Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu mặt hàng dệt may của Việt Nam khi Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU đc ký kết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.9 KB, 65 trang )

Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Quang Minh
MỤC LỤC
Trang
Trang 1
Principal Component Aalysis 2
LỜI MỞ ĐẦU 1
1.Tính cấp thiết của đề tài 1
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 62
Sinh viên: Đỗ Hà Vân Lớp: TC28D
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Quang Minh
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT Chữ viết tắt
Nghĩa đầy đủ
Tiếng Anh Tiếng Việt
1 EC European Committee Uỷ ban châu Âu
3 EU European Union Liên minh châu Âu
4 KNXK Kim ngạch xuất khẩu
5 WTO World Trade Orgnization Tổ chức thương mại thế giới
6 FTA Free Trade Agreement Hiệp định thương mại tự do
7 ILO
International Labor
Organization
Tổ chức Lao động Quôc tế
8 ASEAN
Asociatioon of Souht – East
Asian Nations
Hiệp hội các nước Đông Nam
Á
9 GATT
General Agreement on Tariff
anh trade


Hiệp định chung về thuế quan
và thương mại
10 RTA Regional trade agreements
Hiệp định Thương mại Khu
vực
11 TBT
Agreement on Technical
Barriers to Trade
Hàng rào kỹ thuật thương mại
12 SPS
Sanitary and Phytosanitary
Measures
vệ sinh dịch tễ
13 TPP
Trans-Pacific Strategic
Economic Partnership
Agreement
Hiệp định đối tác chiến lược
xuyên Thái Bình Dương
15 PCA
Principal Component
Aalysis
Hiệp định Hợp tác toàn diện
Sinh viên: Đỗ Hà Vân Lớp: TC28D
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Quang Minh
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH
BẢNG:
Trang 1
Principal Component Aalysis 2
LỜI MỞ ĐẦU 1

1.Tính cấp thiết của đề tài 1
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 62
Sinh viên: Đỗ Hà Vân Lớp: TC28D
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Quang Minh
LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 20 năm đổi mới, cải cách, mở cửa phát triển nền kinh tế theo cơ chế
định hướng xã hội chủ nghĩa, ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đã trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn hướng ra xuất khẩu và ngày càng khẳng định vai trò không
thể thiếu trong đời sống kinh tế - xã hội. Trước xu thế hội nhập của nền kinh tế khu
vực và thế giới, dệt may Việt Nam càng đứng trước nhiều cơ hội và thách thức lớn.
Với những quy định của Hiệp định Thương mại về hàng dệt và may mặc đối với các
thành viên của WTO và những cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO đối với
ngành dệt may có tác động trực tiếp tới ngành dệt may Việt Nam. Ngành dệt may
đang đứng trước vận hội mới, thâm nhập và phát triển thị trường mới, giữ vững thị
trường truyền thống là vấn đề được đặt ra hiện nay.
EU là thị trường tiêu thụ hàng dệt may lớn nhất thế giới đồng thời cũng là bạn
hàng truyền thống của dệt may xuất khẩu Việt Nam. Nhưng trong thời gian qua,
kim ngạch xuất khẩu dệt may sang EU còn rất khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm
năng phát triển ngành dệt may của Việt Nam cũng như nhu cầu tiêu thụ của EU.
Chính vì vậy, vấn đề đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU trong
thời gian tới là hết sức thiết thực.
Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU có hiệu lực, hàng hóa xuất khẩu
sang EU sẽ được hưởng ưu đãi về cắt giảm các loại thuế quan đó là điều kiện thuận
lợi cho hàng dệt may Việt Nam phát triển, nâng cao lợi thế cạnh tranh, mở rộng thị
trường … nhưng đi kèm với cơ hội là những thách thức không nhỏ đối với việc xuất
khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU. Đó là những vấn đề cấp bách đòi
hỏi chúng ta phải xem xét kỹ lưỡng những cơ hội và thách thức của hàng dệt may
Việt Nam khi xâm nhập vào thị trường EU mà Hiệp định Thương mại tự do Việt
Nam – EU mang lại. Xuất phát từ lý do đó, em xin chọn đề tài “Cơ hội và thách

thức đối với xuất khẩu mặt hàng dệt may của Việt Nam khi Hiệp định thương
mại tự do Việt Nam – EU đc ký kết” để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu về Hiệp định Thương mại tụ do Việt Nam – EU, tình hình xuất khẩu
hàng dệt may Việt Nam, để phân tích những cơ hội và thách thức của xuất khẩu
Sinh viên: Đỗ Hà Vân Lớp: TC28D
1
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Quang Minh
mặt hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường EU khi Hiệp định thương mại tự do
Việt Nam – EU được ký kết, từ đó đưa ra một số giải pháp để thúc đẩy hoạt động
xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường EU.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu mặt hàng dệt
may của Việt Nam
* Phạm vi nghiên cứu
- không gian: Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu mặt hàng dệt may của
Việt Nam khi Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU đc ký kết
- Thời gian: nghiên cứu hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị
trường EU trong giai đoạn 2000 – 2009.
4. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận chuyên đề được chia làm 3 phần:
Chương I: Tổng quan về Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU và giới
thiệu về thị trường dệt may EU
Chương II: Cơ hội thách thức đối với xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam khi
Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU được ký kết
Chương III: Giải pháp thúc đẩy hàng dệt may của Việt Nam sang EU khi Hiệp
định Thương mại tự do Việt Nam – EU được ký kết.
Sinh viên: Đỗ Hà Vân Lớp: TC28D
2
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Quang Minh

