Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Luật tố tụng hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (299.28 KB, 17 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
Số phách

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
ĐỀ TÀI: BÌNH LUẬN BẢN ÁN SỐ 200/2020/HC-PT, NGÀY 16/06/2020 CỦA
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VỀ KHIẾU
KIỆN QUYẾT ĐỊNH XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC
BẢO VỆ MƠI TRƯỜNG
Chun ngành: Luật học
Học phần: Luật tố tụng hành chính
Giảng viên phụ trách học phần: ThS. Nguyễn Khắc Hùng

SINH VIÊN THỰC HIỆN: LÊ BÁ TRƯỜNG
MÃ SINH VIÊN: 19A5011997
LỚP CHUYÊN NGÀNH: K43C_Luật học

THỪA THIÊN HUẾ, năm 2021


ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
Số phách

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN:
ĐỀ TÀI: BÌNH LUẬN BẢN ÁN SỐ 200/2020/HC-PT, NGÀY 16/06/2020 CỦA
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VỀ KHIẾU
KIỆN QUYẾT ĐỊNH XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC
BẢO VỆ MƠI TRƯỜNG

Chun ngành: Luật học


Học phần: Luật tố tụng hành chính

Điểm số:

Điểm chữ

Ý1
Ý2
Ý3
Ý4
Ý5
TỔNG

Giảng viên chấm 1
(Kí và ghi rõ họ tên)

Giảng viên chấm 2
(Kí và ghi rõ họ tên)

THỪA THIÊN HUẾ, năm 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan cơng trình nghiên cứu đề tài “Bình luận bản án số
200/2020/HC-PT, ngày 16/06/2020 của TAND cấp cao tại TPHCM về khiếu kiện
quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường” là cơng
trình nghiên cứu của riêng tơi, dưới sự hướng dẫn của ThS. Nguyễn Khắc Hùng. Các
nguồn tài liệu trích dẫn và các nguồn tài liệu tham khảo có nguồn gốc rõ ràng, kết quả
nghiên cứu trung thực. Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu và
tính trung thực của đề tài.

Tơi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan trên./.
Thừa Thiên Huế, ngày 28 tháng 8 năm 2021


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
Xử lý vi phạm hành chính

: XLVPHC

Bảo vệ mơi trường

: BVMT

Tịa án nhân dân

: TAND

Ủy ban nhân dân

: UBND

Chất thải nguy hại

: CTNH

Nghị định – Chính phủ

: NĐ-CP

Thông tư – Bộ tài nguyên và môi trường : TT-BTNMT

Biên bản – Vi phạm hành chính

: BB-VPHC

Quy chuẩn Việt Nam

: QCVN

Quyết định

: QĐ

Quy chuẩn kỹ thuật môi trường

:QCKTMT

Thành phố Hồ Chí Minh

: TPHCM


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................1
NỘI DUNG ...............................................................................................................2
1. Tóm tắt nội dung vụ án .........................................................................................2
2. Căn cứ pháp lý áp dụng trong bản án ....................................................................4
3. Nhận xét việc áp dụng pháp luật trong bản án ......................................................5
4. Một số kiến nghị hoàn thành .................................................................................9
KẾT LUẬN .............................................................................................................11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................12



MỞ ĐẦU
Ngày 16/06/2020, Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại TPHCM đã thông
qua Bản án số 200/2020/HC-PT tuyên Bác kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên Bản
án sơ thẩm của TAND tỉnh Bình Dương. Tuy nhiên, qua nghiên cứu bản án tơi thấy có
một vài sai sót trong cách giải quyết của TAND cấp cao tại TPHCM. Từ lý do đó trên
nhằm đưa ra những giải pháp để nâng cao quá trình áp dụng pháp luật đối giải quyết
các vụ án hành chính, tơi xin chọn đề tài “Bình luận bản án số 200/2020/HC-PT, ngày
16/06/2020 của TAND cấp cao tại TPHCM về khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường” để làm rõ việc áp dụng quy định pháp
luật của tòa án, đồng thời làm đề tài tiểu luận kết thúc học phần.

