất vả đã được đền bù. Dáng người ngư dân đang choãi chân, nghiêng


người, dồn tất cả sức mạnh vào đôi cánh tay cuồn cuộn để kéo lên những mẻ lưới


nặng trĩu mới đẹp làm sao! Bóng dáng họ in trên nền trời hồng rực của buổi bình


minh. Những tia nắng sớm chiếu trên khoang cá đầy làm lấp lánh thêm vảy bạc, đuôi


vàng và màu sắc phong phú của bao lồi cá cũng khiến cho cảnh rạng đơng thêm


rực rỡ. Nhịp điệu câu thơ cuối chậm rãi, gợi cảm giác thanh thản, vui tươi, phản ánh


tâm trạng thoải mái của ngư dân trước kết quả tốt đẹp của chuyến ra khơi.



Khố thơ cuối cùng miêu tả cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá:


Câu hát căng buồm với gió khơi,



Đồn thuyền chạy đua cùng mặt trời.


Mặt trời đội biển nhơ màu mới,



Mắt cá huy hồng mn dặm phơi.



Vẫn là tiếng hát khoẻ khoắn của người ngư dân dạn dày sóng nước đang vươn lên


làm chủ cuộc đời. Tiếng hát hồ trong gió, thổi căng cánh buồm đưa đoàn thuyền ra


khơi đêm trước, nay lại cùng đoàn thuyền đầy ắp cá hân hoan về bến. Hình ảnh


Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời rất hiện thực mà cũng rất hào hùng. Nó phản


ánh một thói quen lâu đời của ngư dân là đưa cá về bến trước khi trời sáng, đồng


thời cũng thế hiện khí thế đi Lên mạnh mẽ của họ trong cơng cuộc xây dựng đất



nước sau giải phóng.



</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

niềm vui. Đến đây, bức tranh biển cả ngập tràn sắc màu tươi sáng và ăm ắp chất


sống trong từng dáng hình, đường nét của cảnh vật, của con người.



Đoàn thuyền đánh cá là một bài ca lao động hứng khởi, hào hùng. Nhà thơ ca ngợi


biển cả mênh mông – nguồn tài nguyên bất tận của Tổ quốc, ca ngợi những con


người lao động cần cù, gan góc, ngày đêm làm giàu cho đất nước. Cảm hứng trữ


tình của Huy Cận và nghệ thuật điêu luyện của ông đã cuốn hút người đọc thực sự.


Chúng ta cùng chia sẻ niềm vui to lớn với nhà thơ, với tất cả. Những người lao động


mới đang kiêu hãnh ngẩng cao đầu trên con đường đi tới tương lai tươi sáng. Nửa


thế kỉ đã trôi qua, bài thơ vẫn giữ nguyên vẹn giá trị ban đầu của nó. Phần nào, bài


thơ giúp chúng ta hiểu được chân dung tinh thần mới của Huy Cận sau bao biến cố


lịch sử trọng đại của đất nước và dân tộc – một Huy Cận trữ tình cách mạng.



6)Cảm nhận về bài thơ “Bếp lửa”


Khi lớn lên ai cũng nhớ về những kỉ niệm của tuổi thơ. Có thể là kỉ niệm với người mẹ


thân yêu, với người cha tơn kính, có thể là với người bà trân trọng. Với Bằng Việt, kỉ


niệm tuổi thơ đáng nhớ nhất của mình là hình ảnh người bà tần tảo sớm hơm. Hiện diện


cùng bà là hình ảnh bếp lửa. Nó đã khơi nguồn cảm xúc để tác giả nhớ về bà và viết về


bà qua bài thơ đậm chất trữ tình: Bếp lửa.



Mở đầu bài thờ là hình ảnh bếp lửa:


Một bếp lửa chờn vờn sương sớm


Một bếp lửa ấp iu nồng đượm.