CHƯƠNG I : TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO
VIỆT NAM - EU VÀ GIỚI THIỆU VỀ THỊ TRƯỜNG DỆT MAY EU
1.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về Hiệp định thương mại tự do
1.1.1. Khái niệm
Để có được cái nhìn toàn diện về khái niệm Hiệp định Thương mại tự do
(FTA), cần bắt đầu từ Hiệp định Thương mại Khu vực (RTA). Hiệp định Thương
mại Khu vực (RTA) là thuật ngữ đã được khung khổ GATT/WTO thống nhất
dùng để chỉ các thoả thuận tự do hoá thương mại giữa các thành viên của
GATT/WTO trên nguyên tắc có đi có lại trong phạm vi điều chỉnh các điều
khoản như Điều khoản XXIV/GATT , Điều khoản V/GATT và Điều khoản cho
phép (Enabling Clause 1979). Theo đó, khái niệm RTA của GATT/WTO là
dùng để chỉ hai hình thức hội nhập kinh tế là Khu vực thương mại tự do (Free
Trade Area) và Liên minh thuế quan (Custom Union – CU).
Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch (GATT) tại điều XXIV điểm 8b
ghi rõ: Một khu vực thương mại tự do được hiểu là một nhóm gồm hai hay nhiều
các lãnh thổ thuế quan, trong đó, thuế và các quy định mang tính hạn chế về
thương mại (ngoại trừ, trong chừng mực cần thiết, các hạn chế được phép theo
quy định của các điều XI, XII, XIII, XIV, XV và XX) sẽ bị dỡ bỏ đối với phần
lớn các sản phẩm có xuất xứ từ các lãnh thổ đó và được trao đổi thương mại giữa
các lãnh thổ lập thành khu vực mậu dịch tự do. Xét từ góc độ pháp lý, Hiệp định
thương mại tự do (FTA) là dạng hiệp định quá độ làm cơ sở pháp lý cho việc
hình thành một Khu vực thương mại tự do hoặc một Liên minh thuế quan sau
mootk khoảng thời gian nhất định .
Hội nhập kinh tế khu vực được trải qua nhiều cấp độ , FTA là bước đầu tiên
trong đó thuế quan và các rào cản phi thuế quan (NTBs) được loại bỏ đối với
hàng nhập khẩu trong nội bộ khu vực, nhưng chính mỗi thành viên vẫn duy trì
rào cản thương mại đối ngoại của mình. FTA truyền thống được hiểu là: “Một
nhóm hai hoặc nhiều nước cùng nhau loại bỏ thuế quan và hầu hết các rào cản phi
thuế quan gây tác động đến thương mại giữa các nước, trong khi đó mỗi nước vẫn
áp dụng lộ trình thuế quan độc lập của riêng mình đối với hàng hoá nhập khẩu từ

Sinh viên: Đỗ Hà Vân Lớp: TC28D
3
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Quang Minh
nước không phải là thành viên” (Ralph 2003, tr.19). Bước thứ hai của hội nhập
kinh tế khu vực là xây dựng Liên minh Hải quan (viết tắt là CU) - vốn được coi là
“FTA+” với thuế quan đối ngoại chung. Bước thứ ba là xây dựng thị trường chung
(viết tắt là CM) bao gồm sự tự do dịch chuyển vốn và lao động. Bước thứ tư là
xây dựng liên minh tiền tệ và kinh tế (viết tắt là “EMU”) bao gồm sự tự do dịch
chuyển tất cả các yếu tố kinh tế như hàng hoá, dịch vụ, lao động và vốn
(Surya.P.Subedi 2012, tr757-758).
Kể từ thập kỷ 1990 tới nay, khái niệm Hiệp định thương mại tự do đã mở rộng
hơn về phạm vi và sâu hơn về cam kết tự do hoá. Vì vậy, các học giả thường gọi các
Hiệp định thương mại tự do hiện nay là các FTA “thế hệ mới”. Không chỉ dừng lại
ở cam kết giảm thuế quan, nó còn đề ra các quy định ngày càng phức tạp nhằm điều
chỉnh thương mại nội ngành (ví dụ liên quan đến tiêu chuẩn sản phẩm, các điều
khoản về tự vệ, quản lý hải quan…) và cũng đề ra khuôn khổ quy định ưu đãi đối
với thương mại dịch vụ. Các FTA hiện đại đã vượt ra khỏi cơ chế chính sách
thương mại truyền thống, nó bao gồm các quy định khu vực điều chỉnh đầu tư, cạnh
tranh, thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, cơ chế giải quyết tranh chấp, lao
động, môi trường…Điều này chứng tỏ rằng khái niệm cổ điển về một thoả thuận hội
nhập khu vực và song phương có cấp độ liên kết “nông” của Hiệp định thương mại
tự do từ trước thập kỷ 1990 đã không còn phù hợp với bối cảnh hiện nay. Thay vào
đó, Hiệp định thương mại tự do đã được chuyển sang dùng để chỉ các thoả thuận
hội nhập kinh tế “sâu” giữa hai hay là một nhóm nước với nhau.
Thêm vào đó, các FTA “truyền thống” được thiết lập thường xuyên giữa các
nước có những điểm tương đồng nhất định về chế độ chính trị, trình độ phát triển,
khu vực địa lý và cơ cấu thị trường. Những hiệp định này được gọi là các FTA “Bắc
- Bắc” (như Cộng đồng kinh tế châu Âu –EEC trước đây), hoặc các FTA “Nam –
Nam” (như AFTA). Ngày nay, các FTA đã hình thành một cách linh hoạt hơn và
chấp nhận sự khác biệt về địa lý và quan điểm chính trị giữa các nước thành viên,

đặc biệt là khi có sự tham gia của “các nền kinh tế mới nổi” (ví dụ: Trung Quốc, Ấn
Độ, Liên bang Nga, Brazil), tạo ra một mạng lưới chằng chịt FTA trong hệ thống
thương mại toàn cầu. Các FTA đã cho thấy những ưu thế vượt trội của mình, trở
thành một xu hướng đang phát triển rất mạnh mẽ trong những năm gần đây.
Sinh viên: Đỗ Hà Vân Lớp: TC28D
4
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Quang Minh
1.1.2. Các nội dung chủ yếu của hiệp định
•Thương mại hàng hoá
Đối với rất nhiều hiệp định FTA, thương mại hàng hoá là lĩnh vực quan tâm
chính của các bên tham gia, tạo nền tảng của hiệp định. Các cam kết về thương mại
hàng hoá sẽ giúp các bên hiện thực hoá mục tiêu chính là mở rộng thị trường, tạo
thuận lợi cho hàng xuất khẩu. Các nội dung chính về thương mại hàng hoá thường
được đề cập trong hiệp định FTA bao gồm:
Thuế quan: Mức độ cắt giảm thuế quan theo hiệp định FTA thường sâu hơn
(đưa thuế suất về 0%), cắt giảm nhanh hơn cam kết trong WTO do các bên chỉ tập
trung vào lĩnh vực có quan tâm. Theo cách hiểu thông thường (không chính thức),
hiệp định FTA sẽ quy định xoá bỏ thuế quan đối với ít nhất 90% giá trị thương mại
và số dòng thuế trong vòng 10 năm. Các dòng thuế không cam kết hoặc có cam kết
nhưng không đưa về 0% thường là các sản phẩm nhạy cảm/đặc biệt nhạy cảm đối
với các bên. Bên cạnh thuế quan, các bên tham gia FTA cũng có thể đưa ra cam kết
về hạn ngạch thuế quan, đặc biệt đối với các sản phẩm nông sản nhạy cảm.
Thuận lợi hoá thương mại: Đây là một nội dung quan trọng trong nhiều hiệp
định FTA. Các lĩnh vực mà các nước thường đẩy mạnh hợp tác trong khuôn khổ
FTA là hải quan, giải phóng hàng, áp dụng thông tin trong thương mại, hàng
chuyển tải, hỗ trợ kỹ thuật…
Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT) và vệ sinh dịch tễ (SPS): Thông
thường, đối với TBT và SPS, các bên tham gia FTA sẽ tái khẳng định cam kết thực
hiện các hiệp định liên quan của WTO. Bên cạnh đó, các bên sẽ đề ra các nguyên
tắc nhằm định hướng cho hoạt động hợp tác trong lĩnh vực ưu tiên như áp dụng