1


NỘI DUNG
1. Tóm tắt nội dung vụ án
/>Cơng ty C hoạt động theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp công ty trách
nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, mã số doanh nghiệp: 3700865452, đăng ký lần
đầu ngày 09 tháng 01 năm 2008, đăng ký thay đổi lần thứ 6 ngày 19 tháng 3 năm 2019
tại Phòng Đăng ký kinh doanh - Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bình Dương. Ngành nghề
kinh doanh: Sản xuất các loại máy móc, thiết bị và linh kiện máy móc cho các ngành
khai thác mỏ, xây dựng và dầu khí.
Trong q trình hoạt động, Cơng ty Có bán các phế liệu được loại ra trong q
trình sản xuất gồm phơi tiện, phơi bào, mảnh vỡ, mạt cưa, mạt giũa, phôi cắt và bavia
bằng sắt, thép, gang. Công ty đã ký Hợp đồng mua bán phế liệu với ông Lê Văn T4
ngày 18/12/2018 và Hợp đồng mua bán phế liệu ngày 14/02/2019 với công ty H1 (ông
Phạm Huy D1 đại diện công ty mua). Tuy nhiên, Phịng Cảnh sát mơi trường, Cơng an
tỉnh Bình Dương xác định các loại phế liệu này là chất thải nguy hại (viết tắt là CTNH)

và cho rằng Cơng ty C đã có hành vi vi phạm là bán chất thải nguy hại cho cá nhân
khơng có giấy phép xử lý chất thải nguy hại nên đã lập hai biên bản gồm: Biên bản vi
phạm hành chính về lĩnh vực bảo vệ môi trường số 24/BB-VPHC (PC05) ngày 16
tháng 4 năm 2019 và Biên bản vi phạm hành chính về lĩnh vực bảo vệ mơi trường số
37/BB-VPHC (PC05) ngày 06 tháng 5 năm 2019. Trên cơ sở đó, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân tỉnh B ban hành hai quyết định xử phạt vi phạm hành chính gồm: Quyết định số
1129/QĐ-XPVPHC ngày 03 tháng 05 năm 2019 và Quyết định số 1323/QĐ-XPVPHC
ngày 17 tháng 05 năm 2019 xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi
trường đối với Công ty C.
Quyết định số 1129/QĐ-XPVPHC ngày 03 tháng 5 năm 2019 xác định Cơng ty
Có 03 hành vi vi phạm:

2


Hành vi 1: Không thu gom chất thải nguy hại theo quy định, để chất thải nguy
hại ngoài trời, vi phạm điểm b, khoản 2, Điều 21, Nghị định 155/2016/NĐ-CP ngày
18/11/2016 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo
vệ mơi trường.
Hành vi 2: Bán chất thải nguy hại cho cá nhân không có giấy phép xử lý chất
thải nguy hại đối với trường hợp bán từ 5.000 kg chất thải nguy hại trở lên, cụ thể:
Công ty đã bán 20.630 kg chất thải nguy hại cho ông Lê Văn T4 là cá nhân khơng có
giấy phép xử lý chất thoải nguy hại vi phạm điểm h, khoản 7, Điều 21, Nghị định
155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường.
Hành vi 3: Xả chất thải có chứa thơng số mơi trường thông thường vào môi
trường vượt quy chuẩn kỹ thật về chất thải từ 10 lần trở lên trong trường hợp lượng
nước thải nhỏ hơn 5m3/ngày (24 giờ), cụ thể: theo Phiếu kết quả thử nghiệm số
19080119 ngày 16/01/2019 của Trung tâm Quan trắc - Kỹ thuật Tài nguyên và Môi
trường tỉnh B cho thấy mẫu nước thải tại hố ga nước mưa khu vực nhà ăn chảy ra cống

