Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC LÊNIN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM. LIÊN HỆ THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.58 KB, 32 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


TIỂU LUẬN
MƠN HỌC: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
ĐỀ TÀI:

KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG

XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM. LIÊN HỆ THỰC TIỄN

Thành Phố Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2021



MỤC LỤC

MỞ ĐẦU.............................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài................................................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu............................................................................................. 1
3. Phương pháp nghiên cứu..................................................................................... 2

NỘI DUNG.......................................................................................... 2
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM................................................................................... 2
1.1. Khái niệm về nền kinh tế thị trường:................................................................ 2
1.2. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:..........................3
1.3. Tính khách quan và những đặc trưng của việc phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:........................................................ 5
CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ THỰC TIỄN CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG


ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY....................12
2.1. Vai trò của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:....................12
2.2. Mô hình phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế của thời đại:...................13
2.3. Những vấn đề cần tiếp tục xem xét và hoàn thiện:......................................... 15

KẾT LUẬN........................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................ 19


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Trải qua q trình tìm hiểu cũng như học tập ở mơn Kinh tế chính trị Mác
– Lênin , cũng như là những kết quả tiếp thu, học hỏi thêm những kiến thức từ bên
ngoài, chúng em nhận thấy khi tiếp cận với những nội dung của môn học, đặt biệt
là nội dung về “Kinh tế thị trường – định hướng xã hội chủ nghĩa”, một nội dung
có vai trị ảnh hưởng các kiến thức hiểu biết về vai trò của nền kinh tế thị trường
đối với đất nước và đối với sự phát triển của từng quốc gia từng dân tộc. Xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một yếu tố cơ bản trong quá
trình đổi mới quan lí kinh tế ở nước ta. Nhờ vào sự lãnh đạo, sáng suốt và đúng
đắn của Đảng và Nhà nước, nước ta đã bước qua một kỷ nguyên mới – một thời kì
đổi mới, phát triển cả về nền kinh tế cũng như đời sống của nhân dân, chúng ta
vượt qua khủng hoảng, từ một nền quan liêu bao cấp ta chuyển sang một nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên quy luật giá trị và tín hiệu cung
cầu của thị trường.
Chính tầm quan trọng như thế, nhóm chúng em quyết định lựa chọn đề
tài “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Liên hệ thực tiễn”
để nhằm trình bày một cách khách, tổng thể về các khái niệm, q trình chuyển
đổi, những nhận thức trong cơng cuộc đổi mới đất nước, mang đến nguồn kiến
thức hữu ích cho mỗi cá nhân sinh viên nói riêng và mọi cơng dân Việt Nam nói
chung. Góp phần nhỏ trong tâm thức của mỗi sinh viên về định hướng phát triển

nền kinh tế quốc gia.

2. Mục tiêu nghiên cứu:
Đề tài tiểu luận này và những nội dung mà chúng em tìm hiểu, nghiên
cứu sẽ góp phần cung cấp cụ thể hơn những kiến thức liên quan đến nền kinh tế thị
trường – định hướng xã hội chủ nghĩa, giải bày những khuất mắt cịn gặp phải ở
nội dung này sau q trình học tập ở mơn học, từ đó nâng cao hơn hiểu biết là tính
tư duy trong cá nhân của từng người.
4


Trình bày được những giá trị thực tiễn trong cơng cuộc đổi mới đất
nước, thông qua con đường xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế nước ta hiện nay đang
gặp phải những khó khăn, thách thức gì ?...và đường lối lãnh đạo sáng suốt của
Đảng và Nhà nước.
Rút ra bài học cho cá nhân các bạn sinh viên, những người trẻ tuổi,
tương lai sẽ là những người chủ nhân của đất nước, để cùng ra sức phấn đấu đưa
đất nước đi lên ngày càng giàu mạnh, “dân giàu nước mạnh, dân chủ, cơng bằng,
văn minh”.

3. Phương pháp nghiên cứu:
Có rất nhiều phương pháp thực nghiệm, nghiên cứu nhưng ở đây chúng em
chỉ vận dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
- Sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử.
- Sử dụng những nguyên tắc mang tính phương pháp luận đề nghiên cứu.
- Phương pháp khoa học cụ thể, sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp, phương
pháp đối chiếu lịch sử, phương pháp logic học,..