thực tiễn tốt nhất, đánh giá hợp chuẩn, công nhận tương đương…
Các biện pháp tự vệ, chống bán phá giá, chống trợ cấp: Bên cạnh thoả thuận
thực hiện các quy định của WTO, các bên tham gia có thể thống nhất các quy định
về tự vệ đặc biệt, chống bán phá giá, chống trợ cấp trong khuôn khổ hiệp định FTA
•Quy tắc xuất xứ:
Là nội dung quan trọng trong các hiệp định FTA vì chỉ khi đáp ứng các quy
tắc xuất xứ này thì hàng hoá mới được hưởng ưu đãi thuế quan quy định trong hiệp
định. Ngoài ra, quy tắc xuất xứ cũng giúp ngăn chặn việc chuyển hàng hoá nhập
Sinh viên: Đỗ Hà Vân Lớp: TC28D
5
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Quang Minh
khẩu vào lãnh thổ hải quan của thành viên có mức thuế quan thấp để xuất sang các
thành viên khác. Bên cạnh quy tắc xuất xứ chung (thường là hàm lượng giá trị khu
vực), các thành viên cũng thường đàm phán các quy tắc về chuyển đổi nhóm, quy
tắc xuất xứ theo mặt hàng cụ thế.
•Thương mại dịch vụ:
Bên cạnh thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ cũng là nội dung quan
trọng của các hiệp định FTA. Hầu hết các hiệp định FTA đều có chương riêng/hiệp
định riêng về dịch vụ. Nội dung về dịch vụ trong các FTA thường tập trung vào: (i)
lời văn về thương mại dịch vụ, chủ yếu tuân thủ và tăng cường các nguyên tắc chính
của WTO như nguyên tắc đối xử tối huệ quốc, minh bạch hoá, quy định trong nước,
thanh toán và chuyển khoản, tự vệ, trợ cấp…và phụ lục một số ngành dịch vụ cụ thể
(tài chính, viễn thông…) và (ii) biểu cảm cam kết mở cửa thị trường dịch vụ.
•Đầu tư:
Các hiệp định FTA “thế hệ mới” thường có một Chương/Hiệp định riêng về
đầu tư, trong đó quy định tất cả các yếu tố liên quan tới đầu tư như: thuận lợi hoá
đầu tư, khuyến khích và bảo hộ đầu tư, tự do hoá đầu tư.
•Các nội dung mới (FTA plus):
Các hiệp định FTA “thế hệ mới” còn bao gồm các nội dung như mua sắm
chính phủ, sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh, phát triển bền vững.

•Cơ chế giải quyết tranh chấp:
Hầu hết các hiệp định FTA đều có cơ chế giải quyết tranh chấp, trong đó đề ra
quy trình, cơ chế xử lý các tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện hiệp định
cũng như phạm vi áp dụng của cơ chế này.
1.2. Giới thiệu về Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU
1.2.1. Tiến trình đàm phán Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU
Tháng 10/2010, tại buổi lễ ký tắt Hiệp định Hợp tác toàn diện (PCA) giữa Việt
Nam và EU, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Chủ tịch Ủy ban châu Âu
J.M.Barroso đã thống nhất về việc xem xét và chuẩn bị kỹ thuật để có thể sớm khởi
động đàm phán Hiệp định thương mại tự do giữa hai bên. Khả năng thiết lập một
khu vực thương mại với mức độ mở cửa rộng, xoá bỏ các rào cản và tăng cường các
điều kiện cho thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và EU đã chính thức mở ra.
Sinh viên: Đỗ Hà Vân Lớp: TC28D
6
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Quang Minh
Ngày 11/01/2011, trong buổi họp báo đầu năm, Đại sứ Trưởng phái đoàn EU
tại Việt Nam, ông Sean Doyle nhấn mạnh mong muốn của EU có thể bắt đầu đàm
phán FTA với Việt Nam càng nhanh càng tốt.
Ngày 2/03/2011, tại Hội thảo về triển vọng FTA giữa Việt Nam – EU, ông
Jean - Jacques Bouflet, Tham tán thương mại EU tại Việt Nam, tiếp tục khẳng định
EU muốn sớm đàm phán FTA với Việt Nam và rằng quyết định lúc này hoàn toàn
nằm trong tay Việt Nam. EU rõ ràng đang bật đèn xanh, thậm chí sốt sắng, cho một
FTA tương lai với Việt Nam.
Mặc dù lãnh đạo cao cấp của cả hai bên đều mong muốn sớm khởi động đàm
phán FTA này, tháng 10/2012 (đúng 2 năm sau), phiên đàm phán đầu tiên mới diễn
ra tại Hà Nội. Sở dĩ thời gian kéo dài như vậy là vì phía Việt Nam còn e dè, thận
trọng bởi lẽ ký kết một FTA với một đối tác lớn như EU (gồm 27 quốc gia với trên
500 triệu dân) thì chắc chắn sẽ tạo ra những tác động không nhỏ đối với một nền
kinh tế vừa chuyển đổi sang cơ chế thị trường chưa được bao lâu, cơ sở hạ tầng kinh
tế kỹ thuật chưa phát triển, nguồn nhân lực còn nhiều bất cập, năng suất lao động và

khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước còn nhiều hạn chế. Trong khi đó,
Chính phủ Việt Nam đang phải triển khai thực hiện nhiều cam kết mở cửa thị
trường trong khuôn khổ 7 FTA mà Việt Nam đã ký và đang có hiệu lực cùng với
việc phải đầu tư nhiều nguồn lực cho đàm phán Hiệp định đối tác quan trọng như
Hiệp định đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), và khả năng đàm phán
FTA với Chilê, Hàn Quốc…mà Việt Nam đang phải xem xét.
Hai bên dự kiến sẽ có bốn vòng đàm phán trong năm 2013 và kết thúc đàm
phán vào cuối năm 2014.
1.2.2. Định hình Hiệp định khung đàm phán
1.2.2.1. Phạm vi điều chỉnh
Về phạm vi, các FTA trong giai đoạn gần đây của EU tập trung vào việc điều
chỉnh các nội dung cơ bản sau đây:
•Thương mại hàng hóa, trong đó tập trung vào các vấn đề:
- Cam kết cắt giảm thuế quan
- Các biện pháp phi thuế quan (Phòng vệ thương mại, Hàng rào kĩ thuật TBT,
biện pháp vệ sinh dịch tễ SPS)
Sinh viên: Đỗ Hà Vân Lớp: TC28D
7
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Quang Minh
- Các biện pháp thuận lợi hóa thương mại và hải quan
•Thương mại dịch vụ và đầu tư
•Thanh toán và di chuyển vốn
•Mua sắm công
•Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
•Cạnh tranh
•Minh bạch hóa
•Phát triển bền vững
•Giải quyết tranh chấp
Nhìn vào phạm vi các vấn đề được đề cập trong các FTA của EU, có thể thấy
hướng đi của khối này có điểm đặc thù so với thế giới. Cụ thể, mặc dù vẫn đi