Ba tiếng “một bếp lửa đã trở thành điệp khúc, gợi lại một hình ảnh thân thuộc trong mỗi


gia đình ở làng quê Việt Nam. Hình ảnh “bếp lửa” thật ấm áp giữa cải giá lạnh của


sương sớm. Đó khơng chỉ là cái chờn vờn của ngọn lửa mới được nhóm lên trong



sương mà cịn là cái chờn vờn trong tâm trí của người chầu nơi phương xa. Hình ảnh


bếp lửa thân quen với biết bao tình cảm ấp iu nồng đượm. Nó đã gợi lại sự săn sóc, lo


lắng, chăm chút, che chở cho đứa cháu nhỏ của người bà. Từ hình ảnh bếp lửa, người


cháu lại nhớ thương khi nghĩ về bà:



Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.



Đọng lại trong câu thơ là chữ “thương”, thể hiện tình cảm của người cháu dành cho bà.


Bà vất vả, lặng lẽ trong khung cảnh “biết mấy nắng mưa”, làm sao tính được có bao


nhiêu mưa nắng khổ cực đã đi qua đời bà. Cháu thương người bà vất vả, tần tảo để khi


nhớ về bà, trong kí ức của cháu hiện về những gian khổ thời cịn bé!



</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Nạn đói năm 1945 đã khiến bao người phải chịu cảnh lầm than, phải chết đi. Năm ấy,


Bằng Việt mới lên bốn tuổi. Sống trong hồn cảnh ấy thì làm sao tránh được những cơ


cực. Từ ghép “mòn mỏi” được chia tách ra, đan xen với từ đói đã gợi cái cảm giác nạn


đói ấy vừa kéo dài và cịn làm khô cạn sức người lẫn gia súc. Kỉ niệm đáng nhớ nhất đối


với người cháu là khói bếp, luồng khói được hun từ bếp lửa thân thuộc:



Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói …


Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu


Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.



Giờ đây nghĩ lại, cháu như đang sống lại những năm tháng ấy. Câu thơ ấy sức truyền


cảm đặc biệt khiến người đọc khơng khỏi có cảm giác cay cay nơi sống mũi. Tuổi thơ ấy


lớn lên trong cảnh hoang tàn của chiến tranh. Quê hương, xóm làng bị giặc tàn phá.


Cuộc sống khó khăn song hai bà cháu cũng được an ủi bởi tình cảm hàng xóm láng


giềng. Bởi trong hoàn cảnh chung của nhiều gia đình Việt Nam lúc ấy, những người lớn


phải tham gia kháng chiến, ở nhà chỉ còn cụ già và cháu nhỏ: Mẹ cùng cha cơng tác bận


khơng về.




Và vì thế chỉ có hai bà cháu cơi cút bên nhau. Bà kể chuyện ở Huế cho cháu nghé, bà


dạy cháu học, chỉ cháu làm. Bao công việc bà đều lo hết vì bố mẹ bận cơng tác khơng


về. Bà là chỗ dựa cho cháu, và đứa cháu ngoan ngoãn là nguồn vui sống của bà. Những


kỉ niệm của tuổi thơ đều gắn liền với hình ảnh “bếp lửa”, bởi “lên bốn tuổi cháu đã quen


mùi khói", đã sớm phải lo toan. “Cháu cùng bà nhóm lửa” trong tám năm rịng rã. Tám


năm đó nó cũng khơng phải là dài lắm nhưng sao cứ kéo dài lê thê trong lòng cháu. Cho


nên, nhớ về tuổi thơ, người cháu lại “chỉ nhớ khói hun nhèm mắt”. Cảm giác ấy chân


thật và xúc động. Cái làn khói bếp của ngày xưa ấy như bay đến tận bay giờ làm cay nơi


sống mũi. Ngày xưa cay vì khói cịn giờ đây sống mũi lại cay khi nhớ về tuổi thơ và cũng


vì thương nhớ đến người bà



Người cháu nghĩ đến bà rồi nghĩ đến quê hương, đến loài chim tu hú. “Tu hú” được


nhắc lại bốn lần, tiếng kêu của nó trên đồng xa như sự cảm thơng cho cuộc sống đói


nghèo trong chiến tranh của hai bà cháu. Và trong lời kể của bà có cả “tiếng tu hú sao


mà tha thiết thế”. Tâm hồn trẻ thơ của cháu chợt dậy lên một mong mỏi:



Tù hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà



Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa



</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Từ những hồi tưởng về tuổi thơ, người cháu đã suy ngẫm về cuộc đời của bà. Bà đã hi


sinh cả đời mình để nhóm bếp lửa và giữ cho ngọn lửa ln ấm áp, tỏa sáng trong gia


đình:



Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa


Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ


Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm


Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm.