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

1.1. Khái niệm về nền kinh tế thị trường:
Nền kinh tế thị trường là một loại hình kinh tế - xã hội mà ở đó các quan hệ
kinh tế, sự trao đổi, sự mua bán các sản phẩm và nhất là sự phân chia lợi ích, tìm kiếm
lợi nhuận,... đều do các quy luật của thị trường điều tiết và chi phối. Không thu được


lợi nhuận thì người sản xuất, kinh doanh khơng cịn động lực để tiếp tục, nhất là để
thúc


đẩy công việc sản xuất và kinh doanh của họ, do đó sự trì trệ của xã hội là khó tránh
khỏi. Cho nên có thể nói kinh tế thị trường là thành quả quan trọng của sự phát triển
lâu dài trong nền văn minh của toàn thể nhân loại từ khi nó xuất hiện chứ khơng phải
là của riêng hoặc là độc quyền của một hình thái kinh tế - xã hội nào.
Đặc biệt, như C. Mác viết, trong nền kinh tế thị trường của phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa thì việc tìm kiếm “lợi nhuận là quy luật tuyệt đối của phương
thức sản xuất này”. Trong nền kinh tế thị trường, rõ nhất là trong phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa, lợi nhuận là yếu tố trung tâm, là động lực tuyệt đối thúc đẩy
phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động và tăng hiệu quả của hoạt động sản xuất,
kinh doanh.
Kinh tế thị trường là thành quả, là sản phẩm của sự phát triển của kinh tế toàn
thế giới trải qua nhiều thế kỷ và được chủ nghĩa tư bản hiện đại nâng lên một tầm cao
mới chứ không phải chỉ là sản phẩm của riêng chủ nghĩa tư bản.
Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường, kể cả nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa
hiện đại, khơng phải khơng có những hạn chế, những nhược điểm rất cơ bản, thậm chí
cả những khuyết tật khơng dễ gì sửa chữa. Như C. Mác đã chỉ ra, quy luật tuyệt đối
của các nhà tư bản là tìm kiếm lợi nhuận tối đa. Nếu khơng thu được lợi nhuận tối đa

thì chẳng có một nhà tư bản nào lại chịu bỏ vốn ra để sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên,
theo
C. Mác, dưới chủ nghĩa tư bản, “lợi nhuận chỉ là hình thái thứ sinh, phái sinh và được
biến đổi của giá trị thặng dư, là hình thái tư sản trong đó đã xóa hết những nguồn gốc
của nó”, cịn giá trị thặng dư và tỷ suất giá trị thặng dư “là biểu hiện chính xác của
mức độ tư bản bóc lột sức lao động, hay mức độ nhà tư bản bóc lột người cơng nhân”.
Nói cách khác, trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, chính lao động thặng dư
của người cơng nhân là nguồn gốc đem lại lợi nhuận và làm giàu cho nhà tư bản.

1.2. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
Nói đến kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa là, nền kinh tế
nước ta không phải là kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung, quan liêu, bao cấp;
nhưng đó cũng khơng phải là kinh tế thị trường như ở các nước tư bản chủ nghĩa và


cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Bởi vì, nước ta đang ở
thời


kỳ q độ lên chủ nghĩa xã hội, cịn có sự đan xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới,
vừa có, vừa chưa có đầy đủ các yếu tố của chủ nghĩa xã hội.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức
kinh tế, vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa
trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã
hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối. Vì vậy, nó vừa có tính phổ
biến mang đặc trưng chung của nền kinh tế thị trường, vừa có đặc trưng riêng của tính
định hướng XHCN ở nước ta.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi mà Đảng Cộng sản
Việt Nam đặt ra cho mơ hình kinh tế hiện tại của nước Cộng hịa Xã hội Chủ nghĩa

Việt Nam. Nó được mơ tả là một nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, trong đó
khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo, với mục tiêu dài hạn là xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sản phẩm của thời kỳ Đổi
Mới, thay thế nền kinh tế kế hoạch bằng nền kinh tế hỗn hợp hoạt động theo cơ chế thị
trường. Những thay đổi này giúp Việt Nam hội nhập với nền kinh tế toàn cầu. Cụm từ
"định hướng xã hội chủ nghĩa" mang ý nghĩa là Việt Nam chưa đạt đến chủ nghĩa xã
hội mà đang trong giai đoạn xây dựng nền tảng cho một hệ thống xã hội chủ nghĩa
trong tương lai. Mơ hình kinh tế này khá tương đồng với mơ hình kinh tế thị trường
xã hội chủ nghĩa (socialist market economy) của Đảng Cộng sản Trung Quốc, trong
đó các mơ hình kinh tế tập thể, nhà nước, tư nhân cùng tồn tại, và khu vực nhà nước
giữ vai trò chủ đạo
Những cải cách kinh tế đổi mới được Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng từ
năm 1986 trong Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng. Những cải cách này đã tạo ra
một vai trò lớn hơn cho các lực lượng thị trường trong việc phối hợp hoạt động kinh tế
giữa các doanh nghiệp và các cơ quan chính phủ, và cho phép sở hữu tư nhân của các
doanh nghiệp nhỏ và tạo ra một sàn giao dịch chứng khoán cho cả doanh nghiệp nhà
nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh.


