Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh Châu Âu với vấn đề phát triển doanh nghiệp Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 14 trang )

HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO VIỆT NAM – LIÊN MINH CHÂU ÂU
VỚI VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
ThS. Lê Quốc Anh1 – Lê Thị Trâm Anh2
Tóm tắt: Hiệp định thương mại tự do (FTA) Việt Nam – Liên minh châu Âu (EU) – (EVFTA) là FTA
thế hệ mới quan trọng, có nhiều ngoại ứng, vừa tạo ra thách thức, vừa mở ra cơ hội cho doanh
nghiệp phát triển. Doanh nghiệp Việt từng được hưởng lợi nhiều từ hoạt động thương mại và
FTA với EU, nhưng còn nhiều lãng phí, yếu kém, bởi nhiều nguyên nhân. Nay trước yêu cầu cấp
thiết, nước ta nên tham khảo kinh nghiệm Trung Quốc, dựa vào EVFTA để phát triển doanh
nghiệp. Cụ thể, cần xây dựng học thuyết phát triển riêng, đổi mới thể chế, thực thi chính sách sát
thực, làm định hướng và tạo khuôn nền. Thành lập các bộ phận chuyên về khai thác từng FTA,
cũng như tổng hợp các FTA, để phát huy lợi thế, hạn chế tác động tiêu cực, chuyển đổi doanh
nghiệp yếu thế. Khai thác tác động từ EVFTA để phát triển các thương hiệu quốc gia, các doanh
nghiệp hỗ trợ, hình thành các chuỗi cung ứng, phát triển tổng hợp các doanh nghiệp đặc thù.
Thu hút khơn ngoan đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI) từ EU và đối tác liên quan, để phát triển
tốt doanh nghiệp, tăng sức cạnh tranh. Hình thành hệ thống doanh nghiệp hội nhập, với khu vực
doanh nghiệp nội phát triển, khu vực FDI tích cực, đóng góp nhiều vào tăng trưởng và nâng cao
chất lượng tăng trưởng...
Từ khóa: Doanh nghiệp, EVFTA, tăng trưởng.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiếm có vấn đề nào ở nước ta có mức độ quan tâm được nâng cấp nhanh như phát triển doanh
nghiệp. Mãi tới năm 2011, khi đa phần các nước đã xem doanh nghiệp là trung tâm của nền kinh tế,
Việt Nam mới lần đầu tiên xem số liệu về doanh nghiệp phải ngừng hoạt động là chỉ tiêu quan trọng.
Nhưng sau đó, ngày 16 tháng 5 năm 2016, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 35/NQ–CP, đặt mục
tiêu có 1 triệu doanh nghiệp hoạt động vào năm 2020. Tiếp đó, ngày 03 tháng 6 năm 2017, Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 5 khóa XII, đặt mục tiêu năm 2020 có 1 triệu doanh nghiệp, đến năm 2025 có
hơn 1,5 triệu doanh nghiệp và đến năm 2030 có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp. Và nay, phát triển doanh
nghiệp được xem là chìa khóa để nước ta đạt kỳ vọng trở thành nước thu nhập trung bình cao, rồi thành
nước thu nhập cao vào các năm 2030 và 2045, chào mừng 100 năm ngày thành lập Đảng, thành lập
nước. Song, không phải muốn là được, bởi đây là nhiệm vụ khó khăn đối với nước mới có thu nhập
trung bình thấp (Lê Quốc Anh & Lê Thị Trâm Anh, 2018a), nên khi EVFTA có hiệu lực, thì cần khai
thác sâu tác động từ đó để phát triển doanh nghiệp. Vì thế, trong thời gian tới, nước ta vừa cần tập trung


khai thác EVFTA, để góp phần tạo ra tăng trưởng cao; vừa cần có những giải pháp lồng ghép, đồng bộ
để phát triển hệ thống doanh nghiệp quốc gia. Vậy, đâu là cơ sở khoa học và thực tiễn của các giải pháp
cần có, chúng cần được triển khai theo các định hướng nào, dựa theo kinh nghiệm của nước nào, các
giải pháp cụ thể ra sao… Để góp phần làm sáng tỏ các vấn đề trên, bài viết này tập trung nghiên cứu:
(i) EVFTA – cam kết rộng, thách thức cao, mở ra nhiều cơ hội cho phát triển doanh nghiệp ở nước ta;
(ii) Thực trạng phát triển doanh nghiệp Việt Nam dưới tác động của hoạt động thương mại và FTA
với EU; (iii) Các giải pháp để phát triển nhanh, mạnh, hiệu quả doanh nghiệp, nhằm khai thác tốt
nhất EVFTA.
1

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.

2

Trường Đại học New South Wales, Australia.

26


2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
FTA thế hệ mới mới có cách đây vài năm, nên cơ sở lý thuyết về phát triển doanh nghiệp dưới tác
động của nó cịn là vấn đề mới mẻ, cả trên thế giới và lẫn ở nước ta. Hơn nữa, đây là chuyên đề phân
tích về ảnh hưởng của một FTA cụ thể, đến sự phát triển doanh nghiệp ở một quốc gia cụ thể, mới có
hiệu lực trong một thời gian ngắn. Nên đây vừa là khoảng trống cần nghiên cứu, vừa đòi hỏi để thực
hiện chuyên đề này, cần xây dựng khung phân tích tương thích. Mặt khác, là chuyên đề phân tích kinh
tế, nên cơ sở lý thuyết được dùng để xây dựng khung phân tích là kinh tế học, nhất là kinh tế vĩ mô,
kinh tế vi mô, kinh tế phát triển, quản trị doanh nghiệp, tài chính doanh nghiệp... Ngồi ra, còn sử dụng
các kiến thức về quản trị học, thống kê kinh tế, cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0, chuỗi giá trị, và
các thông tin, đánh giá về các vấn đề trên cùng các diễn biến của chúng trong các lĩnh vực đó. Từ
nguồn tài liệu thu thập được, tiến hành nghiên cứu định tính, thơng qua các phương pháp: phân tích và

tổng hợp lý thuyết, chuyên gia, phân tích tổng kết kinh nghiệm, nghiên cứu lịch sử… Trên quan điểm
duy vật biện chứng, dùng phép diễn dịch để suy đoán hệ quả tất yếu, dùng phép so sánh để đưa ra nhận
định trung gian, sử dụng phép quy nạp để đưa ra kết luận, tổng hợp lại để đề đạt kiến nghị, giải pháp.
Số liệu được thu thập từ Ngân hàng Thế giới (WB), Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), Tổng cục
Thống kê (GSO), Tổng cục Hải quan; các số liệu không dẫn nguồn là được thu thập từ Sách trắng
Doanh nghiệp Việt Nam 2020 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu – cam kết rộng, thách thức
cao, mở ra nhiều cơ hội cho phát triển doanh nghiệp ở nước ta
3.1.1. Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu – hiệp định thương mại tự
do thế hệ mới điển hình
EVFTA là FTA giữa Việt Nam và 28 nước thành viên EU, được Thủ tướng Việt Nam và Chủ tịch
EU đồng ý khởi động đàm phán vào tháng 10 năm 2010. Sau đó chính thức đàm phán từ tháng 6 năm
2012, và kết thúc đàm phán ngày 01 tháng 12 năm 2015. Tháng 9 năm 2017, tách riêng nội dung bảo
hộ đầu tư và cơ chế giải quyết tranh chấp giữa Nhà nước với nhà đầu tư, thành Hiệp định Bảo hộ đầu
tư (IPA). Vì thế, cam kết về đầu tư trong EVFTA chỉ cịn phần tự do hóa FDI, và có hiệu lực từ ngày
01 tháng 8 năm 2020, với 27 nước EU do Anh đã Brexit. Với 17 chương, 2 Nghị định thư và một số
biên bản ghi nhớ kèm theo – EVFTA khơng rộng bằng Hiệp định Đối tác Tồn diện và Tiến bộ xuyên
Thái Bình Dương (CPTTP) với 30 chương và 9 phụ lục. Nhưng là FTA thế hệ mới hiện đại và toàn
diện nhất của nước ta, bởi: (i) Nền tảng vẫn là FTA, ở cấp độ 2/5 về hội nhập kinh tế quốc tế, nhưng
phạm vi cam kết đã mở rộng hơn nhiều FTA thế hệ thứ nhất, thứ hai, vượt xa cả FTA thế hệ thứ ba.
Hình 1. Tiến trình hình thành các thế hệ FTA
Thế hệ thứ nhất

Thế hệ thứ hai

Thế hệ thứ ba

Thế hệ mới


Tập trung ở việc
tự do hóa lĩnh
vực thương mại
hàng hóa (cắt
giảm thuế quan
loại bỏ hàng rào
phi thuế quan)

Mở rộng phạm vi tự
do sang các lĩnh
vực dịch vụ nhất
định (xóa bỏ các
điều kiện tiếp cận
thị trường trong các
dịch vụ liên quan)

Tiếp tục mở rộng
phạm vi về tự do
dịch vụ đầu tư. P4 Mở rộng phạm vi tự
do sang các vấn đề
phi thương mại như
lao động, môi
trường

Đàm phán tự do mạnh mẽ
về thuế quan, mở cửa dịch
vụ, đầu tư, quyền sở hữu
trí tuệ, vệ sinh dịch tễ,
hàng rào kỹ thuật, cạnh
tranh mua sắm công, lao

động, môi trường.