theo xu hướng chung của thế giới trong việc ký kết các FTA, các FTA giai đoạn
trước của EU mang dấu ấn mạnh mẽ của những yếu tố xã hội và mục tiêu "xuất
khẩu giá trị của EU" của khối này, trong khi các FTA gần đây của khối lại hướng sự
quan tâm nhiều hơn đến các vấn đề về mở cửa thị trường và tự do hóa.
Tuy nhiên, xét từ góc độ kinh tế và mức độ tham vọng trong tự do hóa thương
mại, phạm vi FTA của EU này nhìn chung không khác nhiều lắm so với các FTA mà
Việt Nam đã hoặc đang đàm phán (ví dụ TPP). Vì vậy, FTA này mặc dù rất lớn về số
lượng đối tác (EU với tính chất là một khối thuế quan thương mại thống nhất của 27
nước thành viên EU) cũng không đặt ra những thách thức cho Việt Nam lớn hơn
những FTA mà Việt Nam có thể đàm phán ký kết hiện tại và trong tương lai gần.
1.2.2.2. Về nội dung và mức độ cam kết
Nội dung cụ thể của mỗi FTA phụ thuộc vào kết quả đàm phán cụ thể giữa các
bên liên quan. Tuy vậy, những vấn đề cơ bản và mức độ tự do hoá của các FTA
thường được quyết định bởi các yếu tố:
- Quy định của WTO: Mức độ tự do hoá của FTA phải cao hơn mức trong
khuôn khổ WTO và phải bao trùm phần lớn các lĩnh vực
- Chiến lược đàm phán FTA của các bên liên quan
- Xu hướng thế giới, hoàn cảnh cụ thể tại thời điểm đàm phán
Sinh viên: Đỗ Hà Vân Lớp: TC28D
8
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Quang Minh
Trong trường hợp cụ thể của FTA giữa Việt Nam – EU, những nội dung và
mức độ cam kết của các FTA mà EU đã ký với các nước đang phát triển có hoàn
cảnh tương tự với Việt Nam trong thời gian gần đây sẽ có giá trị tham khảo quan
trọng bởi chúng đồng thời thể hiện ba yếu tố nói trên.
Có thể nhìn thấy mục tiêu cũng như mối quan tâm của EU khá rõ ràng trong
các FTA của khối này:
•Thương mại hàng hoá:
- Thuế quan
Một trong vấn đề then chốt trong một Hiệp định thương mại tự do là vấn đề

cam kết cắt giảm thuế quan. Tuỳ thuộc vào đối tác thương mại của FTA và đặc biệt
là với các quốc gia phát triển, việc cắt giảm thuế quan đối với “hầu hết thương mại”
sẽ là trọng tâm của đàm phán. Việc cắt giảm thuế quan đều phải từ hai phía nhưng
gánh nặng nhất thường sẽ thuộc về các quốc gia đối tác của EU.
Đối với Việt Nam, trên thực tế, mặc dù EU hiện đã là thị trường tương đối mở,
với các mức thuế suất thấp đối với các sản phẩm nhập khẩu từ nước ngoài (mức
thuế suất trung bình mà hàng hóa Việt Nam đang phải chịu tại EU là 4,1%) nhưng
xét một cách chi li hơn, theo tỷ trọng thương mại giữa các nhóm sản phẩm, thì Việt
Nam đang phải chịu mức thuế quan trung bình vào EU lên tới 7%. Nói cách khác,
dù áp dụng mức thuế suất rất thấp với đa số dòng thuế, EU đang duy trì mức thuế
tương đối cao đối với các nhóm hàng xuất khẩu trọng điểm từ Việt Nam (trên thực
tế mức thuế suất trung bình áp dụng cho nhóm hàng dệt may là 11,7%, thủy sản
10,8% và giầy dép 12,4%, trong đó có những dòng thuế lên tới trên 57%). Đây rõ
ràng là một cản trở đáng kể đối với sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam ở thị
trường này, đặc biệt trong hoàn cảnh EU đã và đang ký FTA với nhiều đối thủ cạnh
tranh của Việt Nam (và vì vậy hàng hóa của họ khi vào EU sẽ được hưởng mức
thuế quan về cơ bản là 0%) . Một FTA với EU với mức độ cắt giảm thuế về 0% với
ít nhất là 90% số mặt hàng, sẽ là công cụ tốt để Việt Nam xử lý rào cản quan trọng
này. (VCCI 2011a, tr23-33). Tuy nhiên, Việt Nam cần lưu ý, trong các đàm phán,
các nhà đàm phán thương mại của EU thường kiên quyết giữ các mức thuế bảo hộ
trong lĩnh vực sản phẩm nông nghiệp và thuỷ sản cao trong khi có thể giảm mức
thuế quan đối với tất cả các sản phẩm khác.
Sinh viên: Đỗ Hà Vân Lớp: TC28D
9
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Quang Minh
Một điểm lợi thế nữa mà EU thường dành cho đối tác FTA là EU có thể chấp
nhận cho các quốc gia đối tác có nhiều thời gian hơn để thực hiện lộ trình cam kết
mở cửa hoàn toàn trong thương mại hàng hoá. Cụ thể, trong khi thông thường EU
sẽ hoàn thành quá trình mở cửa trong 5 năm, các nước đối tác có thể kéo dài thời
gian từ 5 đến 15 năm. Việc cắt giảm thuế sẽ được thực hiện dần dần trong khoảng