Các cải cách kinh tế nhằm tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam nền kinh tế kế
hoạch kiểu Liên Xô và hướng tới một nền kinh tế hỗn hợp hoạt động theo cơ chế thị
trường với mục đích trở thành một giai đoạn chuyển tiếp trong sự phát triển của nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu của hệ thống kinh tế này là cải thiện lực lượng sản
xuất của nền kinh tế, phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật vững chắc cho nền tảng của
chủ nghĩa xã hội và cho phép Việt Nam hội nhập tốt hơn với nền kinh tế thế giới.
Theo đánh giá của nhiều chun gia, trong q trình thực hiện, chính phủ Việt
Nam chưa tạo được môi trường kinh doanh thật sự lành mạnh, bình đẳng. Hiến pháp
đã quy định kinh tế nhà nước đóng vai trị chủ đạo, nhưng cũng quy định các thành
phần kinh tế là bình đẳng, cùng hợp tác và cùng cạnh tranh. Tuy nhiên, trong thực

tiễn, khu vực kinh tế tư nhân khơng có nhiều cơ hội tiếp cận vốn, đất đai, thông tin,
mất nhiều cơ hội trong đấu thầu cũng như tiếp cận thị trường như khu vực kinh tế nhà
nước. Trong khi đó, doanh nghiệp nhà nước vẫn được “ưu ái” về mọi phương diện,
chiếm nguồn lực lớn nhưng lại sử dụng không hiệu quả, nhiều dự án thất thoát, làm ăn
thua lỗ, gây tổn hại lớn cho nhà nước và xã hội. Điển hình là 12 đại dự án thua lỗ của
ngành Công Thương đã để thiệt hại hàng chục nghìn tỷ đồng, mất rất nhiều năm
khơng thể giải quyết dứt điểm. Ngồi ra, cơ chế “xin - cho” trong khu vực nhà nước
đã thúc đẩy hình thành khu vực hưởng lợi trên lưng người khác (rent-seeking) thu lợi
nhờ các đặc quyền hoặc độc quyền kinh doanh.

1.3. Tính khách quan và những đặc trưng của việc phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mặc dù phải tuân theo các quy
luật thị trường, phải tận dụng được tối đa hiệu quả các nguồn lực tự nhiên và xã hội vì
mục tiêu phát triển bền vững nhằm phục vụ tất cả mọi người chứ khơng phải chỉ vì và
chỉ cho một số người. Nền kinh tế đó phải lấy con người làm động lực, đồng thời quan
trọng hơn là phải lấy con người làm mục tiêu. Con người ở đây khơng chỉ có con
người giai cấp mà cịn là con người nhân loại, với chữ CON NGƯỜI viết hoa như C.
Mác nói. Định hướng ấy xuất phát từ bản chất của lý tưởng xã hội chủ nghĩa, một lý
tưởng đầy tính nhân văn và kỳ vọng đem lại sự cơng bằng cho tất cả mọi người. Con


đường để đạt tới mục tiêu đó là phải sử dụng được những ưu điểm vốn có của kinh tế
thị trường, phải


nâng cao được hiệu lực, hiệu quả và sức mạnh điều tiết của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa, bồi dưỡng và tận dụng được sức mạnh nguồn lực con người như một trong
những động lực cơ bản, đồng thời phát huy được tất cả các nguồn lực xã hội khác.
Nền kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa của nước ta nói riêng, có khả năng kích thích tính độc lập, sự năng động,
tính hiệu quả, sự tự do sáng tạo, năng lực phát minh, sáng chế và sự áp dụng nhanh
chóng các cơng nghệ mới nhất của con người vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Sở dĩ kinh tế thị trường có thể làm được như vậy là vì trong nền kinh tế này sự
cạnh tranh để tồn tại và phát triển phụ thuộc rất nhiều vào những khả năng ấy. Tất cả
những khả năng ấy sẽ không phát huy tác dụng nếu thiếu sự tự do được luật pháp bảo
vệ và xã hội khuyến khích.
Trong điều kiện thế giới tồn cầu hóa hiện nay, để phát triển nhanh và lành
mạnh thì kinh tế của một nước khơng chỉ cần có thị trường nội địa mà còn cần cả thị
trường quốc tế rộng lớn. Do vậy, bên cạnh việc tạo dựng niềm tin của người tiêu dùng
trong nước, phải tranh thủ được niềm tin của người tiêu dùng ở ngồi biên giới quốc
gia. Điều này địi hỏi người sản xuất, kinh doanh phải là người có văn hóa và đạo đức
kinh doanh bên cạnh những năng lực và nhiều phẩm chất quan trọng khác. Ngày nay,
nếu một cơ sở, một doanh nghiệp hay một tập đoàn kinh tế mà kinh doanh kiểu chụp
giật, ăn cắp mẫu mã, ăn cắp bản quyền hay làm hàng giả mà khơng tự mình thường
xun đổi mới, khơng thường xun có những cải tiến, sáng tạo, sáng chế và áp dụng
chúng nhanh nhất để vượt lên thì sẽ nắm chắc phần thất bại trên thương trường.
Trong nền kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa nói riêng, khát vọng làm giàu của mỗi người là rất chính đáng nhưng
muốn làm giàu bền vững thì khơng được trái đạo lý, khơng được trái pháp luật. Mỗi
người làm giàu đều phải có trách nhiệm với bản thân mình, với cộng đồng xã hội và
với đất nước. Đó là địi hỏi khơng chỉ về phương diện đạo đức, không chỉ là trách
nhiệm đạo đức mà cịn là trách nhiệm xã hội, là làm giàu có văn hóa. Điều này càng
đặc biệt quan trọng khi chúng ta hội nhập sâu rộng với kinh tế chính là chìa khóa mở
ra cơ hội giành thắng lợi trong cạnh tranh cơng bằng, lành mạnh, qua đó thúc đẩy sản
xuất phát triển.