Nguồn: Nguyễn Thị Minh Nhàn (2014)

27


(ii) Tính “thế hệ mới” càng rõ khi ngồi lao động và môi trường, nhiều vấn đề phi thương mại
khác được cam kết, để bảo đảm cạnh tranh công bằng giữa các bên trong quan hệ thương mại. (iii) Mức
độ tự do hóa thương mại sâu và nhanh, gần như ngay lập tức mở cửa thị trường, xóa bỏ phần lớn dịng
thuế cho hàng hóa, mở cửa nhanh, mạnh các ngành dịch vụ. (iv) Nhiều cam kết thể chế, ảnh hưởng lớn
đến pháp luật nội địa, như phát triển bền vững, quản trị, quyền sở hữu trí tuệ, minh bạch hóa, chống
tham nhũng – được thỏa thuận. (v) Hơn hẳn CPTTP, còn ràng buộc về nhân quyền, xác lập cơ chế đảm
bảo sự tham gia của các thành phần, cân bằng lợi ích, có tính đến chênh lệch về trình độ phát triển (Lê
Quốc Anh, 2017)…
3.1.2. Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu có nhiều ngoại ứng, ảnh
hưởng lớn tới phát triển doanh nghiệp ở Việt Nam
Quá trình đàm phán và triển khai EVFTA mang về nhiều ngoại ứng, ảnh hưởng tới phát triển
doanh nghiệp ở nước ta, tiêu biểu là: (i) Làm thay đổi tư duy kinh tế, ép buộc nhà nước đổi mới cơ bản
thể chế kinh tế, nâng cao chất lượng mơi trường đầu tư, “cởi trói” cho doanh nghiệp. Tạo ra cuộc “tổng
rà soát” quy định pháp lý, sửa đổi theo chuẩn mực quốc tế, ép bộ máy quản lý đang “ì ạch” phải chuyển
nhanh sang cơ chế thị trường. (ii) Mở ra cục diện mới cho phân công lao động, hướng doanh nghiệp
phát triển thực dụng trong hội nhập, thốt dần tình trạnh phụ thuộc vào một vài thị trường. Địi hỏi
doanh nghiệp Việt phải đơng về lượng để tăng “người chơi”, phối hợp với nhau trong chuỗi cung ứng,
để tham gia hệ thống tiêu thụ dạng chuỗi (Lê Quốc Anh & Lê Thị Trâm Anh, 2018b). (iii) Tạo tâm thế
mới cho nhà đầu tư trong nước, hướng quan tâm sang đầu tư dài hạn, khai thác lợi thế, nhất là về nông
nghiệp. Thu hút FDI đến hưởng lợi, mở đường cho các thương hiệu lớn của EU sang đầu tư, mở rộng
ảnh hưởng lên toàn khu vực. (iv) Tăng sinh khí cho nền kinh tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư dự báo:
EVFTA sẽ làm cho GDP, kim ngạch xuất, nhập khẩu của Việt Nam hàng năm đều tăng thêm đáng kể.
Đồng thời, tăng sinh khí phát triển cho doanh nghiệp, khi còn là cầu nối để mở rộng quan hệ giữa EU

với từng nước nói riêng và cả Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) nói chung.
Bảng 1. Dự báo các phần tăng thêm chính của Việt Nam khi có EVFTA
Phần tăng thêm (%) bình qn năm của
GDP

Kim ngạch xuất khẩu

Kim ngạch nhập khẩu

Các năm 2019 – 2023

2,18 – 3,25

5,21 – 8,17

4,36 – 7,27

Các năm 2024 – 2028

4,57 – 5,30

11,12 – 15,27

10,63 – 15,40

Các năm 2029 – 2033

7,07 – 7,72

17,98 – 21,95


16,41 – 21,66
Nguồn: Nhất Thanh (2020)

Song EVFTA cũng đan xen nhiều ngoại ứng tiêu cực, ảnh hưởng tới sự phát triển của doanh
nghiệp ở nước ta. Điển hình là gây tâm lý bất an cho doanh nghiệp trong các ngành thường được bảo
hộ, có sự lạc hậu tương đối, hoặc bị Chính phủ nhượng bộ “xấu xí”, cho doanh nghiệp nhà nước. Chi
phí để cải thiện mơi trường lao động, đáp ứng mức thu nhập mới... theo cam kết, làm tăng gánh nặng
tài chính cho doanh nghiệp vốn đang khan hiếm nguồn lực. Gây lo ngại cho các doanh nghiệp kinh
doanh phục vụ nhu cầu nội địa, hoặc tham gia trong các FTA khác, nhất là các nhà xuất nhập khẩu
truyền thống. Nhiều doanh nghiệp FDI có sản phẩm tương đồng với các doanh nghiệp EU, nhưng quy
mơ, cơng nghệ hoặc thương hiệu thấp hơn có thể sẽ thối lui vì lo ngại rủi ro...
3.1.3. Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu có nhiều thách thức lớn tới
phát triển doanh nghiệp ở Việt Nam
Các thách thức chính là: (i) Đưa được số lượng doanh nghiệp tham gia vào EVFTA lên mức cần
có, giúp chúng đủ lớn về quy mơ, đủ mạnh về chất lượng, để thu về lợi ích nhiều hơn tổn thất, thiệt hại
mất đi... Cạnh tranh thành công, giảm dần khiếm khuyết, vươn lên lớn mạnh, ít bị doanh nghiệp EU lấn
28


át, thâu tóm, giảm số doanh nghiệp bị đào thải vì các hạn chế cố hữu. (ii) Từng khu vực doanh nghiệp
tham gia vào EVFTA hoàn thành sứ mệnh, như doanh nghiệp nhà nước bên hiệu quả xã hội, còn đạt
mức hiệu quả kinh tế cần có; doanh nghiệp FDI từ EU có nhiều tác động lan tỏa. Khu vực doanh
nghiệp ngoài nhà nước tăng đủ nhanh về lượng, khắc phục được nhược điểm vốn ít, cơng nghệ thấp,
giữ được thị trường nội địa, hỗ trợ doanh nghiệp dẫn dắt thị trường, trở thành động lực của nền kinh
tế… (iii) Nhà nước từ bỏ quyền quản lý và điều tiết thu nhập hợp lý, để tạo môi trường kinh doanh
thông thống, tương thích với cam kết. Các nhà hoạch định chính sách mở rộng tầm nhìn, các bộ ngành
thực thi tốt chức năng kiến tạo, các công chức tăng cường kỷ cương và đạo đức công vụ, mở đường cho
phát triển. (iv) Từng doanh nghiệp đổi mới kịp thời, tăng sự phối hợp, vượt qua tình trạng gần như thất
thế “toàn tập” trước doanh nghiệp EU để phát triển, nhất là doanh nghiệp bị thiệt thịi vì cam kết Chính