chung thốt nước mưa của khu cơng nghiệp có các thơng số môi trường vượt quá quy
chuẩn kỹ thuật về chất thải: BOD5 vượt 13,3 lần, COD vượt 12,8 lần, SS vượt 7,2 lần,
Amoni vượt 2,4 lần vi phạm điểm a, khoản 6, Điều 13, Nghị định 155/2016/NĐ-CP
ngày 18/11/2016 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực bảo vệ môi trường và khoản 7, Điều 13, Nghị định 155/2016/NĐ-CP ngày
18/11/2016 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo
vệ môi trường.
Quyết định số 1323/QĐ-XPVPHC của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B ngày
17 tháng 5 năm 2019 xác định Cơng ty Có hành vi: Bán chất thải nguy hại cho cá nhân
khơng có giấy phép xử lý chất thải nguy hại đối với trường hợp bán từ 4.000 kg đến
dưới 5.000 kg chất thải nguy hại, cụ thể: Công ty đã bán 4.420 kg chất thải nguy hại
cho ơng Phạm Huy D1 là cá nhân khơng có giấy phép xử lý chất thải nguy hại vi phạm

3


điểm g, khoản 7, Điều 21, Nghị định 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 của Chính phủ
quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường. Với tình tiết
tăng nặng: tái phạm, cụ thể Cơng ty C đã bị xử phạt vi phạm hành chính tại Quyết định
số 1129/QĐ-XPVPHC ngày 03 tháng 5 năm 2019 của Chủ tịch UBND tỉnh B về hành
vi “Bán chất thải nguy hại cho tổ chức, cá nhân khơng có giấy phép xử lý chất thải
nguy hại.”
Công ty C nhận thấy Quyết định số 1129/QĐ-XPVPHC ngày 03 tháng 05 năm
2019 và Quyết định số 1323/QĐ-XPVPHC ngày 17 tháng 05 năm 2019 của Chủ tịch
Ủy ban nhân dân tỉnh B xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường
đối với Công ty C không phù hợp với quy định của pháp luật nên khởi kiện ra Tòa án
yêu cầu hủy 02 Quyết định trên của Chủ tịch UBND tỉnh B.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số: 42/2019/HC-ST ngày 27 tháng 11 năm 2019
của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương, quyết định:
Bác u cầu khởi kiện của Cơng ty C về việc yêu cầu hủy Quyết định số

1129/QĐ-XPVPHC ngày 03 tháng 05 năm 2019 và Quyết định số 1323/QĐ-XPVPHC
ngày 17 tháng 05 năm 2019 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B về việc xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường.
Ngày 09/12/2019 Cơng ty C kháng cáo tồn bộ bản án hành chính sơ thẩm, với
lý do: Khơng đồng ý với nội dung của bản án hành chính sơ thẩm, đề nghị sửa án theo
hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu của người khởi kiện.
2. Căn cứ pháp lý áp dụng trong bản án
Các căn cứ pháp lý mà Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh đưa
ra là: Căn cứ các Điều 30, 32, 116, Khoản 1 Điều 241, Điều 348 và Điều 349 của Luật
tố tụng hành chính năm 2015; Căn cứ các Điều 3, 6, 9, 23, 38, 58, 61 Luật xử lý vi
phạm hành chính; Căn cứ Điều 3, 7 Nghị định 38/2015/NĐ-CP ngày 24 tháng 04 năm
2015; Căn cứ Phụ lục 1 về Danh mục chất thải nguy hại ban hành kèm theo Thông tu
số 36/2015/TT-BTNMT ngày 30 tháng 6 năm 2015 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và