Lịch sử cho thấy, mặt mạnh của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa nằm ở khả
năng khai thác tốt và hiệu quả khá cao các nguồn lực, nhất là nguồn lực con người,

đặc biệt là nguồn nhân lực trí tuệ cao. Bởi vậy, nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa muốn vượt lên, muốn chiến thắng trong cuộc cạnh tranh khốc liệt trên
mặt trận kinh tế thế giới tồn cầu hóa hiện nay thì càng cần phải đào tạo, bồi dưỡng,
sử dụng hợp lý; phải biết quý trọng và trọng dụng thật sự hiệu quả nguồn lực lao động
trí tuệ cao. Nếu chúng ta khơng có được những con người trí tuệ cao, thậm chí rất cao
này, nếu khơng có đội ngũ đơng đảo người lao động đủ sức tiếp thu các công nghệ cao
trong kỷ ngun chuyển đổi cơng nghệ số và trí tuệ nhân tạo thì sẽ rất khó vượt lên để
đạt đến trình độ của một nước phát triển. Nền kinh tế phát triển cao cũng là điều kiện
cần để giải quyết nhiều vấn đề xã hội nan giải, như sự bất bình đẳng, đặc biệt là giảm
bớt khoảng cách giàu nghèo đang ngày một dỗng rộng ra và ngăn chặn tình trạng
phân cực giàu nghèo quá mức có thể là nguy cơ đe dọa sự ổn định xã hội.
Trong vài thập niên gần đây, một số nước tư bản có nền kinh tế thị trường phát
triển đã thực hiện những giải pháp nhằm giảm bớt sự bất bình đẳng trong xã hội, nhờ
đó đời sống của một bộ phận người lao động được cải thiện. Tuy nhiên, do bản chất
bằng mọi cách tìm kiếm lợi nhuận tối đa, do những mâu thuẫn vốn có trong xã hội tư
bản khơng thể điều hịa được (chứ chưa nói là giải quyết triệt để) cho nên nền kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa không thể loại bỏ được sự bất công, sự bất bình đẳng xã
hội và sự phân cực giàu nghèo đang ngày càng sâu sắc hơn. Vì vậy, để khắc phục
những mâu thuẫn, đồng thời, hạn chế những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường tư
bản chủ nghĩa thì nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cần thiết phải có
sự can thiệp hiệu quả của nhà nước để định hướng phát triển đúng hướng vì con
người, vì sự phồn vinh của đất nước và của cả dân tộc. Về điều này, Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XII của Đảng một lần nữa khẳng định: “Nhà nước đóng vai trị định
hướng, xây dựng và hồn thiện thể chế kinh tế, tạo mơi trường cạnh tranh bình đẳng,
minh bạch và lành mạnh; sử dụng các cơng cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà
nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ
môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát
triển. Phát huy vai trị làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội”. Coi



trọng con người, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân cũng là một trong những nét
nổi bật của đường lối


phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đây là điều mà
nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa khơng có.
Trong thập niên vừa qua, ở nhiều nước tư bản đã nổ ra các cuộc đình cơng, bãi
cơng, biểu tình với các quy mơ khác nhau địi hỏi sự cơng bằng về quyền lợi, về phúc
lợi xã hội, phản đối sự bóc lột q mức và sự bất cơng. Có những cuộc đình cơng đã
thu hút khơng chỉ những người nghèo, những người yếu thế trong xã hội mà còn thu
hút được rất nhiều người thuộc tầng lớp trung lưu, những người khá giả tham gia, làm
tê liệt nhiều lĩnh vực sản xuất, như khai thác khống sản, chế tạo ơ-tơ hoặc các lĩnh
vực giao thông trọng yếu, như vận tải hàng không, tàu điện ngầm, xe lửa,...
Khác với các nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, từ khi mới bắt đầu chấp
nhận nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường đến khi
khẳng định nhất quán xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
Đảng và Nhà nước ta kiên định chủ trương phát triển kinh tế phải đi liền với việc giải
quyết tốt các vấn đề xã hội. Đây là một tiêu chí hết sức quan trọng làm nổi bật hơn
nữa định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường của chúng ta. Muốn vậy,
trước hết phải nâng cao được trình độ của lực lượng sản xuất, trong đó đặc biệt là
trình độ nguồn nhân lực phục vụ cho sự phát triển kinh tế và ln gắn với mục tiêu vì
sự phát triển tồn diện của con người. Bởi chính “trình độ phát triển kinh tế là điều
kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng mục tiêu xã hội lại là mục đích
của các hoạt động kinh tế”.
Nói cách khác, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa do
con người đóng vai trị động lực khơng chỉ vì mục tiêu kinh tế mà quan trọng hơn cịn
vì các mục tiêu xã hội, vì sự phát triển tồn diện các mặt của con người, vì cuộc sống
hạnh phúc của con người. Trước đây, C. Mác đã từng nói rằng, trong nền kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa mỗi người đều coi người khác là phương tiện để lợi dụng.
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đặt con

người lên hàng đầu, coi con người là động lực nhưng cũng là mục tiêu của sự phát
triển. Bởi vậy, Đảng và Nhà nước ta chủ trương không đợi đến khi kinh tế phát triển
cao rồi mới thực hiện các mục tiêu xã hội. Từ rất sớm, Đảng và Nhà nước đã chủ


trương “tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước và trong


suốt quá trình phát triển”. Chủ trương này xuyên suốt các kỳ đại hội của Đảng và
ngày càng được cụ thể hóa trên tất cả các mặt của đời sống xã hội nhằm phục vụ cho
sự phát triển con người một cách tốt nhất. Đây là sự lựa chọn đúng đắn, khoa học, táo
bạo, sáng tạo và đầy tính nhân văn. Sự lựa chọn tất yếu ấy dựa trên cơ sở đúc rút kinh
nghiệm, kế thừa có chọn lọc những điểm mạnh trong thực tiễn phát triển của nền kinh
tế thị trường đã có trong lịch sử, đồng thời cũng là xuất phát từ bản chất nhân văn của
chủ nghĩa xã hội để khẳng định đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa lấy con người làm động lực và mục tiêu phát triển, nghĩa là tất cả là
do con người và vì con người.
*Những đặc trưng:
- Về chủ thể kinh tế: Các chủ thể kinh tế được tự do sản xuất kinh doanh theo luật pháp
và được bình đẳng khơng phân biệt đối xử. Các chủ thể kinh tế đều có cơ hội để tiếp
cận các nguồn lực phát triển có hiệu quả.
- Về thị trường: Thực hiện các giải pháp để tạo lập và phát triển các yếu tố thị trường cơ
bản như thị trường hàng hóa và dịch vụ; thị trường vốn, tiền tệ; thị trường khoa học,
công nghệ; thị trường lao động, thị trường bất động sản và lành mạnh hóa các yếu tố
thị trường đó nhằm tạo điều kiện cho nền kinh tế thị trường phát triển ổn định, bền
vững và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Về cơ chế vận hành: Tơn trọng tính khách quan của các quy luật kinh tế thị trường;
tính năng động của cơ chế thị trường.
- Về vai trò của Nhà nước: Nhà nước điều tiết nền kinh tế thị trường trên cơ sở vận

dụng các quy luật kinh tế của nền kinh tế thị trường vào điều kiện Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế để định hướng phát triển nền kinh tế, tạo lập môi trường
cho nền kinh tế phát triển ổn định, bền vững và hạn chế mặt trái của cơ chế thị trường.
Những đặc trưng riêng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam
- Về hệ thống mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã chỉ rỏ: phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm mục tiêu phát triển