phủ. Tìm ra cách thức kinh doanh hoặc hợp tác phù hợp với doanh nghiệp EU, để tự hoặc cùng phát
triển, chủ động trong sản xuất, xuất khẩu, làm nền cho đất nước phát triển. (v) Giới khoa học giúp
doanh nghiệp nhận rõ cơ hội, thách thức, hiểu được cách thức đầu tư mới, đổi mới, hợp tác phù hợp...
Cộng đồng hỗ trợ doanh nghiệp lúc khó khăn, đúng thời điểm, làm tăng nội lực cho nền kinh tế, tăng vị
thế cho đất nước; dung hịa lợi ích giữa quốc gia – doanh nghiệp – cộng đồng và người lao động (Lê
Quốc Anh và Lê Thị Trâm Anh, 2018c).
3.1.4. Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu mở ra nhiều cơ hội cho phát
triển doanh nghiệp ở Việt Nam
Thách thức lớn và nhiều, song bên cạnh đó EVFTA cũng mang nhiều cơ hội lớn cho phát triển
doanh nghiệp ở nước ta, tiêu biểu là: (i) Nhà nước cải cách thể chế mạnh mẽ cho tương thích với cam
kết trong EVFTA, “cởi trói” cho doanh nghiệp, giải phóng nhiều nguồn lực tiềm ẩn. Khuyến khích, hỗ
trợ phong trào khởi nghiệp, nâng cấp các hộ, tổ hợp, trang trại, hợp tác xã thành doanh nghiệp, kết hợp
mong muốn khai thác cơ hội, với đòn bẩy hỗ trợ, tạo ra cao trào phát triển về lượng cho doanh nghiệp.
(ii) Đưa nhanh và nhiều các lợi thế của đất nước phục vụ nhu cầu xuất khẩu sang thị trường EU, có
nhiều ưu đãi, giúp phát triển mạnh doanh nghiệp trong các ngành đang khai thác lợi thế. Mở rộng về
quy mô, sản lượng và thị trường, cho phép tập trung đầu tư cho doanh nghiệp ở các ngành xuất khẩu
chủ lực, đưa thành thương hiệu quốc gia, tạo vị thế mới cho doanh nghiệp Việt. (iii) Thế chỗ cho doanh
nghiệp ngoại đang cùng cung cấp sản phẩm cùng loại cho EU, nay bị đứt gãy trong quan hệ cung ứng
khi khơng tham gia EVFTA, vì bị hụt hẫng trong cạnh tranh. Vươn sang chiếm giữ thị trường sản phẩm
giá rẻ, ngay tại “sân nhà” ở các nước EU, nhờ lợi thế chi phí lao động thấp hơn, hoặc ở ngành cần
nhiều lao động “sống”. (iv) Thu hút doanh nghiệp FDI từ các nước EU, nhất là trong các ngành EU có
thế mạnh vượt trội, nhằm đưa sản xuất đến thị trường, hoặc dùng Việt làm bàn đạp lấn sang các nước
lân cận. Đón nhận doanh nghiệp FDI của các nước khác, khi chuyển đầu tư từ các nước không tham gia
sang, hòng trục lợi kinh tế theo EVFTA. (v) Tham gia vào các chuỗi giá trị, qua việc thâm nhập vào
mạng lưới tiêu thụ ở các nước EU, nhất là trong việc cung cấp nông sản nhiệt đới, hoặc truyền thống,
mang đậm bản sắc văn hóa Việt. Là hướng quan trọng để các doanh nghiệp Việt đang dẫn dắt thị
trường tự giảm áp lực cạnh tranh, quy tụ, lôi kéo và hỗ trợ nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) cùng
vươn sang EU...
3.1.5. Kinh nghiệm Trung Quốc về phát triển doanh nghiệp để phục vụ xuất khẩu, và khai thác
đầu tư nước ngồi để phát triển doanh nghiệp trong nước

Có nhiều kinh nghiệm về phát triển doanh nghiệp khi hội nhập, như giải tán doanh nghiệp lớn
không hiệu quả của Nhật Bản, tập trung cho doanh nghiệp xuất khẩu của Hàn Quốc, dùng sức mạnh
toàn dân để đột phá của Singapore, đẩy mạnh khởi nghiệp của Israel... Nhưng kinh nghiệm phát triển
doanh nghiệp để phục vụ xuất khẩu, và khai thác FDI để phát triển doanh nghiệp trong nước, nên học
nhất là của Trung Quốc. Bởi: (i) Hai nước giáp biên giới nhau, có nhiều tương đồng về văn hóa,
chính trị, cơ chế lãnh đạo, quá khứ kinh tế tập trung, nhu cầu tái cấu trúc, nền kinh tế hỗn hợp định
29


hướng thị trường... Nhiều thay đổi lớn của Việt Nam như là “bản sao” của các thay đổi từng có ở
Trung Quốc, với độ trễ khoảng 10 năm, nên dùng kinh nghiệm Trung Quốc để đổi mới, cảnh báo có
ý nghĩa to lớn. (ii) Lý luận và cách thức phát triển của Trung Quốc trong 30 năm 1949–1978 là có
vấn đề, dẫn đến kinh tế dần kiệt quệ, sau 10 năm đã rơi vào nạn đói, làm 43 triệu người chết (Nguyễn
Minh Tri, 2015). Sản xuất trì trệ, 20 năm chỉ đưa thu nhập bình quân của người dân tăng thêm 04 tệ,
dự trữ ngoại tệ năm 1978 chưa đến 0,2 USD/người (Ngô Hiểu Ba, 2010, 15), tụt hậu so với nhiều
nước. (iii) Sau 30 năm “Mở cửa”, đã thành siêu cường thứ hai, có tăng trưởng bình qn 9,7%/năm
trong giai đoạn 1980–2015, dự trữ ngoại tệ năm 2015 lên đến 38.000 tỷ USD, đứng đầu thế giới. Bí
quyết thành cơng là tự do hóa nhiều mặt, giải phóng tiềm năng, nâng cao năng lực cạnh tranh để thu
hút FDI – năm 2013 đạt 290,9 tỷ USD ròng, giúp phát triển mạnh doanh nghiệp trong nước.
Hình 2. Năng lực cạnh tranh của Việt Nam và Trung Quốc năm 2019

Năng lực đổi mới
sáng tạo
Tính năng động của
doanh nghiệp
Quy mơ thị trường

Thể chế
100
80

60
40
20
0

Cơ sở hạ tầng
Tiếp cận công nghệ
thông tin
Ổn định kinh tế vĩ


Hệ thống tài chính

S ức khỏe

Thị trường lao động

Kỹ năng

Việt Nam
Trung Quốc

Thị trường hàng hóa

Nguồn: WEF (2020)

(v) Đẩy mạnh việc đưa doanh nghiệp lên tầm “toàn cầu”, từ tương quan 43/776 về số doanh
nghiệp lớn nhất thế giới giữa Trung Quốc và Mỹ năm 2003, đến năm 2019 đã thành 309/575. Năm
2019, số doanh nghiệp Trung Quốc trong Global 2000 đã vượt Nhật Bản (223 doanh nghiệp), có 5/10
doanh nghiệp lớn nhất thế giới năm 2020, thành “công xưởng của thế giới”, bá chủ trong nhiều chuỗi

cung ứng. Song, sự phát triển ở Trung Quốc thiếu cơ sở kinh tế vững chắc, số liệu tăng trưởng chưa
thực chất, kiểm sốt thơ sơ (Thomas, 2005, 305), dẫn đến nhiều chủ thể chìm vào “núi nợ”. Thể chế
chính trị chưa đổi mới đồng bộ, khó đi đến kinh tế thị trường đầy đủ, gây nhiều hệ lụy, nhức nhối là
tham nhũng. Làm phúc lợi giảm, dân giảm niềm tin, bức xúc, tăng trưởng dần trở nên kiệt sức (Daron
và cs., 2013, 562), khiến kinh tế Trung Quốc bị ví von là “quả bom nổ chậm” (Lê Quốc Anh và Lê Thị
Trâm Anh, 2019).
3.2. Thực trạng phát triển doanh nghiệp Việt Nam dưới tác động của hoạt động thương
mại và Hiệp định thương mại tự do với Liên minh châu Âu
3.2.1. Doanh nghiệp Việt Nam từng phát triển nhiều nhờ hoạt động thương mại và Hiệp định
thương mại tự do với Liên minh châu Âu
EVFTA là sự kế thừa và được nâng tầm từ quan hệ thương mại giữa Việt Nam với EU cũ – khi
nước Anh chưa Brexit (EU28). Vì thế, ảnh hưởng từ hoạt động thương mại và FTA với EU tới phát
triển doanh nghiệp ở Việt Nam được khai thác chưa nhiều, nhưng vẫn lớn và quan trọng.