4


Môi trường; Căn cứ Mục 1.3.1, 3.1.2, 3.1.3 khoản 3 Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về
ngưỡng chất thải nguy hại ban hành kèm theo Thông tư số 25/2009/TT-BTNMT ngày
16/11/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
3. Nhận xét việc áp dụng pháp luật trong bản án
Thứ nhất, về quan hệ pháp luật và thời hiệu khởi kiện, Tòa án căn cứ vào các
Điều 116, Điều 30, Điều 32 của Luật tố tụng hành chính xác định thời hiệu khởi kiện
vẫn còn và thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương là phù hợp
với các quy định của pháp luật.
Thứ hai, về trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban hành Quyết định xử lý vi phạm
hành chính:
“Tịa án xác định Biên bản vi phạm hành chính số 24/BB-VPHC(PC05) ngày
16/4/2019 và 37/BB-VPHC(PC05) ngày 06/5/2019 có cán bộ trực tiếp thụ lý vụ việc là
ơng Đặng Hồng S1, bà Nguyễn Hoàng N1 ký tên, đại diện tổ chức vi phạm là Cơng ty

C có ký tên xác nhận là phù hợp quy định tại khoản 3 Điều 58 Luật Xử lý vi phạm
hành chính và Điều 6 Nghị số 81/2013/NĐ-CP” là hợp lý. Bởi vì, theo quy định tại
khoản 3 Điều 58 Luật XLVPHC “Biên bản vi phạm hành chính phải được lập thành ít
nhất 02 bản, phải được người lập biên bản và người vi phạm hoặc đại diện tổ chức vi
phạm ký”. Như vậy ông Đặng Hồng S1 và bà Nguyễn Hồng N1 kí tên vào biên bản
là đúng quy định pháp luật. Ngồi ra Tịa án nhận định về hình thức, nội dung, thời
gian, ngày tháng,… trên biên bản phù hợp quy định tại Điều 58 Luật Xử lý vi phạm
hành chính nên khơng vi phạm thủ tục như người khởi kiện trình bày là hồn tồn hợp
lý.
Về việc Tịa án nhận định quyền giải trình ghi trong 02 biên bản và thẩm quyền
tiếp nhận giải trình của Cơng an tỉnh B là chưa hợp lý. Bởi vì, theo quy định tại khoản
1 điều 61 Luật XLVPHC về giải trình “Đối với hành vi vi phạm hành chính mà pháp
luật quy định áp dụng hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ
hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn hoặc áp dụng mức phạt

5


tiền tối đa của khung tiền phạt đối với hành vi đó từ 15.000.000 đồng trở lên đối với cá
nhân, từ 30.000.000 đồng trở lên đối với tổ chức thì cá nhân, tổ chức vi phạm có quyền
giải trình trực tiếp hoặc bằng văn bản với người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính. Người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm xem xét ý kiến giải trình của cá
nhân, tổ chức vi phạm hành chính trước khi ra quyết định xử phạt, trừ trường hợp cá
nhân, tổ chức khơng có u cầu giải trình trong thời hạn quy định tại khoản 2 và khoản
3 Điều này”. Như vậy, việc cán bộ Phịng cảnh sát mơi trường lập biên bản với nội
dung cơng ty C có quyền giải trình đối với cán bộ lập biên bản là sai theo quy định của
pháp luật. Việc tiếp nhận giải trình của Công an tỉnh B đối với Công văn giải trình số
01/CNC ngày 22/01/2019 của Cơng ty C là sai thẩm quyền ảnh hưởng đến quyền lợi
của Công ty C trong việc giải trình đối với Chủ tịch UBND tỉnh B, dẫn đến hậu quả là
Chủ tịch UBND tỉnh B ban hành quyết định xử phạt số 1129/QĐ-XPVPHC ngày