kinh tế - xã hội của đất nước, thực hiện: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”. Để thực hiện được mục tiêu đó trong phát triển nền kinh tế thị trường, phải
tạo điều kiện để giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất và không ngừng phát triển lực
lượng sản xuất; phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn với xây dựng quan hệ sản
xuất mới XHCN phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối; phát triển kinh
tế thị trường để từng bước xây dựng hạ tầng kinh tế cho chủ nghĩa xã hội; cải thiện và
nâng cao đời sống nhân dân.
Mục tiêu kinh tế - xã hội - văn hóa mà nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta phải đạt là:
Làm cho dân giàu: Nội dung căn bản của dân giàu là mức bình quân GDP đầu
người tăng nhanh trong một thời gian ngắn và khoảng cách giàu, nghèo trong xã hội
ngày càng được thu hẹp.
Làm cho nước mạnh: Thể hiện ở mức đóng góp to lớn của nền kinh tế thị
trường cho ngân sách quốc gia; ở sự gia tăng ngành kinh tế mũi nhọn; ở sự sử dụng
tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn tài nguyên quốc gia; ở sự bảo vệ môi trường sinh
thái, bảo vệ các bí mật quốc gia về tiềm lực kinh tế, khoa học, công nghệ và an ninh,
quốc phịng.
Làm cho xã hội cơng bằng, văn minh: Thể hiện ở việc xử lý các quan hệ lợi ích
ngay trong nội bộ nền kinh tế thị trường, ở đó việc góp phần to lớn vào giải quyết các
vấn đề xã hội, ở việc cung ứng các hàng hóa và dịch vụ có giá trị khơng chỉ về kinh tế

mà cịn có giá trị cao về văn hóa, xã hội.
-Về mục tiêu chính trị: Làm cho xã hội dân chủ, biểu hiện ở chỗ dân chủ hóa
nền kinh tế, mọi người, mọi thành phần kinh tế có quyền tham gia vào hoạt động kinh
tế, vào sản xuất kinh doanh, có quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của mình; quyền của
người sản xuất và người tiêu dùng được bảo vệ trên cơ sở pháp luật của nhà nước.
- Về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế: Nền kinh tế có nhiều thành phần, với
nhiều hình thức sở hữu. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp
tác và cạnh tranh lành mạnh với nhau trên cơ sở pháp luật của nhà nước, trong đó kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày


càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất


chủ yếu, từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội về
cơ bản được xây dựng xong.
- Về chế độ phân phối: Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta, thực hiện phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu;
đồng thời có các hình thức phân phối khác nữa (phân phối theo vốn, theo tài năng
cùng các nguồn lực khác đóng góp vào sản xuất kinh doanh), vừa khuyến khích lao
động, vừa bảo đảm phúc lợi xã hội cơ bản, bảo đảm sự phân phối công bằng, hợp lý
và hạn chế sự bất bình đẳng trong xã hội.
- Về vai trò quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa: Nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, sự quản lý và điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, sự quản lý của
nhà nước trong nền kinh tế thị trường phải định hướng cho nền kinh tế phát triển có
hiệu quả trên cơ sở đảm bảo lợi ích quốc gia, lợi ích của nhân dân lao động thơng qua
hệ thống pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế, xã

hội. Đồng thời, có sử dụng cơ chế thị trường (vận dụng các quy luật kinh tế thị trường
để đưa ra những công cụ tác động vào thị trường) kích thích sản xuất, giải phóng sức
sản xuất, phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.
Sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường nhằm
giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, cải
thiện đời sống nhân dân. Nhà nước thực hiện chính sách xã hội, một mặt, khuyến
khích làm giàu hợp pháp, mặt khác phải thực hiện xóa đói, giảm nghèo.
- Về nguyên tắc giải quyết các mối quan hệ chủ yếu: Kết hợp ngay từ đầu giữa lực
lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, bảo đảm giải phóng sức sản xuất; xây dựng lực
lượng sản xuất kết hợp với củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới XHCN, nhằm
phục vụ cho phát triển sản xuất và cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; giữa phát
triển sản xuất với từng bước cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân; giải quyết tốt
các vấn đề xã hội và công bằng xã hội, ngăn chặn các tệ nạn xã hội; giải quyết tốt các
nhiệm vụ chính trị, xã hội, văn hóa, mơi trường và an ninh, quốc phịng.
- Về tính cộng đồng và tính dân tộc: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta mang tính cộng đồng cao theo truyền thống của xã hội Việt Nam, phát


triển kinh tế thị trường có sự tham gia của cộng đồng và vì lợi ích của cộng đồng,
hướng tới xây dựng một cộng đồng xã hội Việt Nam giàu có, đầy đủ về vật chất,
phong phú về tinh thần, dân chủ, công bằng, văn minh, đảm bảo cuộc sống ấm no và
hạnh phúc cho nhân dân.
- Về quan hệ quốc tế: Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta dựa vào sự phát
huy tối đa nguồn lực trong nước và triệt để tranh thủ nguồn lực nước ngoài theo
phương châm “Kết hợp sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại” và sử dụng
các nguồn lực đó một cách hợp lý, đạt hiệu quả cao, để phát triển nền kinh tế đất nước
với tốc độ nhanh, hiện đại và bền vững.
Như vậy, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vừa
mang tính phổ biến (đặc trưng chung) của mọi nền kinh tế thị trường; vừa có đặc
trưng riêng của tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Hai nhóm nhân tố này cùng tồn tại,

kết hợp và bổ sung cho nhau. Trong đó, nhóm đặc trưng chung đóng vai trị là động
lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển, nhóm đặc trưng riêng đóng vai trị hướng dẫn nền
kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ THỰC TIỄN CỦA NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN
NAY