Bà là người phụ nữ tần tảo, giàu đức hi sinh. Bếp lửa bà nhen mỗi sớm mai không chỉ



bằng rơm rạ mà cịn được nhen lên bằng chính ngọn lửa trong lịng bà, ngọn lửa của sự


sống, lòng yêu thương và niềm tin tưởng. Từ bếp lửa bình dị, quen thuộc, người cháu


nhận ra bao điều “kì diệu” và “thiêng liêng”. Ngọn lửa được nhóm lên từ chính bàn tay bà


đã ni lớn tuổi thơ cháu: “Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi thơ”. Bà lặng lẽ chịu đựng,


hi sinh để: “Bố ở chiến khu, bố cịn việc bố”. Chính vì thế, đứa cháu đã cảm nhận được


trong bếp lửa bình dị mà thân thuộc có nỗi vất vả, gian lao của người bà.



Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi


Nhóm nồi xơi gạo mới sẻ chung vui.



Trong bài thơ có tới mười lần người bà hiện diện cùng bếp lửa với vẻ đẹp tần tảo, hi


sinh, yêu thương con cháu. Và từ “bếp lửa”, tác giả đã đi đến hình ảnh “ngọn lửa”:


Rồi sớm chiều lại bếp lửa bà nhen



Một ngọn lửa, lịng bà ln ủ sẵn



Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…



Người cháu năm xưa giờ đã trưởng thành, đi xa. Trước mắt có những “niềm vui trăm


ngả”, “có khói trăm tàu”, “có lửa trăm nhà”, một thế giới rộng lớn với bao điều mới mẻ


được hiện ra. Nhưng đứa cháu vẫn khơng ngừng hỏi: “Sớm mai này bà nhóm bếp lên


chưa?”. Mỗi ngày đều tự hỏi “Sớm mai này” là mỗi ngày cháu đều nhớ về bà, Hình ảnh


người bà ln làm ấm lịng và nâng đỡ cháu trên bước đường đi tới.



Bằng Việt đã sáng tạo hình tượng “bếp lửa” vừa mang ý nghĩa thực vừa mang ý nghĩa


tượng trưng. Giọng điệu tâm tình trầm lắng, giàu chất suy tư đã làm say lòng người đọc.


Và bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt như một triết lí thầm kín. Những gì đẹp đẽ của tuổi thơ


đáng được trân trọng và nó sẽ nâng đỡ con người suốt hánh trình dài rộng của cuộc đời.


Bằng Việt đã thể hiện lòng yêu thương, biết ơn bà sâu sắc. Lịng biết ơn chính là biểu


hiện cụ thể của tình yêu quê hương, đất nước khi đã đi xa.




7)Tình bà cháu trong bài thơ “Bếp lửa”


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

thiêng liêng. Và nhà thơ Bằng Việt đã góp phần làm phong phú thêm chủ đề bằng tình cảm bà
cháu sâu đậm trong bài thơ “Bếp lửa”.


Bài thơ ra đời năm 1963, khi ấy nhà thơ đang học tập và sinh sống ở nước bạn Liên Xô.
Trong nước, cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc đang dần đến hồi cam go. Nhớ
về Tổ quốc trong những ngày tháng ấy, Bằng Việt gửi trọn niềm thương nỗi nhớ cho người bà
tần tảo, vất vả mà giàu tình yêu thương của mình.


Bài thơ có tên là “Bếp lửa” nhưng một điều dễ nhận thấy là hình ảnh đầy sức gợi ấy được
gợi cảm hứng từ người bà. Hay nói cách khác, bếp lửa trong kí ức nhà thơ được nhóm lên từ
đôi tay của bà: sáng sáng chiều chiều bà nhen bếp lửa thổi gạo, nấu cơm một tay tảo tần ni
cháu, Bởi thế, hình ảnh bếp lửa bập bùng trong bài thơ để hình ảnh thiêng liêng ấy gắn bó mật
thiết với hình ảnh của bà. Nhắc về bà là nhớ về bếp lửa và nhớ về bếp lửa là nhớ về bà. “Bếp
lửa” là bài ca về tình bà cháu ấm áp, cảm động.