30


Hình 3. Phần của xuất, nhập khẩu với EU28 trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
của Việt Nam, giai đoạn 1995–2019 (%)
23
21
19
17
15
13
11
9
7
5


Xuất khẩu

1995
12.19

1998
22.21

2001
19.97

2004
18.76

2007
18.73

2010
15.76

2013
18.42

2016
19.26

2019
15.73

Nhập khẩu


8.71

10.84

9.29

8.39

8.19

7.49

7.14

6.38

5.91

Nguồn: Tính tốn từ số liệu của Tổng cục Thống kê

Cụ thể:
(i) EU28 là bạn hàng chính, quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất, nhập
khẩu của Việt Nam, và là khu vực có xuất siêu lớn. Khơng ít doanh nghiệp Việt lấy quan hệ thương
mại này làm điểm tựa để phát triển, đồng thời là cánh cửa giúp họ vươn ra thế giới, thu về nhiều
ngoại tệ, phục vụ q trình cơng nghiệp hóa đất nước.
(ii) EU là đối tác lớn đi đầu, trước cả ASEAN và Trung Quốc, dẫn dắt Việt Nam hội nhập kinh tế
sâu rộng, mở đường cho cộng đồng doanh nghiệp chuyên về xuất nhập khẩu với EU của nước ta phát triển.
Hình 4. Quá trình mở cửa của Việt Nam tới ngày gia nhập WTO
1992

Hiệp định về may
mặc với EU

1986
Bắt đầu Đổi
mới

1995
Hiệp định khung
với EU

1993
Khu vực Mậu dịch tự
do ASEAN

1995
Chuẩn bị gia
nhập WTO

2004
Hiệp định tiếp cận thị
trường với EU

2001
Hiệp định Thương
mại Việt – Mỹ

2005
FTA ASEAN –
Trung Quốc


2007
Gia nhập
WTO

Thời
gian

Nguồn: Lê Đăng Doanh (2016)

Giúp phát triển nhanh các cộng đồng doanh nghiệp tương tự với nhiều thị trường khác, đưa xuất
nhập khẩu trở thành động cơ tăng trưởng chính của Việt Nam, ảnh hưởng đến nhiều doanh nghiệp
không chuyên khác có liên quan. (iii) Q trình đàm phán EVFTA và rà soát pháp lý, giúp Việt Nam
nhận thức rõ hơn những cái “khơng giống ai” trói buộc doanh nghiệp, để đổi mới, từng bước hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường. Quan hệ thương mại với EU28 góp phần làm rõ các thế mạnh và các
mặt cần bổ khuyết của kinh tế Việt Nam, giúp nhà đầu tư thấy rõ hướng phát triển doanh nghiệp cần
có, để tồn tại lâu dài, cùng vươn ra thế giới.
(iv) Quan hệ thương mại với EU28 giúp thu hút khơng ít dự án FDI chất lượng tới Việt Nam, tạo
ra một số sản phẩm có hàm lượng cơng nghệ cao, điển hình là điện thoại, máy vi tính, đồ điện tử. Lũy kế
đến cuối năm 2019, EU28 có 2.375 dự án đến từ 27/28 quốc gia còn hiệu lực, với tổng vốn đầu tư đăng
ký 25,49 tỷ USD, nhiều tập đoàn lớn của EU đang hoạt động hiệu quả tại Việt Nam. (v) EU còn là nơi để
các doanh nghiệp Việt ấp ủ dự định “thoát Trung”, trên cơ sở cộng đồng người Việt tại EU đông đảo.
Đầu tư của Việt Nam sang EU28 chưa nhiều, đến hết năm 2018 mới có 78 dự án đầu tư sang 10 nước,
với tổng vốn đăng ký đạt khoảng 320,20 triệu USD, trong đó chủ yếu là sang Đức với 29 dự án…
31


Bảng 2. Bảy mặt hàng xuất, nhập khẩu chính của Việt Nam trước EU
Hàng xuất khẩu
(theo giá trị kim

ngạch)

Năm 2019
Triệu
USD

Điện thoại

12.209,2

Giày dép

Năm 2019

So với 2018
(%)

Hàng nhập khẩu (theo
giá trị kim ngạch)

Triệu USD

So với
2018 (%)

–7,23 Máy móc thiết bị

3.909,9

–3,92


5.029,4

+7,51 Máy vi tính, điện thoại

2.514,4

+36,40

Máy vi tính

4.660,4

–8,13 Dược phẩm

1.633,1

+13,50

Dệt may

4.261,9

+3,90 Sản phẩm hóa chất

556,5

+4,89

Máy móc


2.510,3

+21,63 Nguyên liệu dệt may da

402,2

–2,58

Thủy hải sản

1.247,6

–13,07 Phương tiện vận tải
khác

257,1

–22,77

Cà phê

1.157,7

–14,91 Linh kiện phụ tùng ôtô

218,8

–11,85


Nguồn: Tổng cục Hải quan

3.2.2. Các hạn chế, yếu kém trong việc phát triển doanh nghiệp ở Việt Nam dưới tác động của
quan hệ thương mại với Liên minh châu Âu
Có nhiều, trong đó các hạn chế, yếu kém chính là: (i) Việt Nam thiếu doanh nghiệp đủ tầm để
“chơi” trong EVFTA, đảm bảo cung hàng xuất khẩu với quy mô lớn, tương thích với hệ thống tiêu thụ
dạng chuỗi của EU. Tổng số doanh nghiệp lớn và vừa mới chỉ hơn 38.300, trong đó gần 2/3 là doanh
nghiệp nhà nước từng bị ví là càng hội nhập sâu càng “run” (Lê Dỗn Hồn, 2014), mà phải tham gia
sâu vào 13 FTA đã có hiệu lực, thì hơi q sức. (ii) Chất lượng doanh nghiệp chưa ổn, ít doanh nghiệp
có giá trị thương hiệu cao, công nghệ lạc hậu, sản phẩm chưa rõ về xuất xứ, thiếu đồng đều về chất
lượng, khó đáp ứng tiêu chuẩn EU. Trong thời tồn cầu hóa, mà chỉ có 21% SME Việt tham gia vào
các chuỗi cung ứng toàn cầu, nhiều sản phẩm phải xuất khẩu qua nước thứ ba, khó tham gia vào chuỗi
giá trị của EU. (iii) “Sức khỏe” của nhiều doanh nghiệp chưa tốt, năm 2019 chỉ có 44,1% doanh nghiệp
làm ăn có lãi, nhiều doanh nghiệp cịn bị “li ti hóa” (Võ Trí Thành, dẫn theo Nguyễn Hồi, 2016), thiếu
khả năng cạnh tranh quốc tế. Nhiều cam kết cao, như thu nhập của người lao động, môi trường lao
động, nguyên tắc xuất xứ, làm cho EVFTA như là cuộc chơi quá sức với nhiều doanh nghiệp nội.
Hình 5. Cơ cấu doanh nghiệp Việt tại thời điểm cuối năm 2018 theo quy mô

(iv) Cơ cấu doanh nghiệp chưa tương hợp, khi 2.260 doanh nghiệp nhà nước là bộ khung của nền
kinh tế, nhưng xuất khẩu khơng đáng kể sang EU, cịn khu vực I cung cấp tới 2,5 tỷ USD hàng xuất
khẩu nhưng chỉ chiếm 1,35% số doanh nghiệp. Khu vực FDI chiếm tới 72% kim ngạch xuất khẩu, với
các sản phẩm chính là hàng gia cơng, lắp ráp, làm cho nước ta dường như đang xuất khẩu hộ cho các
nước đối tác, nhất là Hàn Quốc.
32


Bảng 3. Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – EU28, 2015–2019
Đơn vị: triệu USD

Xuất khẩu

Năm
Trị giá

Nhập khẩu

Tăng (%)