2.1. Vai trò của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
Kinh tế thị trường phát triển đã góp phần khẳng định: Con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.
Thành tựu và những kinh nghiệm, bài học đúc kết từ thực tiễn tạo tiền đề, nền tảng
quan trọng để đất nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới.
Từ nước nghèo, thu nhập thấp, Việt Nam đã gia nhập nhóm nước có thu nhập
trung bình, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, tuy nhiên, trước yêu cầu đổi
mới của nền kinh tế, để đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, bền vững, Đảng và Nhà nước
đang


nghiên cứu, xem xét những vấn đề đặt ra để hoàn thiện hơn thể chế KTTT định hướng
XHCN ở Việt Nam.
Trong đó, vai trị kiến tạo của Nhà nước, vai trò của doanh nghiệp nhà nước
(DNNN), vai trò của kinh tế tư nhân (KTTN) được nhìn nhận là những trụ cột quan
trọng để tạo nên sức mạnh kinh tế cho quốc gia. Nhận diện và chấn chỉnh các biểu
hiện lệch lạc trong quá trình xây dựng KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là cần
thiết và không thể xem nhẹ.

2.2. Mơ hình phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế của thời đại:
Ở Việt Nam, sau hơn 30 năm đổi mới, nền KTTT định hướng XHCN đã hình
thành, phát triển, đến nay đã có những yếu tố của một nền KTTT hiện đại, hội nhập

quốc tế và bảo đảm định hướng XHCN. Đó là nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần; có sự phát triển đầy đủ, đồng bộ các loại thị trường, thị trường
trong nước gắn kết với thị trường quốc tế. Thị trường đã phát huy vai trò trong việc
xác định giá cả, phân bổ nguồn lực, điều tiết sản xuất và lưu thơng hàng hóa; nền kinh
tế đã vận hành theo các quy luật của KTTT.
Đồng thời, nền KTTT có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN; Nhà nước
vừa xây dựng và hoàn thiện thể chế, tạo khung khổ pháp luật, môi trường ổn định,
thuận lợi cho kinh tế phát triển, vừa sử dụng các nguồn lực kinh tế của Nhà nước để
điều tiết, thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN, phát triển bền vững
cả kinh tế, xã hội, môi trường; gắn phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng
xã hội hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Những yếu tố này hoàn toàn tương đồng với các định hướng xã hội của các nền KTTT
hiện đại trên thế giới.
Như vậy, từ thực tiễn và lý luận, có thể khẳng định, KTTT định hướng XHCN
là mơ hình KTTT hiện đại, hội nhập quốc tế khơng chỉ phù hợp với thực tiễn Việt
Nam và xu thế của thời đại, mà cịn là mơ hình kinh tế phù hợp với các nước kinh tế
chưa phát triển quá độ lên CNXH.


Về kinh tế: Sự phát triển của Việt Nam trong hơn 30 năm qua rất đáng ghi
nhận. Công cuộc đổi mới từ năm 1986 đã nhanh chóng đưa Việt Nam từ một trong
những


quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp. Giai
đoạn 2002-2019, GDP đầu người tăng 2,7 lần, đạt trên 2.700 USD năm 2019, với hơn
45 triệu người thoát nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh từ hơn 70% xuống còn dưới
6% (3,2 USD/ngày theo sức mua ngang giá). Đại bộ phận người nghèo còn lại ở Việt
Nam là dân tộc thiểu số, chiếm 86%.
Năm 2019, kinh tế Việt Nam tiếp tục có khả năng chống chịu cao, nhờ nhu cầu