Bài thơ mở đầu bằng những hình ảnh thơ đầy ám ảnh:


<i> “Một bếp lửa chờn vờn sương sớm</i>
<i>Một bếp lửa ấp iu nồng đượm</i>


<i> Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”.</i>


Ngọn lửa “chờn vờn sương sớm” là ngọn lửa thực trong lòng bếp lửa được nhen lên trong
mỗi sớm mai. Còn ngọn lửa “ấp iu nồng đượm” là ngọn lửa của yêu thương mà bà dành cho
cháu. Bởi vậy nên nhắc đến bếp lửa là nhắc đến bà với bao tình thương và nỗi nhớ: “Cháu
thương bà biết mấy nắng mưa”. Những nắng mưa ấy là gì?



Là cuộc đời đầy vất vả nhọc nhằn khơng chỉ ni con mà cịn thay con ni cháu:
<i>“Đó là năm đói mịn đói mỏi</i>


<i> Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy”.</i>


Nhà thơ nhắc lại những năm tháng khủng khiếp của nạn đói 1945. Ngày tháng ấy đến
người cha đương sức trẻ phải “khô rạc ngựa gầy” mà không đủ ăn. Vậy mà bà đã già cả, ốm
yếu lại một tay ni dạy cháu. Cái đói, cái chết rình mò nhưng bà vẫn dành tất cả yêu thương
mang đến cho cháu những bữa ăn nhọc nhằn:


<i> "Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói”</i>
<i>“Khói hun nhèm mắt cháu</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

Cùng với hình ảnh bếp lửa, cịn có một âm thanh tha thiết gắn với người bà: tiếng tu hú:
<i>“Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”</i>


<i>“Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà</i>


<i> Kêu chi hoài trẽn những cánh đồng xa”.</i>


Tiếng tu hú thường gợi đến cảnh đồng vàng đầy lúa chín. Nhưng trong những năm tháng
ấy, tiếng tu hú tha thiết thê lương là tiếng khóc, tiếng than cho những mất mát, nghèo đói.
Được bà yêu thương, che chở, người cháu chạnh lòng mà mời gọi tiếng chim “đến ở cùng bà”.
Vậy là đối với cháu, bà đã trở thành biểu tượng của sự đùm bọc, chở che đầy cao cả.


Cơ cực lên đến tận cùng khi:


<i>“Giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi</i>
<i> Làng xóm bốn bên trở về lầm lụi”.</i>



Nhưng ngay cả khi ấy, khi mà mọi vật đã trở thành phê tích, hoang tàn, sự sống đã bị triệt
tiêu thì ở bà vẫn ánh lên những tia lửa cùa tin yêu:


<i>“Rồi sớm rồi chiều bếp lửa bà nhen</i>
<i>Một ngọn lửa lịng bà ln ủ sẵn</i>
<i> Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”.</i>


Thời thế có thăng trầm biến chuyển thì lịng bà vẫn như ngọn lửa, trước sau vẫn bùng lên
trong bếp nhỏ “chứa niềm tin dai dẳng” vào cuộc đời. Nuôi cháu ăn, bà cịn “dạy cháu làm,
chăm cháu học” khơng mn để cái đói, cái nghèo vùi dập đời sống văn hóa, tinh thần của
cháu. Đó là tư tưởng vô cùng tiến bộ hiếm thấy ở những người mà tuổi tác đã như bà. Điều
đặc biệt là bà đã âm thầm đón nhận gian khó và lại một mình chịu đựng những nhọc nhằn,
khơng muốn những cực nhọc cùa bản thân làm con cái lo lắng:


<i>“Bố ở chiến khu bố còn việc bố</i>
<i> Mày có viết thư chớ kể này kể nọ</i>
<i> Cứ bảo rằng nhà vẫn được bình yên”.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