Trị giá

Xuất nhập khẩu

Tăng (%)

Trị giá

Tăng (%)

2015

30.940,1

10,77

10.433,9

17,16

41.374,0

12,31


2016

34.007,1

9,92

11.063,5

6,03

45.070,7

8,93

2017

38.336,9

12,75

12.097,6

8,57

50.434,5

11.72

2018


41.885,5

9,42

13.892,3

13,95

55.777,8

10,59

2019

41.546.6

–0,81

14.906,3

7,30

56.452,9

1,21

Nguồn: Tổng cục Hải quan

(v) Các mặt hàng nông, thủy sản – niềm hy vọng của nước ta trong EVFTA, thường sản xuất nhỏ,

phân tán, chưa bắt kịp trào lưu sản xuất “sạch”, chưa thực hiện nghiêm tiêu chuẩn cho nông sản, chưa
xây dựng được thương hiệu quốc gia. Kim ngạch xuất nhập khẩu còn tăng giảm thất thường, cần chế tài
mạnh để chấn chỉnh “người chơi”, phát huy vai trò của các hiệp hội để nâng cấp “cách chơi”, mới
mong phát triển mạnh, hiệu quả và lâu dài.
3.2.3. Nguyên nhân của các hạn chế, yếu kém trong phát triển doanh nghiệp Việt dưới tác động
của quan hệ thương mại và hiệp định thương mại tự do với Liên minh châu Âu
Các nguyên nhân chính là: (i) Việt Nam để doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả thao túng nền
kinh tế, vài năm gần đây mới coi trọng doanh nghiệp tư nhân, nên khu vực doanh nghiệp cịn non yếu.
Mặt khác, mơ hình phát triển bị đánh giá là phi kinh tế, không chấp nhận được (Trường Chinh, dẫn
theo Đặng Phong, 2012, 271), song đổi mới và “cởi trói” chậm; tới năm 2013 mới thực sự chú tâm vào
hội nhập quốc tế, nên lĩnh vực này chưa phát triển tương xứng. (ii) Doanh nghiệp tư nhân chưa ổn về
môi trường pháp lý, vừa bị di họa từ thể chế cũ xem thường các phạm trù kinh tế cơ bản (Todd, 2008,
251) cản trở, vừa bị thanh, kiểm tra chồng chéo, nên “khơng dám lớn”. Dấu tích của tư duy bài xích
mọi quan hệ thị trường (Võ Nguyên Giáp, dẫn theo Đặng Phong, 2012, 159), và chính sách cơng
nghiệp lạc hậu (Kenichi, dẫn theo Bích Ngọc, 2014), làm doanh nghiệp Việt nhiều năm lạc lõng trong
tiến trình phát triển chung. (iii) Khi hội nhập với EU, các hạn chế cố hữu về quy mô, vốn, nhân lực,
cách quản trị, thương hiệu, năng lực cạnh tranh – càng lộ rõ; bị bất ổn vĩ mô dai dẳng giai đoạn 2007 –
2013 làm cho điêu đứng. Cơ cấu kinh tế lạc hậu, chuẩn mực thấp, liên kết giữa các bộ phận, khu vực
yếu, liên kết giữa các nhóm ngành xuất khẩu hầu như khơng có (Michael Porter, dẫn theo Lưu Ngọc
Trịnh, 2012), khiến doanh nghiệp Việt khó cạnh tranh khi tham gia EVFTA. (iv) Việc dùng các tỉnh,
thành phố làm địa bàn cấp chiến lược trong tổ chức sản xuất, làm lợi thế bị chia cắt, doanh nghiệp
trong khu vực I thành manh mún, khó phát triển. Tư duy phát triển theo khả năng, làm quy mô sản
phẩm xuất khẩu vừa nhỏ, vừa chủ yếu liên kết với thế giới bằng các sản phẩm kinh doanh theo nhu cầu
của các doanh nghiệp FDI. (v) Lợi thế bền vững của nước ta trước EU là nông sản nhiệt đới, nhưng
nhiều chuỗi cung ứng đứt gẫy, đa phần chưa sản xuất theo quy trình GAP, như là tự loại ra khỏi
EVFTA. Mơ hình tổ chức sản xuất nơng nghiệp khủng hoảng, đồng tiền bị định giá cao (Nguyễn Đức
Thành, dẫn theo Thụy Khanh, 2018), nên khó cạnh tranh với các nền nông nghiệp khác.

33



Bảng 4. Quy mơ bình qn về diện tích và GDP năm 2019 của đơn vị
tổ chức kinh tế chiến lược của một vài quốc gia
Tồn quốc
GDP

Diện tích
(km2)

Quy mơ bình quân

Số bang,
tỉnh, đơn vị
trực thuộc

(tỷ USD)

GDP

Diện tích
(km2)

(triệu USD)

Mỹ

9.525.067

21.427,7


50

190.501

428.554,0

Trung Quốc

9.596.961

14.342,9

33

436.225

434.633,3

Nhật Bản

377.930

5.081,8

47

8.041

108.123,4


Hàn Quốc

100.210

1.642,4

17

5.895

96.611,8

3.287.263

2.875,1

36

91.313

79.863,9

331.212

261,9

63

5.257


4.157,1

Ấn Độ
Việt Nam

Nguồn: Wikipedia, Ngân hàng Thế giới

3.2.4. Dựa vào Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu để phát triển doanh
nghiệp – yêu cầu cấp thiết và thực tiễn của Việt Nam
Bởi: (i) Phát triển doanh nghiệp giúp khuếch trương cao hơn giá trị các nguồn lực đang hạn chế
và khan hiếm, góp phần nâng cao năng suất lao động, đưa thu nhập bình quân tăng nhanh. Là công
cụ quan trọng giúp nước ta trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030, và có thu nhập
cao vào năm 2045, chào mừng kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, thành lập nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa. (ii) EU là thị trường quan trọng của Việt Nam, hiện lớn thứ 2 về xuất khẩu, thứ 3 về đối tác
thương mại, đứng đầu về xuất siêu, có sự bổ sung cao, dễ phát huy sự khác biệt địa lý. Hứa hẹn cung
cấp nhiều công nghệ nguồn, phân tán rủi ro thị trường, hỗ trợ “thốt Trung”, thu về nhiều lợi ích từ
lợi thế bền vững, nên cần phát triển hội nhập sâu rộng và lâu dài.
Bảng 5. Thuế nhập khẩu 6 loại trái cây trước và sau khi EVFTA có hiệu lực
Thuế suất ưu đãi
(MFN) trung bình EU
áp dụng

Thuế suất ưu đãi phổ cập
(GSP) của EU

Thuế suất trung
bình khi EVFTA có
hiệu lực

Chuối tươi hoặc khô


16%

12,5%

0%

Dứa tươi hoặc khô

5,8%

2,3%

0%

Chanh tươi hoặc khô

12,8%

8,9%

0%

Dưa hấu tươi

8,8%

5,3%

0%


Mít, vải, chanh leo tươi...

8,8%

5,3%

0%

Trái cây đơng lạnh khác

8,22%

6,93%

0%

Tên hàng hóa

Tổng hợp từ EVFTA

(iii) EVFTA tác động mạnh lên thương mại đầu tư, giúp gỡ bỏ hạng mục thuế quan, tăng cường
xuất khẩu, thúc đẩy thương mại nội khối; thúc đẩy việc hình thành chuỗi cung ứng giữa Việt Nam với
EU là động lực giúp nước ta nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế, trở thành địa điểm đầu tư hấp dẫn
nhất tại khu vực Đông Nam Á cho các đối tác EU. (iv) Dựa vào EVFTA để phát triển doanh nghiệp
càng cần với nước ta, khi đó sẽ là các doanh nghiệp có chuẩn mực cao, khi cần có thể hoạt động trong
mọi FTA khác. Đây cịn là các hạt nhân để các SME nội dựa vào để cùng phát triển theo văn hóa “win
– win”, cùng vươn ra thế giới, góp phần gắn chặt doanh nghiệp Việt vào cộng đồng doanh nghiệp toàn
cầu. (v) Giúp đưa nhiều doanh nghiệp EU đến hoạt động ở Việt Nam, thay thế doanh nghiệp FDI vụ
lợi, nâng cao chất lượng khu vực doanh nghiệp FDI trong hệ thống doanh nghiệp quốc gia. Tạo ra cao

trào khởi nghiệp để hưởng lợi, phát triển doanh nghiệp phụ trợ, đưa doanh nghiệp về hỗ trợ nông
nghiệp, tạo sự phát triển bứt phá cho hệ thống doanh nghiệp, và cho cả nền kinh tế Việt Nam…
34