thời gian chuyển đổi này, và vì vậy đây là cơ hội để các nhà sản xuất nội địa có thể
dần thích nghi với việc cắt giảm các loại thuế quan. Điểm lợi thế này có ý nghĩa
quan trọng đối với Việt Nam, khi nền kinh tế trong nước được coi là chưa sẵn sàng
để đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt đến từ hàng hoá EU.
- Các biện pháp rào cản kỹ thuật (TBT) và vệ sinh dịch tễ (SPS):
Việc đàm phán để EU giảm các rào cản SPS và TBT sẽ không xảy ra. Thậm
chí sau khi đưa ra chiến lược “Châu Âu toàn cầu”, chính sách của EU vẫn không
thay đổi: vẫn nhằm mục đích giải quyết các rào cản phi thuế nhưng phải có lợi cho
các nhà xuất khẩu EU. Nhiều khả năng FTA giữa EU và Việt Nam sẽ đưa ra khung
hỗ trợ kỹ thuật, thỏa luận và hợp tác hơn nữa về vấn đề SPS và TBT. Cần phải nhấn
mạnh tầm quan trọng của đàm phán các điều khoản hợp tác toàn diện. Về vấn đề
này, hiệp định EU đã ký kết với các nước ACP có thể là một chuẩn mực hữu ích
trong mở rộng hợp tác về các vấn đề SPS và TBT mà Việt Nam mong muốn đạt
được với EU. Trong các hiệp định này, hợp tác bao gồm cả đào tạo và hỗ trợ kỹ
thuật, các biện pháp thúc đẩy chuyển giao tri thức và tăng cường các dịch vụ công.
Việt Nam có thể xem xét yêu cầu EU các mức tương tự như những thỏa thuận các
nước ACP đã đạt được và yêu cầu hỗ trợ kỹ thuật từ EU trong quá trình đàm phán.
- Quy tắc xuất xứ:
Đây là vấn đề mà các nhà đàm phán Việt Nam cần có sự lưu tâm đặc biệt, do
hàng hóa Việt Nam chủ yếu sử dụng nguyên liệu nhập khẩu và do đó nếu không
đáp ứng được quy tắc xuất xứ (hàm lượng nội địa của hàng hoá) thì ưu đãi thuế theo
FTA sẽ trở nên vô nghĩa.
Trong các FTA gần đây, EU thường áp dụng phương pháp xác định xuất xứ
theo giá trị gia tăng kết hợp với phương pháp xuất xứ cộng gộp từ các nước trong khối
thương mại chung, với xu hướng chấp nhận các quy tắc xuất xứ mềm dẻo, áp dụng
riêng cho mỗi bên đối tác. FTA gần đây giữa EU với Hàn Quốc là một ví dụ. Tại FTA
Sinh viên: Đỗ Hà Vân Lớp: TC28D
10
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Quang Minh
này, EU chấp nhận quy tắc xuất xứ theo giá trị nội địa ở mức 55% với hầu hết các loại

hàng hoá Hàn Quốc và còn chấp nhận biện pháp duty drawback cho Hàn Quốc (xét
5 năm một lần), một phương án vốn được EU từ chối trong tất cả FTA trước đây.
•Thương mại dịch vụ
- EU muốn đối tác mở cửa mạnh thị trường dịch vụ (đặc biệt là viễn thông, phân
phối, môi trường và tài chính), trong khi EU không mở quá nhiều thị trường dịch vụ
cho đối tác (chỉ hơn WTO chút ít), đặc biệt là các dịch vụ công, nghe nhìn, hàng
không.
- Một số nội dung khác như hỗ trợ nâng cao năng lực, các tiêu chuẩn chung,
thừa nhận lẫn nhau (về các tiêu chuẩn đối với đơn vị cung cấp dịch vụ), các thông lệ
phi cạnh tranh trong dịch vụ
•Đầu tư
- Không có những cam kết đi quá xa WTO (tuy nhiên gần đây dường như
thông lệ này thay đổi, EU đang muốn áp dụng mô hình Mỹ với những cam kết sâu
hơn trong vấn đề đầu tư)
- Đề cập tới các vấn đề về không phân biệt đối xử (đối với nhà đầu tư và hiện
diện thương mại của nhà đầu tư), lưu chuyển tự do dòng vốn và tiền liên quan đến
khoản đầu tư, nguyên tắc tối huệ quốc trong vấn đề hiện diện thương mại, điều
khoản không hạ thấp tiêu chuẩn đầu tư (chủ yếu liên quan đến các vấn đề về môi
trường, lao động…nhằm tránh các hiện tượng cạnh tranh xuống đáy trong thu hút
đầu tư)
•Cạnh tranh
- Nhấn mạnh các vấn đề mang tính nguyên tắc (minh bạch, không phân biệt
đối xử, các quyền tố tụng)
- Hối thúc việc cấm cartel, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, các hỗ trợ của
nhà nước thông qua các nguồn lực của nhà nước hoặc các biện pháp ưu tiên có khả
năng bóp méo thị trường
- Các cơ chế hợp tác và trao đổi thông tin tự nguyện, linh hoạt cho các nước
đang phát triển theo nhu cầu phát triển, hỗ trợ nâng cao năng lực
•Mua sắm Chính phủ
- Nhấn mạnh các nguyên tắc minh bạch trong đấu thầu công, đối xử quốc gia

và không phân biệt đối xử, lựa chọn trúng thầu theo giá hoặc theo các tiêu chuẩn
Sinh viên: Đỗ Hà Vân Lớp: TC28D
11
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Quang Minh
điều kiện kinh tế tốt nhất
- EU đặc biệt quan tâm đến mua sắm công trong một số lĩnh vực vụ thể mà EU
có thế mạnh như xây dựng, kiến trúc, pháp lý, kế toán, dược, máy tính.
•Sở hữu trí tuệ
- Yêu cầu đối tác tham gia các công ước quốc tế về sở hữu trí tuệ (các công
ước này phần lớn là về các thủ tục bảo hộ các đối tượng sở hữu trí tuệ chứ không
phải về tiêu chuẩn bảo hộ, mặc dù vậy chúng có thể bao gồm một số yêu cầu cao
hơn TRIPS trong WTO)
- Yêu cầu thực thi đầy đủ TRIPS, nhấn mạnh các yếu tố thực thi
- Đảm bảo các quyền sở hữu trí tuệ phục vụ sức khoẻ công cộng, khuyến
khích sáng tạo và chuyển giao công nghệ
Nhìn chung, các FTA mà EU ký gần đây cho thấy EU đang hướng tới các
FTA có mức độ mở cửa thị trường hàng hoá và dịch vụ mạnh mẽ bên cạnh những
nội dung thương mại và phi thương mại như cạnh tranh, sở hữu trí tuệ, lao động,
môi trường…Thực tế này là một sự thay đổi lớn trong chính sách ký kết các FTA
của EU so với những FTA nặng về những yếu tố phi thương mại nhằm một số mục
tiêu (như tăng cường các giá trị EU, đảm bảo sự ổn định tương đối ở những khu vực
gần EU…) thời gian trước đây.
1.2.3. Một số vấn đề đàm phán có liên quan đến xuất khẩu mặt hàng dệt may
Khác với một số đối tác FTA, EU có những đòi hỏi khắc khe về quy tắc xuất
xứ ( hàm lượng nội đại của hàng hóa ) khiến những lợi ích từ việc cắt giảm thuế chỉ
có thể là trên giấy (do Việt Nam chủ yếu sử dụng nguyên liệu nhập khẩu do đó
không đáp ứng được quy tắc xuất xứ chặt chẽ để được hưởng những ưu đãi theo
thuế FAT). Nếu như đối với nhiều mặt hàng ( ví dụ như thủy sản, nông sản ), vấn đề
xuất xứ trong một FTA không quá quan trọng, thì dệt may lại có nhiều điểm khác
biệt. chúng ta đều biết rằng sản xuất hàng dệt may của Việt Nam hiện nay thu lợi