Suốt những phần đầu của bài thơ, nhà thơ vừa kể, vừa tỏ lòng thương nhớ, ngợi ca, biết
ơn công lao của bà. Và đến đây, ông đúc kết lại về sự kì lạ và linh thiêng của hình ảnh bếp lửa
và cũng là của bà:


<i> "Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa</i>
<i> Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ</i>


<i>Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm</i>
<i> Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm</i>


<i> Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi</i>
<i> Nhóm nồi xơi gạo mới sẻ chung vui</i>



<i> Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ</i>
<i> Ơi kì lạ và thiêng liêng! Bếp lửa!”</i>


Mấy chục năm đã trôi qua, “niềm tin dai dẳng” trong bà chưa bao giờ lụi tắt, để đến tận bây
giờ “bà vẫn giữ thói quen dậy sớm”. Bà vẫn tiếp tục nhóm lên ngọn lửa của yêu thương, của sẻ
chia ấm áp, của bầu trời tuổi thơ đẹp đẽ trong cháu,... Bếp lửa nhóm lên hay tay bà gây dựng?
Tất cả đều là những miền kì lạ và thiêng liêng khơng ai gọi tên được bao giờ. Nhà thơ chỉ có
thể thốt lên một tiếng “Ôi!” đầy cảm động.


Những ân tình của bà theo cháu suốt cả cuộc đời. Để giờ đây:
<i>"Giờ cháu đã đi xa</i>


<i>Có ngọn khói trăm tàu</i>


<i>Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả</i>
<i> Nhưng chẳng lúc nào quên nhắc nhở</i>
<i> Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?...</i>


Lời nhắc ấy là lời nhắc cháu đã mang theo từ bếp lửa của bà. Ngọn lửa ấy luôn cháy trong
lòng cháu. “Chờn vờn”, “ấp iu” nhưng dai dẳng và bền bỉ dù là “khói trăm tàu, lửa trăm nhà,
niềm vui trăm ngả” vẫn khơng thể nào khiến nó bị lụi tàn hay che khuất.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

tin yêu và biết ơn sâu sắc. Ngọn lửa bà trao cho cháu đưạc cháu giữ vẹn nguyên để trở thành
ngọn lửa trường tồn, bất diệt.


Nội dung tư tưởng của “Bếp lửa” được thể hiện sâu sắc hơn nhờ những hình ảnh thơ sinh
động, giàu sức liên tưởng: “bếp lửa chờn vờn sương sớm”, “bếp lửa ấp iu nồng đượm”,…cùng
với đó là điệp từ “nhóm” đặc biệt được sử dụng ở cuối bài thơ. Song quan trọng hơn tất thảy là
cảm xúc chân thành và lịng u mến vơ bờ của nhà thơ đối với người bà kính u của mình.


Đọc và cảm nhận tình yêu thương chan chứa trong bài thơ “Bếp lửa”, người đọc thấy yêu
hơn, trân trọng hơn những ngọn lửa tỏa trong căn nhà mình cùng những người thân yêu ta có
được trên đời.


8) Cảm nhận của em về “ Sự giao thoa giữa cảm hứng về thiên nhiên, vũ trụ và cảm hứng về lao

động” trong bài thơ

<i>Đoàn thuyền đánh cá</i>

của Huy Cận



<i>*Cảm hứng trước cảnh hồng hơn trên biển và khúc hát ra khơi của đoàn thuyền đánh cá (</i>


<i>hai khổ đầu ).</i>



- Nhà thơ mở ra trước mắt người đọc cảnh biển đẹp , kì vĩ , tráng lệ . mênh mang khơng gian


bao la, mặt trời đang từ từ xuống biển đỏ như quả cầu lửa khổng lồ. Sóng đan trên mặt nước


lung linh ánh vàng như cài then, sập cửa khép lại nửa chu kì nhật nguyệt. Cảnh biển trước


hồng hơn khơng nặng nề, tăm tối mà mang vẻ đẹp tráng lệ của thiên nhiên tạo vận trong quy


luật vận động của nó. Tác giả miêu tả với cảm hứng vũ trụ, nếu trước Cách Mạng,

<i>Vũ trụ ca </i>



còn mênh mang trời nước một nỗi buồn ảo não bơ vơ thì giờ đây niềm vui tràn ngập ấm áp


giao thoa trong cảnh và người.