3.3. Các giải pháp để phát triển nhanh, mạnh, hiệu quả doanh nghiệp, nhằm khai thác tốt
nhất Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu
Một là, xây dựng học thuyết phát triển riêng, đổi mới sâu sắc thể chế, thực thi chính sách sát thực,
làm định hướng cơ bản và tạo khuôn nền để doanh nghiệp Việt có điều kiện hình thành và phát triển
tốt, đủ sức cạnh tranh với doanh nghiệp của đối tác trong các FTA.
Hệ thống doanh nghiệp đã trở thành trung tâm của nền kinh tế, vì thế muốn doanh nghiệp phát
triển tốt, thì trước hết nền kinh tế cần phát triển tốt, và để tốt, cần có học thuyết phát triển riêng. Lịch sử
đã từng chứng kiến: nước Mỹ từ thuộc địa trở thành siêu cường, Nhật Bản bại trận thành “Thần kỳ kinh
tế”, “làng chài” Singapore trở thành đầu tàu của ASEAN, Hàn Quốc từng sống nhờ tiền của lính đánh
thuê lập nên “Kỳ tích”. Và gần đây, kỳ tích “khởi nghiệp” của Israel, Trung Quốc hùng cường nhờ Cải
cách 1979, sự hồi sinh kỳ diệu của Nga… đều chỉ có khi có con đường phát triển riêng phù hợp. Do đó,
để “sánh vai với các cường quốc” như ước vọng của Hồ Chủ tịch, Việt Nam không thể cứ loay hoay
trong cách thức đã làm ra sự tụt hậu hiện nay, cần chấp nhận “phá hủy sáng tạo”, làm “cuộc Đổi mới
lần hai”. Ít nhất là phải có học thuyết phát triển mới và riêng, không vay mượn, mô phỏng, cơi nới, mà
cần đột phá trên cơ sở kinh tế vững chắc, hợp lịng dân, được đơng dân ủng hộ. Trong đó, cần dung hịa
tinh hoa: hướng về xuất khẩu của các nước Đông Á, bất chấp “mèo trắng, mèo đen” và khai thác nhu
cầu của Trung Quốc, phát huy vốn con người của Singapore, tạo sức bật toàn quốc bằng khởi nghiệp
của Israel… Mặt khác, đổi mới sâu sắc thể chế để rộng đường cho học thuyết mới đi vào cuộc sống,
không để kỳ vọng xa xôi cản đường phát triển hôm nay, để “tư duy cứng” trói gơ sự sáng tạo. Khơng
giữ viên chức dưới chuẩn vì tình nghĩa thiển cận mà làm “rầu” đất nước, phải coi cán bộ thối hóa là kẻ
thù thuộc nhóm “giặc nội xâm”, coi trọng hiệu quả kinh tế không kém việc “không chệch hướng, đổi
màu”. Loại bỏ các ưu việt hão huyền, thực thi chính sách sát thực, khơng để nguồn lực phát triển đã
nhỏ, hẹp, lại bị băm nát, các nỗ lực hỗ trợ “mất hút” theo dàn trải. Đồng thời, nâng cấp lợi thế nông
nghiệp bằng chuyển sang tổ chức kinh tế theo vùng (Lê Quốc Ạnh và Lê Thị Trâm Anh, 2019), cởi trói
tồn diện để giải phóng tiềm lực, “doanh nghiệp hóa” các chủ thể để khuếch trương giá trị nguồn lực

(Lê Quốc Ạnh và cs, 2018)… Cộng với việc nâng cấp dần các “vùng lõm, thấp” trong năng lực cạnh
tranh, để doanh nghiệp Việt được định hướng và có khn nền tốt, dễ hình thành và phát triển, có năng
lực cạnh tranh đáng nể trước doanh nghiệp của đối tác trong các FTA.
Hình 6. Chênh lệch về năng lực cạnh tranh giữa Việt Nam với Đức và Pháp, năm 2019
Thể chế
100
Năng lực đổi mới sáng tạo
80
Tính năng động của
60
doanh nghiệp
40
20
Quy mơ thị trường
0

Cơ sở hạ tầng
Tiếp cận công nghệ thông
tin
Ổn định kinh tế vĩ mơ

Hệ thống tài chính

Sức khỏe

Thị trường lao động

Kỹ năng

Thị trường hàng hóa


CHLB Đức
Pháp
Việt Nam
Nguồn: WEF

Hai là, có bộ phận chuyên trách về khai thác từng FTA, và tổng hợp các FTA, nhằm đưa nhiều và
hiệu quả các lợi thế của đất nước vào hội nhập kinh tế, hạn chế tác động tiêu cực, chuyển đổi doanh
nghiệp yếu thế, hướng tới hình thành hệ thống doanh nghiệp hội nhập.
35


Phát triển doanh nghiệp và khai thác EVFTA dù cấp thiết, song chỉ là hai trong các nhiệm vụ hàng
đầu Việt Nam cần làm, nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế. Các doanh nghiệp được phát triển dù dưới tác
động, nhưng đâu phải là của riêng mình EVFTA, và EVFTA dù quan trọng, cũng chỉ là một phần trong
hoạt động xuất nhập khẩu nói chung. Hơn nữa, trong mỗi quốc gia, mỗi FTA đều có hàng vạn đối
tượng liên quan, mà khơng ít có xung đột lợi ích; ngược lại, mỗi sản phẩm, doanh nghiệp đều có thể
tham gia vào nhiều FTA và thu về lượng lợi ích khác nhau. Vì thế, khai thác sâu từng FTA là tốt,
nhưng khai thác hiệu quả tất cả FTA càng tốt hơn, đặc biệt vừa khai thác được mọi FTA, vừa mang về
nhiều lợi ích tồn cục và lâu dài, mới là tốt nhất. Do đó, cần có bộ phận chuyên trách, tổ chức, điều
phối, để “thu gom” mọi lợi thế có thể đưa vào xuất khẩu, thực hiện “phi thương bất phú” ở cấp quốc
gia. Tổng hợp hạn ngạch để phân bổ hợp lý cho các vùng, cho từng doanh nghiệp, phối hợp để có nhiều
sản phẩm đáp ứng được quy tắc xuất xứ, nhằm mang về hiệu quả cao và bền vững cho đất nước.
Mặt khác, tổ chức tốt việc làm giảm nhẹ tác động tiêu cực từ các FTA, bên việc cởi trói và hỗ trợ
của Chính phủ, cần có các giải pháp riêng, tương ứng phù hợp với từng doanh nghiệp. Như cần sự hỗ
trợ của hiệp hội, sự giúp sức của giới khoa học, xã hội, cộng đồng, với hướng chung là giúp doanh nghiệp
bị tác động tăng thêm độ thích nghi. Có năng lực cạnh tranh cao hơn, chuyển sang tham gia vào FTA
có cam kết thấp hơn, hoặc chuyển về phục vụ nhu cầu trong nước… Từ đó ảnh hưởng đến từng doanh
nghiệp, từng cộng đồng doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu, cũng như đến các doanh
nghiệp, cộng đồng có liên quan khác. Như vậy, với các bộ phận chuyên trách xứng tầm, các vấn đề liên

quan tới doanh nghiệp ở cả tầm vĩ mô, lẫn vi mô đều được điều chỉnh, giúp hình thành hệ thống doanh
nghiệp hội nhập và hiệu quả. Nguyên lý này là cần khi khai thác từng FTA, càng cần hơn khi khai thác
EVFTA, nơi có cam kết rộng và cao, có ảnh hưởng lớn và nhiều mặt đến doanh nghiệp Việt Nam.
Hình 7. Quy trình điều chỉnh doanh nghiệp và xuất khẩu theo các FTA
Hạn ngạch từ mỗi FTA
và lượng sản phẩm đáp
ứng được quy tắc xuất xứ