03/5/2019 và Quyết định số 1323/QĐ-XPVPHC ngày 17/5/2019.
Thứ ba, về nội dung: Việc Tòa án đưa ra các căn cứ pháp lý bao gồm “Khoản 13
Điều 3 Luật bảo vệ môi trường năm 2014; Theo Mục C Phụ lục 1 ban hành kèm theo
Thông tư 36/2015 TT-BTNMT ngày 30 tháng 6 năm 2015; mục 1.3.1 Quy chuẩn
QCVN 07/2009/BTNMT ban hành kèm theo 25/2009/TT-BTNMT ngày 16 tháng 11
năm 2009 Quy định quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường; Điều 3 Nghị định
38/2015/NĐ-CP ngày 24 tháng 04 năm 2015; Điều 7 Nghị định 38/2015/NĐ-CP và các
Điều 29, 30 và Điều 6 Thông tư 36/2015TT-BTNMT; Mục 3 Phụ lục 1 về Danh mục
chất thải nguy hại ban hành kèm theo Thông tư số 36/2015/TT-BTNMT ngày 30 tháng
6 năm 2015 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường; theo Mục 3.1.2, 3.1.3 khoản
3 Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về ngưỡng chất thải nguy hại (được ban hành kèm theo
Thông tư số 25/2009/TT-BTNMT ngày 16/11/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi
trường”. Để xác định số phôi thải (phoi tiện, phoi bào, mạt cưa bằng sắt, thép, gang)
tạo ra trong q trình gia cơng của cơng ty C là chưa phù hợp. Bởi vì, theo các quy
định này là xác định CTNH đối với các chất như dầu mỡ (trừ dầu mở thực phẩm) tồn

6


tại dưới dạng hợp chất hoặc đơn chất không bám dính vào các vật thể khác. Tuy nhiên,
căn cứ vào 02 biên bản số 24/BB-VPHC(PC05) ngày 16/4/2019 và 37/BBVPHC(PC05) ngày 06/5/2019 thì tang vật thu được bao gồm phoi tiện, phoi bào, mạt
cưa bằng sắt, thép, gang,… như vậy để xác định đây có phải là CTNH hay khơng cần
phải căn cứ vào mục 3 phụ lục 1 Thông tư 36/2015 TT-BTNMT “Hỗn hợp phế liệu
kim loại (hoặc nhựa) lẫn dầu mỡ (ví dụ mã 07 03 11): Phế liệu kim loại (hoặc nhựa)
khơng phải là CTNH cịn dầu mỡ thải (trừ dầu mỡ thực phẩm) luôn là CTNH (loại **),
do vậy, đây là hỗn hợp CTNH. Trường hợp hỗn hợp này được tách riêng ra, còn lại
phế liệu kim loại (hoặc nhựa) tương đối sạch, chỉ bám dính lượng dầu mỡ khơng đáng
kể đến mức khơng có nguy cơ bị rị rỉ hoặc chảy ra mơi trường trong q trình lưu giữ,
thu gom và vận chuyển (ví dụ dầu bảo quản) thì khơng bị coi là CTNH (bảo đảm thành
phần dầu bám dính có hàm lượng tuyệt đối nhỏ hơn ngưỡng CTNH theo quy định tại

QCKTMT về ngưỡng CTNH)”. Như vậy, phải có q trình giám định các chất dầu mở
bám trên các tang vật có thuộc vào danh mục CTNH quy định tại bảng danh mục
CTNH ban kèm thơng tư này.
Việc Tịa án nhận định q trình phân định chất thải phải là trách nhiệm của
công ty C chứ không phải trách nhiệm của người ra quyết định xử phạt. Nhận định này
là không đúng, tôi không đồng ý với cách đánh đồng từ “Phân định” với từ “Giám
định” của Tịa án là như nhau. Bởi vì, phân định chất thải trong q trình sản xuất là
của cơng ty C. Tuy nhiên, theo quy định tại Điểm đ khoản 1 điều 3 Luật XLVPHC thì
“Người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính. Cá
nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình hoặc thơng qua người đại diện hợp pháp
chứng minh mình khơng vi phạm hành chính” và điều 81 Luật XLVPHC thì “Khi tịch
thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 26 của Luật này,
người có thẩm quyền xử phạt phải lập biên bản. Trong biên bản phải ghi rõ tên, số
lượng, chủng loại, số đăng ký (nếu có), tình trạng, chất lượng của vật, tiền, hàng hố,
phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu và phải có chữ ký của người tiến hành tịch