chủ yếu từ lao động ( gia công sản phẩm). Nói cách khác xuất khẩu dệt may thực
chất là xuất khẩu sức lao động, còn phầ lớn các giá trị đầu vào (nguyên phụ liệu )
cho sản xuất đều không có xuất xứ từ Việt Nam. Vì vậy khi các FTA đòi hỏi quy
tắc xuất xứ chặt chẽ ( ví dụ : vải, sợi phải là của Việt Nam ) thì ngành dệt may hầu
như không thu được lợi gì từ việc mở của thị trường theo các FTA này.
Sinh viên: Đỗ Hà Vân Lớp: TC28D
12
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Quang Minh
Xuất xứ hàng hóa là bài học đã nhìn thấy từ các FAT mà chúng ta đã ký và
đang thực hiện. ngành dệt may đã không được hưởng lợi từ FTA với Trung Quốc,
Úc, New Zeanland vì vấn đề quy tắc xuất xứ. Đối với FTA Nhật Bản mặc dù hiệp
hội dệt may đã nêu rất quyết liệt vấn đề này và mặc dù Nhật Bản cũng đã có những
nhượng bộ chấp nhận cho các sản phẩm dệt may Việt Nam hưởng ưu đãi thuế khi
xuất sang Nhật nếu có vải xuất xứ từ Việt Nam, Nhật Bản hay các nước ASEAN,
tăng trưởng dệt may sau FTA của nứơc này cũng không là bao. Lý do ở chỗ Việt
Nam không có vải, vải nhập từ Nhật Bản hay ASEAN rất ít, những hỗ trợ mà Nhật
Bản hứa thực hiện nhằm thu hút đầu tư vào công nghiệp phụ trợ dệt may cũng
không giúp xử lý được vấn đề này. Ngược lại nếu quy tắc xuất xứ phù hợp, một
FTA có thể mang lại lợi ích lớn cho ngành dệt may. Có thể thấy có qua FTA với
Hàn Quốc, với quy tắc xuất xử chỉ lien quan đến giai đoạn cắt và may, tăng trưởng
xuất khẩu dệt may Việt Nam sang nước này đã có sự tăng trưởng rõ rệt.
EU nhận thấy VN gặp khó khăn trong đầu tư ngành công nghiệp phụ trợ nên
đưa ra tiêu chí xuất xứ dễ thở hơn so với Mỹ trong đàm phán thương mại. Theo đó,
EU không bắt buộc đáp ứng công đoạn từ dệt nhuộm trở đi mà trong chuỗi này Việt
Nam có thể mua bất kỳ nơi đâu, mang về xử lý 2 công đoạn tại Việt Nam, nghĩa là
có “nhúng tay” vào chuỗi này một chút. Và điều quan trọng, để được hưởng thuế
suất 0% trong FTA, điều bắt buộc, hàng xuất khẩu vào EU vận chuyển phải đi trực
tiếp vào cảng EU, không được qua cảng ngoài EU.
Về mức thuế quan của xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam, FTA với Eu sẽ làm
giảm mức thuế quan 12% mà EU đang áp dụng với hàng xuất khẩu dệt may của

Việt Nam xuống còn 0%. Đây là những mặt hàng chủ lực của Việt Nam vào EU
thực tế đang chịu mức thuế rất cao dù Việt Nam đang được hưởng Quy chế Ưu đãi
thuế quan phổ cập (GSP)
FTA với EU các vấn đề về hải quan được thuận tiện hơn, ví dụ như trao đổi
thông tin, xuất trình chỉ một văn bản quản lý duy nhất, đơn giản hóa các thủ tục
kiểm tra và thông quan, hợp tác về vấn đề xuất xứ hàng hóa. Thiết chế ( ủy ban, liên
hiệp ) chung EU đối với các cấp bộ trưởng về vấn đề này ( hỗ trợ bởi các nhóm hỗ
trợ kỹ thuật )
Sinh viên: Đỗ Hà Vân Lớp: TC28D
13
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Quang Minh
Vấn đề về hàng rào kỹ thuật ( TBT), biện pháp vệ sinh dịch tễ (SPS) dệt may
Việt Nam tuân thủ yêu cầu SPS và TBT của EU. FTA giữa EU và Việt Nam sẽ đưa
ra khung hỗ trợ kỹ thuật, thỏa luận và hợp tác hơn nữa về vấn đề SPS và TBT. Cần
phải nhấn mạnh tầm quan trọng của đàm phán các điều khoản hợp tác toàn diện. Về
vấn đề này, hiệp định EU đã ký kết với các nước ACP có thể là một chuẩn mực hữu
ích trong mở rộng hợp tác về các vấn đề SPS và TBT mà Việt Nam mong muốn đạt
được với EU.
EU là thị trường có tần suất sử dụng các công cụ phòng vệ thương mại lớn
nhất. Xét về mặt số lượng, đây cũng là thị trường đã kiện chống bán phá giá, chống
trợ cấp đối với hàng hóa xuất khẩu Việt Nam nhiều nhất cho đến nay. Với mặt hàng
dệt may Việt Nam và đối với khu vực EU thì chỉ có duy nhất một vụ kiện chống
bán phá giá đối với mặt hàng "khăn lau sàn" (Mã HS 6307.10.00) của Đức xuất
khẩu sang Isarel trong năm 2010. Đàm phán việc sử dụng biện pháp chống bán phá
giá giữa FTA với EU. Một mặt, một mặt là giúp gia tăng các hoạt động chống bán
phá giá nhằm bảo vệ các ngành sản xuất trong nước khỏi dòng chảy nhập khẩu gia
tăng từ các quốc gia khác. Mặt khác, FTA với EU được cho là giúp giảm việc sử
dụng các biện pháp chống bán phá giá để thực hiện mục đích của thương mại tự do.
Những hiệu ứng sẽ được áp dụng có thể soi đèn quan trọng trên các câu hỏi liệu một
FTA với EU có thể là một trở ngại hoặc một khối xây dựng. FTA giữa EU với Việt

