Cận thị - Bệnh hay gặp ở
trẻ vị thành niên
Đã hai thế kỷ trôi qua kể từ khi Fuch có công trình đầu tiên nghiên cứu về
cận thị trong đó những kết luận của ông vẫn còn nguyên giá trị cho tới bây giờ.
Nguyên nhân của cận thị
Cận thị do nhiều yếu tố gây ra nhưng công việc do phải nhìn gần, trong một
thời gian dài là nguyên nhân số một. Cận thị gặp nhiều ở tầng lớp “lao động trí
tuệ”. Ông đã dẫn ra một ví dụ điển hình: tỷ lệ cận thị gặp rất ít ở các học sinh
trường làng, gặp nhiều hơn ở lứa tuổi trung học và cao nhất ở bậc đại học, sinh
viên y khoa có hơn 80% bị cận thị.
Sau này người ta đưa thêm vài yếu tố đan xen vào nguyên nhân gây ra cận
thị như yếu tố di truyền chẳng hạn. Một nghiên cứu trên trẻ sinh đôi cùng trứng
cho thấy có 81,6% các cặp bị cận thị trong khi đó ở sinh đôi khác trứng là 57,6%.
Như vậy di truyền nhất định có ảnh hưởng đến việc phát sinh cận thị nhưng theo
cả 3 cơ chế: trội , lặn và đôi khi liên kết với giới tính. Tập quán dinh dưỡng cũng
phần nào ảnh hưởng đến cận thị: người Eskimo ăn nhiều cá nên gần như không bị
cận thị ?
Vậy còn gì đằng sau những yếu tố đã nêu? Đó chính là môi trường sống của
con người hiện đại. Cuộc sống văn minh, làm việc trong cự ly gần là yếu tố phát
sinh ra cận thị.
Các bậc phụ huynh đã quá quen biết với biểu hiện của bệnh cận thị: trẻ nhìn
xa kém, chép bài vất vả hay phải nhìn bài người bên cạnh, xem tivi có xu hường
ngồi gần, hay nheo mắt hoặc nghiêng đầu khi quan sát.
Phát hiện cận thị tương đối dễ dàng trừ một vài trường hợp khó. Các nhà
chuyên môn thường xếp loại cận thị như sau:
- Cận thị sinh lý hay cận thị học đường : cận thị nhỏ hơn 6 đi-ốp.
- Cận thị bệnh lý hay cận thị thoái hóa: cận thị >6 đi-ốp, có thoái hóa đáy
mẳt.
Các bác sĩ chuyên sâu về khúc xạ có thể đưa ra kiểu phân loại thứ 2:
- Cận thị giả (do co quắp điều tiết): thường do nhìn gần lâu quá mức, trạng
thái thần kinh bị kích động, dùng thuốc co đồng tử. Nhóm này hay gặp tuổi nhi
đồng, cận thị nhẹ, thị lực không ổn định. Điều trị bằng thuốc, nghỉ ngơi, tập luyện.
- Cận thị thực thụ thì không như trên và tất nhiên phải đeo kính để có được
thị lực hữu dụng.
Và điều trị
Điều trị cận thị thì lại không phức tạp như nguyên nhân của nó. Vũ khí đơn
giản, hữu hiệu và rẻ tiền vẫn là đôi kính gọng kinh điển. Kính gọng thời nay đã
nhẹ nhàng, trang nhã và tốt hơn xưa rất nhiều. Chúng ta có vô số loại gọng kính để
lựa chọn: cầu đơn, cầu kép, cầu treo. Chất liệu có thể là nhựa, kim loại lồng vào
nhựa hay kim loại đơn thuần mà hiện nay titan được coi là ưu điểm nhất bởi không
bị ôxi hóa, nhẹ, biến dạng được. Mắt kính rất sẵn và rẻ tiền với chất liệu thủy tinh,
plastic, tốt hơn hết là thủy tinh hữu cơ bởi trọng lượng nhẹ, phản quang ít, không
bám nước.
Phải thừa nhận là đeo kính gọng lâu năm làm biến dạng nhẹ, gây đau cho
gốc mũi và vành tai. Trời mưa hay hơi nước bám vào kính cũng gây phiền toái
nhất định cho người đeo, lóa mắt khi có nguồn sáng ngược chiều, trường nhìn bị
hạn chế là nhược điểm của kính gọng mà ai cũng phải công nhận. Kính tiếp xúc có
thể giải quyết tất cả những chuyện vừa nêu nhưng với hai điều kiện:
- Bản thân người dùng phải tuân thủ nghiêm ngặt qui định về sử dụng kính.
- Bạn phải hợp với kính: không bị kích thích khi đeo kính, không có chống
chỉ định với KTX (kính tiếp xúc)
Có rất nhiều bậc phụ huynh hỏi: có nên mổ laser cho con cái họ ? Bạn nên
tính đến việc này khi: con bạn không thể và không muốn đeo kính gọng hay KTX,
con bạn đã ngoài 18 tuổi, con bạn không tăng số trong khoảng 1 năm gần đây,
không mắc một số bệnh mắt hay bệnh toàn thân thuộc nhóm chống chỉ định (khô
mắt, viêm gan, AIDS...).
Thực phẩm chức năng, các yếu tố vi lượng như vitamin A-C-E, chorondin,
selen và kẽm... vẫn còn cần những nghiên cứu lâu dài hơn, qui mô hơn để chứng
minh được tác dụng thực sự của nó trong việc điều trị cận thị nhưng những bằng
chứng khoa học cho tới nay cũng đủ để tất cả các bác sĩ mắt đồng thuận khuyên
bệnh nhân cận thị nên dùng để chống các thoái hóa do tuổi già, chống tăng số cận
thị và những thoái hóa tại hắc võng mạc có thể gặp do cận thị.