Lợi thế
về sản xuất một loại
sản phẩm xuất khẩu

Cơ quan
chuyên trách

Tập trung

Phân bố
các vùng sản
xuất tập trung

Tổng lợi thế
về sản xuất một
loại sản phẩm xuất
khẩu

Hiệp hội
ngành, hàng

Quy hoạch,

sản xuất

Quy mô
doanh nghiệp,
hợp tác xã, trang
trại

Xuất khẩu
phân bổ sản phẩm
cho từng FTA theo
mức sinh lời

Ba là, khai thác tác động từ EVFTA để phát triển các thương hiệu quốc gia, các doanh nghiệp hỗ
trợ, tiến tới hình thành các chuỗi cung ứng, đồng thời phát triển tổng hợp các doanh nghiệp theo đặc
thù, đưa khu vực doanh nghiệp nội từng bước tiến lên tầm cao mới.
Từ tháng 8 năm 2020, nước ta bước thêm một bước vào sự lựa chọn “sinh – tử” (Nguyễn Đức
Kiên, dẫn theo Tư Giang, 2014), khắc nghiệt hơn, với trách nhiệm là khai thác thành công EVFTA.
“Luật chơi” đã định, tiền đề sẽ có – khi hai giải pháp mang tính vĩ mơ, bao trùm trình bày ở trên, được
vận dụng; hy vọng thành công sẽ tăng, khi nâng cấp được sức mạnh cho “người chơi chính” và tăng
được “lực lượng người chơi”. Đó là doanh nghiệp, nhưng phải là doanh nghiệp nội, bởi không nước
nào mãi thành cơng khi dựa vào doanh nghiệp FDI, đó chỉ là bước đệm, tạm thời. Do đó, trong cuộc
chơi EVFTA, nước ta cần: (i) Lựa chọn các mặt hàng mạnh trong tốp mặt hàng chính đang xuất khẩu
(bảng 3), do cùng một doanh nghiệp hoặc một vùng sản xuất, có tiềm lực phát triển lâu dài, để đầu tư
mở rộng, thành thương hiệu quốc gia. Lấy đó làm cơ sở phát triển, mở rộng quy mô cho các doanh
nghiệp đang sản xuất, phát triển các doanh nghiệp hỗ trợ, để tham gia lâu dài vào chuỗi cung ứng cho
EU. (ii) Dựa vào cam kết mở cửa, để phát triển các doanh nghiệp sản xuất tập trung, mở đường cho
36


việc phát triển các thương hiệu quốc gia tiềm năng khác, nhất là về hàng nông, lâm, thủy sản. Chú

trọng đặc biệt đến các mặt hàng đặc sản – như cà phê, mật ong tự nhiên, rau hoa quả... được EU khuyến
khích xuất sang khi khơng cần hạn ngạch, mà lại xóa bỏ ngay và hồn tồn thuế.
Mặt khác, phát triển tổng hợp các doanh nghiệp theo đặc thù, như tận dụng lao động giá rẻ, thay
thế doanh nghiệp EU trong phân khúc hàng hóa dành cho người thu nhập thấp, vận dụng công nghệ 4.0
cho nước đi sau... Ứng xử khôn ngoan với doanh nghiệp bị tổn hại, nhất là doanh nghiệp bị tổn hại vì
nhượng bộ của Chính phủ, phát triển doanh nghiệp ở các khu vực còn chậm phát triển, đưa khu vực
doanh nghiệp nội từng bước tiến lên tầm cao mới.
Bảng 6. Cam kết mở cửa cho 5 mặt hàng nông sản Việt qua EVFTA
Mặt hàng

Hạn ngạch và cam kết về thuế

Đặc sản

Cà phê, mật ong tự nhiên, rau hoa quả... xóa bỏ ngay và hồn tồn thuế

Gạo

80.000 tấn các loại – xóa hồn tồn thuế xuất nhập khẩu sau 3–5 năm

Tinh bột sắn

30.000 tấn

Đường

10.000 tấn đường trắng và 10.000 tấn sản phẩm trên 80% là đường

Ngô ngọt


5.000 tấn
Nguồn: Tổng hợp từ EVFTA

Bốn là, thu hút khôn ngoan các dự án FDI từ EU, cùng các doanh nghiệp FDI có liên quan, nhằm
đưa khu vực FDI ở nước ta phát triển nhanh mạnh, tích cực, hiệu quả, đóng góp nhiều vào tăng
trưởng, cũng như vào nâng cao chất lượng tăng trưởng của Việt Nam.
Việt Nam đang là địa điểm đầu tư hấp dẫn nhất tại AEC, khi có xu thế dịch chuyển chuỗi cung ứng
ra khỏi Trung Quốc, và dấu ấn chống dịch Covid–19, cho phép sàng lọc, thu hút FDI khôn ngoan. Để
thu hút FDI từ EU, nước ta cần: (i) Ưu tiên cho việc thu hút các doanh nghiệp đang cung cấp các mặt
hàng chính nhập khẩu từ EU28 (bảng 3), để nội hóa việc sản xuất chúng. (ii) Dựa vào vị thế của các
mặt hàng nơng sản chính, kêu gọi FDI từ EU, dựa vào CMCN 4.0 biến chúng thành thương hiệu toàn
cầu, định vị Việt Nam trên thương trường toàn cầu.
Bảng 7. Năm mặt hàng nơng sản xuất khẩu có vị thế cao của Việt Nam năm 2017
Về khối lượng

Tên hàng

Về giá trị

Nghìn tấn

Vị trí trên thế giới

Triệu USD

Vị trí trên thế giới

Hồ tiêu

217,52


2

1.130,96

1

Điều

409,93

5

3.482,61

1

Cà phê

1.466,20

2

3.101,43

2

Gạo

5820,51


3

2.634,59

3

..

..

6.167,44

5

Các loại quả

Nguồn: UNCOMTRADE, 2019

Bên cạnh đó, cịn có thể thu hút nguồn FDI từ EU, để thay thế dần các doanh nghiệp FDI đến từ
nơi khác có chất lượng thấp hơn, hoặc để có hàm lượng cơng nghệ cao hơn. Có thể thu hút các dự án
FDI từ ngoài EU, đến nước ta để mượn đường sang EU, hoặc để cùng doanh nghiệp FDI từ EU đến
hợp tác tạo thành các sản phẩm quốc tế… Tuy nhiên, chỉ nên thu nhận FDI từ EU, nếu có tác động
ngoại ứng tốt hơn FDI đến từ nơi khác, tôn trọng sự cạnh tranh giữa chúng với doanh nghiệp nội. Đồng
thời, cần tính tốn để doanh nghiệp FDI khơng chèn ép doanh nghiệp nội, ưu tiên cho doanh nghiệp
FDI nhận các SME làm vệ tinh, để cùng tham gia vào chuỗi cung ứng. Thay đổi cách thức ưu đãi cho
FDI, chuyển từ dàn đều, cào bằng sang có trọng tâm, trọng điểm, theo khả năng đóng góp và mức
37