Nam đàm phán với xu hướng sẽ giảm đáng kể các điều tra chống bán phá giá,
những rào cản thương mại sẽ được giảm bớt điều này có ý nghĩa tích cực cho ngành
dệt May xuất khẩu Việt Nam.
1.3. Giới thiệu thị trường hàng dệt may EU
Năm 1957, sáu quốc gia Tây Âu là Pháp, Tây Đức, Italia, Bỉ, Hà Lan và
Lucxămbua đã ký kết Hiệp ước đánh dấu sự ra đời của Cộng đồng kinh tế châu Âu
(EEC), còn gọi là Cộng đồng châu Âu (EC: European Union). Năm 1995 EC đã có
15 thành viên với 9 thành viên mới gồm: Anh, Ailen, Đan Mạch, Hy Lạp, Tây Ban
Nha, Bồ Đào Nha, Áo, Phần Lan và Thuỵ Điển. EU nhiều lần được mở rộng, ngày
1/5/2004 kếp nạp thêm 10 thành viên Trung và Đông Âu nâng tổng số thành viên
của EU lên 25, lần kết nạp gần đây nhất vào ngày 1/1/2007, Bungari và Rumani
chính thức là thành viên thứ 26 và 27 của Liên minh châu Âu. Sự phát triển của EU
thể hiện vai trò quan trọng đối với châu Âu nói riêng và của cả thế giới nói chung.
Sinh viên: Đỗ Hà Vân Lớp: TC28D
14
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Quang Minh
Thị trường EU là một thị trường chung lớn nhất thế giới. Thị trường EU phát
triển vượt xa khỏi những hiệp định mậu dịch tự do giữa các thành viên. Đây là một
liên hiệp về hải quan và tiền tệ, cho phép hàng hóa, dịch vụ, con người và vốn được
di chuyển một cách tự do điều hành bởi các định chế chung (Ủy Ban Châu Âu,
Nghị viện Châu Âu…), các hệ thống quy định, luật lệ mang tính hoà hợp chung và
các chính sách phù hợp nhất.
EU là một trong các thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam, trong đó
có xuất khẩu hàng dệt may, là thị trường có tốc độ tăng trưởng cao, tương đối ổn
định, có đồng tiền riêng khá vững chắc. Bởi vậy đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may
sang thị trường EU là vấn đề cấp bách và quan trọng đối với sự phát triển kinh tế
của Việt Nam.
Với vị thế của EU trên trường quốc tế, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt
may sang EU cần biết tới EU với một số đặc điểm sau:
1.3.1. Dung lượng thị trường

EU hiện là một trong 3 trụ cột của nền kinh tế thế giới, với diện tích khoảng
3.978.372km
2
, dân số trên 500 triệu người. Thị trường EU thống nhất cho phép tự
do lưu chuyển sức lao động, hàng hoá, dịch vụ và vốn giữa các nước thành viên.
Đây là một thị trường lớn, thị trường xuất khẩu lớn nhất thế giới và là thị trường
nhập khẩu lớn thứ hai thứ giới. Kim ngạch nhập khẩu không ngừng tăng lên. Theo
thống kê của cơ quan thống kê EU (EUROSTAT) cơ cấu hàng hoá nhập khẩu của
EU: sản phẩm chế tạo chiếm khoảng 67,19% tổng kim ngạch nhập khẩu hằng năm,
sản phẩm thô chiếm 29,74%, các sản phẩm khác chiếm khoảng 3,07%. EU còn
nhập khẩu một số mặt hàng dệt may, khoáng sản, thuỷ sản, giày dép, nông sản, cà
phê… Đây là những mặt hàng xuất khẩu thế mạnh của Việt Nam, chúng ta cần tận
dụng những cư hội, có phương thức thâm nhập tốt vào thị trường EU – một thị
trường lớn và ngày càng mở rộng.
Đối với mặt hàng dệt may nói riêng, EU là khu vực đứng đầu thế giới về nhập
khẩu mặt hàng này, chiếm 46% tổng giá trị nhập khẩu hàng dệt may của toàn thế
giới. Nhu cầu nhập khẩu hằng năm của EU vào khoảng 110 tỷ USD hàng quần áo
may sẵn và hàng dệt các loại đem đến cơ hội tuyệt vời cho các nước xuất khẩu hàng
dệt may trong đó có Việt Nam.
Sinh viên: Đỗ Hà Vân Lớp: TC28D
15
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Quang Minh
1.3.2. Tập quán và thị hiếu của người tiêu dùng hàng dệt may EU
EU là liên minh của 27 nước thành viên với trình độ phát triển kinh tế xã hội
khá đồng đều, sự tương đồng về văn hoá và địa lý cho nên người dân thuộc khối EU
có những điểm chung về sở thích và thói quen tiêu dùng.
Những sản phẩm nổi tiếng có thương hiệu trên thị trường thế giới được người
tiêu dùng EU rất ưa chuộng, vì họ cho rằng những thương hiệu này gắn liền với
chất lượng sản phẩm và đảm bảo chất lượng an toàn cho người sử dụng. Đối với
khách hàng EU họ sẵn sàng mua những sản phẩm giá đắt, có thương hiệu nổi tiếng

mà không dùng những sản phẩm không nổi tiếng cho dù giá rất rẻ.
Đối với mặt hàng dệt may: Người tiêu dùng EU thường dùng những sản phẩm
không chứa chất nhuộm có nguồn gốc hữu cơ. Họ đặc biệt quan tâm tới chất lượng
và tính thời trang của loại sản phẩm này. Tính thời trang của sản phẩm đôi khi là
tiêu chí đặt trên giá cả. Một sản phẩm có thể được ưa chuộng trong thời gian này
nhưng sau một thời gian lại lỗi mốt và không được người tiêu dùng ưa thích. Như
vậy, nhu cầu về mặt hàng dệt may thay đổi nhanh chóng, đặc biệt về mẫu mã. Do
đó bên cạnh những tiêu chuẩn về chất lượng, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt
may cần thay đổi mẫu mã để phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của người dân EU.
Thị trường thống nhất EU được chia làm 3 nhóm:
Thứ nhất là nhóm có khả năng thanh toán ở mức cao, chiếm khoảng 20% dân
số của EU, dùng hàng có chất lượng cao, giá cả đắt nhất hoặc những mặt hàng hiếm
hoặc độc đáo.
Thứ hai là nhóm có khả năng thanh toán ở mức trung bình, chiếm 68% dân số EU,
sử dụng những hàng có chất lượng kém hơn và giá cả rẻ hơn so với nhóm thứ nhất.
Thứ ba là nhóm có khả năng thanh toán thấp, chiếm 10% dân số EU, tiêu dùng
những mặt hàng có chất lượng thấp hơn nữa.
Như vậy, hàng hoá nói chung và hàng dệt may nói riêng đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng trên thị trường EU bao gồm cả hàng hoá cao cấp và hàng bình dân phục vụ
mọi đối tượng. Đối tượng tiêu dùng hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam
thuộc nhóm hai và nhóm ba, các đối thủ cạnh tranh chính của các doanh nghiệp
Việt Nam là các doanh nghiệp của Trung Quốc và các nước ASEAN.
Sinh viên: Đỗ Hà Vân Lớp: TC28D
16
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Quang Minh
1.3.3. Kênh phân phối
Hệ thống kênh phân phối mặt hàng dệt may của EU về cơ bản cũng giống như
hệ thống phân phối các loại mặt hàng của một quốc gia, gồm mạng lưới bán buôn
và mạng lưới bán lẻ. Tham gia vào hệ thống phân phối này là các công ty xuyên
quốc gia, hệ thống các cửa hàng, siêu thị, các công ty bán lẻ độc lập. Hình thức tổ