- Nổi bật lên bức tranh thiên nhiên kì vĩ ấy là hình ảnh đồn thuyền đánh cá căng buồm lướt


sóng ra khơi. Tâm trạng náo nức của người lao động hòa trong khúc hát lên đường đầy khí


thế, nhiệt tình và khẩn trương. Họ hát cho buồm căng gió, cho cá bạc đầy khoang, cho cá thu


như đoàn thoi đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!



<i>*Cảm hứng trước cảnh biển đêm trăng và cảnh đánh bắt cá của đoàn thuyền (4 khổ tiếp),.</i>



- Khi sóng đã cài then, đêm sập cửa thì hình ảnh vũ trụ lại chuyển sang một cảnh khác – cảnh


biển đêm trăng . Không gian bao la lại tạo ra bức tranh trời nước với những ngôi sao lấp lánh,


trăng chan hịa sắc vàng khơng gian, mây cao , gió lộng buồm căng thấm đẫm ánh trăng.


Biển đẹp và sống động: “

<i>Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”, “gõ thuyền đã có nhịp trăng </i>



<i>cao”.</i>



- Sự giao thoa hai nguồn cảm hứng ở 4 khổ thơ này rất rõ, Cảm hứng lãng mạn cách mạng và


cảm hứng vũ trụ đã tạo ra cảnh bắt cá của đoàn thuyền dưới đêm trăng tuyệt đẹp, hùng tráng ,


mơ mộng: “

<i>Thuyền ta lướt gió với buồm trăng/ Lướt giữa mây cao với biển bằng”.</i>

Thật bay


bổng , lãng mạn, con thuyền nhỏ nhoi trước vũ trụ bao la trở nên kì vĩ, mang tầm vóc vũ trụ ,


lướt giữa gió, mây , trăng sao và cánh buồm thấm đãm ánh trăng.



- Hình ảnh con người càng khỏe khoắn, lồng lộng giữa biển khơi , ra thăm dò bụng biển , tìm


luồng cá, dàn đan thế trận, bủa lưới vây giăng…..vừa làm vừa hát khiến công việc đánh bắt


cá trên biển vốn đầy nặng nhọc , gian khổ, nguy hiểm thành bài ca lao động hào hứng, vui


tươi.



</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

lưới trĩu nặng cá bạc, vàng. Trăng soi, chiếu xuống mặt biển , sóng xơ bóng trăng gõ vào mạn


thuyền , tạo nên nhịp sóng lấp lánh ánh trăng như xua cá vào lưới. Thiên nhiên – con người


giao hòa, tạo nên bức tranh đánh bắt cá trên biển đêm trăng vừa hùng tráng vừa thơ mộng.



<i>* Cảnh biển bình minh và đồn thuyền đánh cá trở về trong chiến thắng (khổ cuối)</i>



- Cảnh bình minh lên, mặt trời đội biển xịe những ngón tay hồng xua đi màn đêm cịn xót lại.


Biển trời bao la, sự vận động của thiên nhiên trên biển thật kì vĩ, mát mẻ , trong trẻo, tinh khơi,


khống đãng . Gió khơi lồng lộng đưa đồn thuyền trở về trong niềm vui chiến thắng cá đầy


khoang , khép lại 1 chu trình lao động vất vả trên biển đêm . Con người lúc ra đi đẹp hào hùng


đầy hứng khởi thì lúc trở về vẫn trong niềm vui chiến thắng ấy . Ánh dương đã tô điểm cho thành


quả của họ thêm rực rỡ: ‘‘

<i>Mắt cá huy hồng mn dặm khơi’’.</i>



<i>-</i>

Sự giao thoa giữa hai nguồn cảm hứng : vũ trụ và cảm hứng cách mạng – ca ngợi người lao


động đã tạo cho bài thơ những hình ảnh thiên nhiên rộng lớn , tráng lệ , độc đáo, thực mà mộng ,


biểu hiện niềm say sưa , hào hứng và những ước mơ bay bổng của con người muốn hòa hợp với


thiên nhiên, chinh phục thiên nhiên.




</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×