trong nước và sản xuất định hướng xuất khẩu được duy trì ở mức cao. GDP thực tăng
ước khoảng 7%, tương tự tỷ lệ tăng trưởng trong năm 2018, điều này cho thấy Việt
Nam là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực.
Năm 2020, với độ mở về kinh tế và sự hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế
giới, kinh tế Việt Nam bị tác động nặng nề bởi đại dịch Covid-19. Tăng trưởng GDP
đạt 1,8% trong nửa đầu năm, dự kiến cả năm đạt 2,8%. Việt Nam là một trong số ít
quốc gia trên thế giới khơng dự báo suy thối kinh tế, nhưng tốc độ tăng trưởng dự
kiến năm nay thấp hơn nhiều so với dự báo trước khủng hoảng (6-7%). Tuy nhiên, tác
động của dịch Covid-19 rất khó đốn định, tùy thuộc vào quy mô và thời gian kéo dài
của dịch bệnh. Sức ép lên tài chính cơng sẽ gia tăng do thu ngân sách giảm, trong khi
chi ngân sách tăng lên để kích hoạt các gói hỗ trợ các hộ gia đình và doanh nghiệp
giảm thiểu tác động của đại dịch Covid-19.
Về xã hội: Việt Nam đang chứng kiến sự thay đổi nhanh về cơ cấu dân số và xã
hội. Dân số Việt Nam đã đạt 96,5 triệu dân vào năm 2019 và dự kiến sẽ tăng lên 120
triệu dân tới năm 2050. Hiện nay, 70% dân số có độ tuổi dưới 35, với tuổi thọ trung
bình gần 76 tuổi, cao hơn những nước có thu nhập tương đương trong khu vực. Tầng
lớp trung lưu đang hình thành, hiện chiếm khoảng 13% dân số và dự kiến sẽ tăng lên
đến 26% vào năm 2026.
Trong giai đoạn 2010-2020, Chỉ số vốn nhân lực của Việt Nam tăng từ 0,66 lên
0,69. Một em bé Việt Nam được sinh ra ở thời điểm hiện nay khi lớn lên sẽ đạt mức
năng suất bằng 69% so với cũng đứa trẻ đó được học tập và chăm sóc sức khỏe đầy
đủ. Như vậy, Việt Nam là quốc gia có Chỉ số Vốn con người cao nhất trong số các
quốc gia có thu nhập trung bình, tuy nhiên vẫn còn tồn tại khoảng cách giữa các địa
phương, nhất là ở nhóm dân tộc thiểu số.


Y tế của nước ta cũng đạt nhiều tiến bộ khi mức sống ngày càng cải thiện.
Trong giai đoạn 1993-2017, tỷ suất tử vong ở trẻ sơ sinh giảm từ 32,6 xuống cịn
16,7 (trên
1.000 trẻ sinh). Tuổi thọ trung bình tăng từ 70,5 lên 76,3 tuổi trong giai đoạn 19902016. Chỉ số bao phủ chăm sóc sức khỏe tồn dân là 73, cao hơn mức trung bình của

khu vực và thế giới, với 87% dân số có bảo hiểm y tế. Tuy nhiên, tỷ lệ chênh lệch giới
tính khi sinh còn ở mức cao và ngày một tăng, điều này cho thấy tình trạng phân biệt
giới tính vẫn cịn tồn tại. Bên cạnh đó, Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc
độ già hóa dân số nhanh nhất, dự báo đến năm 2050 nhóm tuổi trên 65 sẽ tăng gấp 2,5
lần.
Trong 30 năm qua, việc cung cấp các dịch vụ cơ bản đã có sự thay đổi tích cực.
Khả năng người dân tiếp cận hạ tầng cơ sở được cải thiện. Tính đến năm 2016, 99%
dân số sử dụng điện chiếu sáng, cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ 14% năm 1993. Tỷ lệ
tiếp cận nước sạch nông thôn cũng được cải thiện, từ 17% năm 1993 lên 70% năm
2016, trong khi tỷ lệ ở thành thị là trên 95%.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, đầu tư cơ sở vật chất tính theo phần trăm
GDP của Việt Nam nằm trong nhóm thấp nhất trong khu vực ASEAN. Điều này tạo ra
thách thức không nhỏ đối với sự phát triển liên tục của các dịch vụ cơ sở hạ tầng hiện
đại cần thiết cho giai đoạn tăng trưởng tiếp theo (Việt Nam xếp thứ 89 trong số 137
quốc gia về chất lượng cơ sở hạ tầng).

2.3. Những vấn đề cần tiếp tục xem xét và hoàn thiện:
Nhà nước ngày càng tăng dần vai trò chủ thể quản lý và thu hẹp dần vai trò chủ
thể về kinh tế. Theo đó, Nhà nước thực hiện quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết,
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất, bảo đảm cho thị trường phát triển, tuân
thủ các quy luật của KTTT, tương thích với thơng lệ quốc tế; kiến tạo được môi
trường vĩ mô; xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở và bảo đảm an sinh xã hội; ban hành cơ
chế chính sách về phân bổ nguồn lực, phân phối và phân phối lại theo hướng bảo đảm
tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội; bảo vệ môi trường.


×