ngoại ứng tích cực, với nhiều mức và loại ưu đãi khác nhau. Cho phép doanh nghiệp FDI chuyển đổi,
nhượng quyền thương hiệu, nhưng phải tôn trọng cam kết chuyển giao, thời hạn hoạt động, phát triển
quan hệ với sản phẩm chiến lược. Ngồi ra, nếu có sự tranh chấp giữa các FDI cùng tới từ EU, cần xét
tới lộ trình, mức ảnh hưởng tồn cục và lâu dài, và tiềm năng mở rộng, để lợi ích cuối cùng mang về
cho Việt Nam là lớn nhất. Từ đó, đưa khu vực FDI ở nước ta phát triển nhanh mạnh, tích cực, hiệu quả,
đóng góp nhiều vào phát triển của hệ thống doanh nghiệp, cũng như vào tăng trưởng và nâng cao chất
lượng tăng trưởng của nước ta.
4. THAY LỜI KẾT LUẬN
Năm 2019 là năm thế giới có nhiều biến động phức tạp, đa chiều và khó đốn định, thị trường tài
chính bất ổn, thương mại tồn cầu ảm đạm, khiến tốc độ tăng trưởng tại các nền kinh tế phát triển
chững lại, tại các nền kinh tế đang phát triển sụt giảm. Nhưng ở Việt Nam, thì trái ngược với xu thế “về
đáy” như nhiều chu kỳ trước, tăng trưởng kinh tế vẫn đạt 7,02%, vượt mục tiêu đề ra, thuộc nhóm cao
hàng đầu thế giới. Thành quả trên do nhiều nguyên nhân, nổi bật là quy mô xuất khẩu tăng trưởng cao
và khu vực doanh nghiệp phát triển mạnh – trở thành những động lực tăng trưởng chính. Vì thế, dù tình
hình năm 2020 là cực kỳ khó khăn khi dịch Covid–19 bùng phát mạnh, khiến thương mại toàn cầu tiếp
tục suy giảm, chuỗi cung ứng bị gián đoạn, đẩy kinh tế tồn cầu rơi vào suy thối… Song, Việt Nam
vẫn khác, thực tiễn cho thấy sẽ đạt mục tiêu kép, là “điểm sáng” lớn về tăng trưởng, bệ đỡ cho hy vọng
này là EVFTA có hiệu lực từ tháng 8, và nhờ đó, khu vực doanh nghiệp sẽ tiếp tục phát triển. Tuy
nhiên, để tăng trưởng này trở nên bền vững, tạo nên sự tương hỗ giữa tăng trao đổi thương mại với phát
triển của khu vực doanh nghiệp, và nhất là để mang về lợi ích nhiều hơn cho Việt Nam – thì khơng dễ.
Bởi, nguồn “thực” từ nước ta là các mặt hàng nông, thủy sản xuất khẩu cịn gặp nhiều khó khăn trong
tiếp cận thị trường EU có yêu cầu cao về chất lượng và an toàn thực phẩm. Các hạn chế, như sản xuất
nhỏ, phân tán chưa được khắc phục nhiều, sản xuất nông nghiệp chưa bắt kịp trào lưu sản xuất xanh
sạch, sản xuất hữu cơ, chưa thực hiện nghiêm túc hệ thống tiêu chuẩn cho nông sản. Khu vực doanh
nghiệp FDI vẫn chiếm ưu thế áp đảo trong xuất khẩu sang EU, trong lúc các doanh nghiệp nội vẫn còn
nhiều yếu kém về quy mơ, trình độ, kinh doanh… Song, với quyết tâm đổi mới của Đảng, nỗ lực cải
cách, chuyển sang kiến tạo của Chính phủ, những bài học rút ra từ thực tiễn, cùng sự chung sức của các
hiệp hội, tồn dân. Chúng ta có quyền tin rằng: Việt Nam sẽ khai thác tốt ảnh hưởng từ EVFTA, để
phát triển phù hợp, khoa học hệ thống doanh nghiệp quốc gia. Từ đó tạo ra các tác động tương hỗ, vừa
giúp khai thác tốt hơn EVFTA, vừa phát triển nhanh, mạnh và hiệu quả doanh nghiệp, góp phần tạo ra

tăng trưởng cao và nâng cao chất lượng tăng trưởng cho nước ta.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Lê Quốc Anh và Lê Thị Trâm Anh (2018a), Economic development in lower middle–income countries
in this day and age, through practical study in Vietnam, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế: Các vấn đề đương đại
trong Kinh tế, Quản trị và Kinh doanh (1st CIEMB 2018), NXB Đại học KTQD, 1029–1047.

2.

Nguyễn Thị Minh Nhàn (2014), Lĩnh vực lao động trong hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên
Thái Bình Dương (TPP) và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam, Tạp chí Khoa học Thưong mại, Hà
Nội, số 66 tháng 2/1014, 15–24.

3.

Lê Quốc Anh (2017), Các FTA thế hệ mới với vấn đề phát triển công nghiệp Việt Nam, Kỷ yếu Hội
thảo Quốc tế: Phát triển kinh tế Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế, NXB Hà Nội, tập 1, 398–410.

4.

Lê Quốc Anh & Lê Thị Trâm Anh (2018b), Các FTA thế hệ mới với vấn đề phát triển doanh nghiệp
Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế về: Thương mại và phân phối – CODI 2018, NXB Nông nghiệp,
1028–1038.

5.

Nhất Thanh (2020), EVFTA: Cộng hưởng xung lực mới cho nền kinh tế, truy cập ngày 02/9/2020, từ:
/>
38



6.

Lê Quốc Anh & Lê Thị Trâm Anh (2018c), Phát triển và kinh doanh bền vững của doanh nghiệp vừa
trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế: Kinh doanh bền vững
trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, 394–409.

7.

Nguyễn Minh Tri (2015), Rùng mình những nạn đói khủng khiếp nhất lịch sử lồi người, truy cập
ngày 02 tháng 9 năm 2020, từ />nhat–lich–su–loai–nguoi/576629d9f1.

8.

Ngô Hiểu Ba (2010), Đột phá kinh tế ở Trung Quốc (1978–2008), bản dịch của Nguyễn Thị Thu
Hằng, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh.

9.

Thomas L. Friedman (2006), Thế giới phẳng, bản dịch của nhóm Nguyễn Quang A và các cộng sự,
NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh.

10.

Daron Acemoglu và Jame A. Robinson (2013), Tại sao các quốc gia thất bại, bản dịch của Nguyễn
Thị Kim Chi, NXB Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.

11.


Lê Quốc Anh & Lê Thị Trâm Anh (2019), Breakthrough in the Development of Vietnamese Business
in Order to Grow Rapidly and Sustainably, European Journal of Business and Management, Tập 11,
Số 9 (2019), 158–175.

12.

Lê Đăng Doanh (2016), Kinh tế Việt Nam sau ba mươi năm đổi mới: Cần một cuộc đổi mới lần thứ
2, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế: Việt Nam 30 năm Đổi mới: Thành tựu, bài học và triển vọng, NXB
Hồng Đức, 26–40.

13.

Lê Dỗn Hồn (2014), Hội nhập càng sâu: DNNN càng ‘run’? Truy cập ngày 02 tháng 9 năm 2020,
từ nghiệpnn–cang–run–169836.html.

14.

Nguyễn Hồi (2016), Ơng Võ Trí Thành: Doanh nghiệp đang rơi vào xu hướng li ti hóa, truy cập
ngày 02 tháng 9 năm 2020, từ />huong–li–ti–hoa–post192346.info.

15.

Đặng Phong (2012), Tư duy kinh tế Việt Nam 1975–1989, NXB Tri thức, Hà Nội.

16.

Todd G. Buchholz (2008), Ý tưởng mới từ các kinh tế gia tiền bối, bản dịch của Phạm Hồng Bắc và
Bùi Ngọc Sơn, NXB Tri thức, Hà Nội.

17.


Bích Ngọc (2014), Nhiều nước châu Phi có chính sách cơng nghiệp tốt hơn VN, truy cập ngày 02
tháng 9 năm 2020, từ: />sach–cong–nghiep–tot–hon–vn–3218723/.

18.

Lưu Ngọc Trịnh (2012), MHTT kinh tế Việt Nam hiện nay, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam –
10/2012, 38–45.

19.

Thụy Khanh (2018), PGS. TS Nguyễn Đức Thành: Việt Nam nên phá gía tiền đồng từ 2–3%, truy cập
ngày 02 tháng 9 năm 2020, từ />pha–gia–tien–dong–tu–2–3–20180504224209689.htm.

20.

Lê Quốc Anh, Nguyễn Ngọc Lan và Lê Thị Trâm Anh (2019), Chuỗi cung ứng cho doanh nghiệp nhỏ
và vừa ở Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế: Phát triển
doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, NXB Đại học Tài
chính – Quản trị kinh doanh, Hà Nội, 42–431.

21.

Lê Quốc Anh, Phạm Thùy Nguyên & Lê Thị Trâm Anh (2018), Phát triển doanh nghiệp ở Việt Nam:
Thực trạng và giải pháp, Tạp chí Quản lý Kinh tế của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương,
số 89 tháng 7+8/2018, 36–44.

22.

Tư Giang (2015), Chúng ta chỉ còn hai lựa chọn, mở cửa hay là chết, truy cập ngày 02 tháng 9 năm

2020, từ />33128.html.

39



×