7


thu, người bị xử phạt hoặc đại diện tổ chức bị xử phạt và người chứng kiến; trường
hợp người bị xử phạt hoặc đại diện tổ chức bị xử phạt vắng mặt thì phải có hai người
chứng kiến. Đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính cần được niêm phong
thì phải niêm phong ngay trước mặt người bị xử phạt, đại diện tổ chức bị xử phạt hoặc
người chứng kiến. Việc niêm phong phải được ghi nhận vào biên bản”. Như vậy, việc
giám định tang vật đó là trách nhiệm của người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt
chứ không phải là trách nhiệm của công ty C như Tòa án đã nhận định.
Thứ tư, trong quá trình tố tụng, Cơng ty C u cầu giám định số tang vật vi
phạm hành chính, hoặc thu mẫu tương tự để xác định ngưỡng chất thải nguy hại. Tòa
án đã căn cứ vào công văn 124/XLCT.NSQT ngày 21/10/2019 về việc cung cấp tài liệu
chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án và khoản 4 Điều 82 Luật tố tụng hành chính để

khơng chấp nhận u cầu của cơng ty C là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp
luật.
Thứ năm, về Quyết định số 1129/QĐ-XPVPHC ngày 03 tháng 05 năm 2019 xác
định Cơng ty Có 03 hành vi vi phạm với tổng số tiền phạt là 622.000.000 đồng nhưng
không xác định mức tiền phạt cụ thể cho từng hành vi vi phạm là không đúng với quy
định tại khoản 1, Điều 67 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 “Trường hợp một
cá nhân, tổ chức thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính mà bị xử phạt trong cùng
một lần thì chỉ ra 01 quyết định xử phạt, trong đó quyết định hình thức, mức xử phạt
đối với từng hành vi vi phạm hành chính”. Vì vậy, đối với 03 hành vi mà cơng ty C vi
phạm cần phải xác định cụ thể mức phạt của từng hành vi chứ không thể tổng hợp mức
như Quyết định trên, cụ thể: Đối với hành vi 1: Phạt tiền từ 10.000.000 đến 20.000.000
đối với hành vi không thu gom chất thải nguy hại theo quy định; Đối với hành vi 2:
Phạt tiền từ 220.000.000 đồng đến 250.000.000 đồng đối với trường hợp chuyển giao,
cho, bán từ 5.000 kg chất thải nguy hại trở lên; Đối với hành vi 3: Phạt tiền từ
30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng trong trường hợp thải lượng nước thải nhỏ hơn
05 m³/ngày (24 giờ). Như vậy, tổng hợp 03 hành vi thì số tiền phạt cũng không đến

8


622.000.000 đồng như Quyết định số 1129/QĐ-XPVPHC ngày 03 tháng 05 năm 2019
xác định. Tuy nhiên, do đây là trường hợp tổ chức vi phạm nên phải áp dụng thêm
khoản 1 điều 5 nghị định 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 của Chính phủ quy định
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường “Mức phạt tiền đối
với hành vi vi phạm hành chính quy định tại Chương II của Nghị định này là mức phạt
tiền quy định đối với hành vi vi phạm hành chính của cá nhân, mức phạt tiền đối với
hành vi vi phạm hành chính của tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền với cùng hành vi vi
phạm hành chính của cá nhân”.
Về việc Tòa án áp dụng khoản 1 điều 241, 348, 349 đối với những nhận định mà
Tòa án đưa ra. Tuy nhiên, theo phân tích của tơi như trên thì việc áp dụng điều luật này

khơng cịn phù hợp. Vì vậy, cần áp dụng khoản 1 điều 193, điều 220, khoản 2 điều 241,
điều 348, điều 349 Luật tố tụng hành chính. Tun chấp nhận kháng cáo của Cơng ty C
sửa Bản án sơ thẩm số 42/2019/HC-ST ngày 27 tháng 11 năm 2019 của Tịa án nhân
dân tỉnh Bình Dương: Hủy Quyết định số 1129/QĐ-XPVPHC ngày 03 tháng 05 năm
2019 và Quyết định số 1323/QĐ-XPVPHC ngày 17 tháng 05 năm 2019 xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đối với Công ty C.
4. Một số kiến nghị hoàn thành
Trên đây là những nhận xét của tơi về việc áp dụng pháp luật của Tịa án nhân
dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh. Qua đó tối có kiến nghị như sau: Kiến nghị Tịa án
cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh chấp nhận kháng cáo của công ty C, tuyên hủy Bản án sơ
thẩm số 42/2019/HC-ST ngày 27 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Dương; Tuyên hủy 02 Quyết định số 1129/QĐ-XPVPHC ngày 03 tháng 05 năm 2019
và Quyết định số 1323/QĐ- XPVPHC ngày 17 tháng 05 năm 2019 của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân tỉnh B về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi
trường. Vì các lý do sau: 1. Khơng đảm bảo nội dung ban hành quyết định xử phạt vi
phạm hành chính theo quy định của Luật XLVPHC; 2. Không đảm bảo quyền giải
trình của chủ thể vi phạm theo quy định tại điều 61 Luật XLVPHC; 3. Quá trình lập

9


biên bản vi phạm hành chính của cơ quan cơng an khơng phù hợp với quy định vì
khơng thực hiện giám định đối với tang vật thu được; 4. Quyết định không thể hiện
mức phạt đối với các hành vi được quy định tại khoản 1điều 67 Luật XLVPHC.

10


KẾT LUẬN
Thơng qua việc hoạt động thực tiễn, tìm hiểu trên thực tế cũng như qua việc tìm

hiểu, đánh giá vụ án trên, có thể thấy, bên cạnh những ưu điểm, tiến bộ, trong các quy
định của pháp luật về giải quyết các vụ án về khiếu kiện quyết định xử phạt hành chính
trong lĩnh vực mơi trường, cũng như trong quá trình giải quyết các vụ án về yêu cầu
hủy quyết định hành chính Tịa án vẫn cịn tồn tại một số hạn chế xuất phát từ nhiều
nguyên nhân khác nhau như tính nhất quán giữa Luật XLVPHC với các văn bản pháp
luật khác, trình độ, năng lực, phẩm chất của thẩm phán….để khắc phục được những
hạn chế và tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết các vụ án về yêu cầu hủy quyết
định xử phạt hành chính trong lĩnh vực mơi trường, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải
pháp trong đó hoạt động đầu tiên và quan trọng nhất là hồn thiện, đảm bảo tính ổn
định, tính thống nhất của luật chuyên ngành với các văn bản pháp luật liên quan. Trên
đây là toàn bộ bài bình luận về một Bản án hủy quyết định hành chính trong lĩnh vực
mơi trường mà Tịa án đã xét xử.

11


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật xử lý vi phạm hành chính 2012;
2. Nghị định 155/2016/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
bảo vệ môi trường;
3. QCVN 07: 2009/BTNMT quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về ngưỡng chất thải nguy
hại, ban kèm Thông tư 25/2009 TT-BTNMT ban hành quy chuẩn quốc gia về môi
trường;
4. Thông tư 36/2015/TT-BTNMT về quản lý chất thải nguy hại;
5. Luật tố tụng hành chính 2015;
6. Nghị định số 19/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường;
7. Nghị định 81/2013/NĐ-CP về quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành
luật xử lý vi phạm hành chính;
8. Nghị định 38/2015/NĐ-CP ngày 24 tháng 04 năm 2015 về quản lý chất thải và phế

liệu;
9. Bản án 200/2020/HC-PT ngày 16/06/2020 về khiếu kiện quyết định xử phạt hành
chính;
10. Nghị định 97/2017/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số
81/2013/NĐ-CP về quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật xử lý vi
phạm hành chính.

12



×