chức phổ biến nhất của kênh phân phối trên thị trường EU là tổ chức theo tập đoàn
và không theo tập đoàn.
Kênh phân phối theo tập đoàn có nghĩa là các nhà sản xuất và nhà nhập khẩu
của một tập đoàn chỉ được cung cấp hàng hoá cho hệ thống các siêu thị cửa hàng
của tập đoàn mình mà không được cung cấp hàng cho hệ thống bán lẻ khác. Còn
kênh phân phối không theo tập đoàn thì ngược lại, cho phép các nhà sản xuất và
nhập khẩu của một tập đoàn có thể cung cấp hàng cho hệ thống bán lẻ khác ngoài
việc cung cấp hàng cho hệ thống siêu thị, cửa hàng của tập đoàn mình. Đây là điều
khác biệt khá rõ giữa thị trường EU so với thị trường khác, tạo nên điểm nổi bật
mà các doanh nghiệp cần quan tâm hơn để có thể xuất khẩu thành công sang thị
trường EU.
Để tiếp cận với hệ thống phân phối này là điều không dễ đối với các doanh
nghiệp xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Rất hiếm doanh nghiệp có mối quan
hệ tốt với những dây chuyền phân phối hàng hoá này để có thể đưa được hàng dệt
may của mình vào thị trường EU. Các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may Việt
Nam hiện nay muốn tiếp cận được hệ thống kênh phân phối này thì phải tiếp cận
được các nhà nhập khẩu của EU bằng con đường xuất khẩu trực tiếp sang EU hoặc
thành lập các công ty liên doanh với các công ty xuyên quốc gia của EU để trở
thành công ty con.
1.3.4. Những quy định của EU đối với hàng dệt may nhập khẩu
*Những quy định đối với hàng hoá nhập khẩu vào thị trường EU
EU là một trong những đối tác quan trọng không chỉ của Việt Nam với dung
lượng thị trường rất lớn. Tuy nhiên thì đây là một thị trường tương đối khó tính.
Hàng hoá để xuất khẩu vào thị trường này phải thoả mãn 5 tiêu chuẩn sau:
Thứ nhất: Tiêu chuẩn về chất lượng hàng hoá: Doanh nghiệp phải áp dụng hệ
thống chất lượng ISO-9000. Đây là yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp sản
Sinh viên: Đỗ Hà Vân Lớp: TC28D
17
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Quang Minh
xuất muốn xuất khẩu hàng của mình sang thị trường EU, trong đó có doanh nghiệp

Việt Nam.
Thứ hai: Tiêu chuẩn về an toàn cho người sử dụng: Nhằm bảo vệ cho sức
khoẻ người tiêu dùng, hàng hoá nhập khẩu vào EU phải được mã hiệu theo quy định
của EU.
Thứ ba: Tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm: Tất cả các nhà chế biến thực
phẩm muốn xuất khẩu hàng hoá sang EU đều chịu sự bắt buộc mang tính pháp lý, phải
áp dụng quy trình sản xuất theo hệ thống HACCP ngay từ đầu.
Thứ tư: Quy định về bảo vệ môi trường: EU buộc các doanh nghiệp xuất khẩu
hàng hoá sang EU phải có chứng chỉ ISO-14000 và hàng hoá liên quan đến môi
trường thì phải cung cấp ký mã hiệu theo quy định của EU như dán nhãn sinh thái,
quản lý đồ phế thải…
Thứ năm: Tiêu chuẩn về lao động: Tất cả các doanh nghiệp sản xuất và xuất
khẩu sang EU phải chú ý đến yếu tố xã hội, đạo đức trong kinh doanh. Điều này
buộc các doanh nghiệp phải thực hiện SA 8000.
Để hàng dệt may Việt nam được nhập khẩu vào thị trường EU thì các doanh
nghiệp dệt may cần tuân thủ 5 tiêu chuẩn chung đối với hàng hóa nhập khẩu như
trên. Ngoài ra còn có các quy định riêng đối với hàng dệt may nhập khẩu vào thị
trường EU.
*Một số quy định về hàng dệt may nhập khẩu vào EU
Dưới đây là những quy định chung cho hàng dệt may nhập khẩu vào các nước
trong EU. Tuy nhiên ở mỗi thị trường thành viên lại có những yêu cầu khác nhau
liên quan đến vấn đề chất lượng, loại vải, sợi, các tiêu chuẩn, kích cỡ, mầu sắc…
•Quy định pháp lý
Có rất nhiều qui định pháp lý đối với hàng dệt may tại thị trường EU. Dưới
đây là một số quy định tham khảo:
- Chỉ thị số 2003/53/EC (sửa đổi từ Chỉ thị 76/769/EEC), EU đã đặt ra những
quy định hạn chế đối với việc sử dụng những hóa chất dễ gây nguy hiểm, trong đó
có nonyl phenols (NP) và nonyl phenol ethoxylates (NPEs), là những hóa chất có
ảnh hưởng đến tuyến nội tiết nếu được sử dụng trong các sản phẩm dệt may.
Sinh viên: Đỗ Hà Vân Lớp: TC28D

18
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Quang Minh
- Chỉ thị số 76/769/EEC (sửa đổi từ Chỉ thị số 83/264/EEC) là Chỉ thị đã được
áp dụng hài hòa trong EU, cấm việc marketing và sử dụng những sản phẩm dệt tiếp
xúc với da nếu những sản phẩm này chứa các chất làm chậm khả năng bắt cháy. Chỉ
thị này đã được áp dụng hài hòa trong EU.
- Chỉ thị số 2002/61/EC (sửa đổi từ Chỉ thị số 2004/21/EC) hạn chế việc sử
dụng thuốc nhuộm Azo trong các sản phẩm dệt ở Khu vực Kinh tế Châu Âu
(European Economic Area - (EEA)).
- EU đã có quy định hài hòa trong toàn liên minh về tên gọi, thành phần sợi
dệt và nhãn mác sản phẩm dệt nhằm bảo đảm cung cấp đầy đủ thông tin cho người
tiêu dùng và ngăn chặn những sự khác biệt giữa các quy định liên quan ở cấp thành
viên. Chỉ thị số 96/74/EC về tên sản phẩm dệt đưa ra những quy định dán nhãn đối
với sản phẩm dệt. Theo chỉ thị này, các sản phẩm dệt dự định được nhập khẩu vào
EU phải được dán nhãn. Trên nhãn phải thể hiện tên sản phẩm, mô tả sản phẩm, chi
tiết về hàm lượng sợi dệt của sản phẩm.
•Yêu cầu không mang tính pháp lý
Nhà nhập khẩu EU có thể đặt ra một số yêu cầu đối với nhà cung cấp hàng dệt
may từ các nước đang phát triển liên quan đến các vấn đề về sức khoẻ, an toàn đối
với môi trường và xã hội Nhiều khách hàng EU đòi hỏi các sản phẩm dệt may
phải được sản xuất trong những điều kiện lao động có thể chấp nhận với mức tiền
công hợp lý, trong đó cơ sở sản xuất hàng dệt may phải áp dụng các biện pháp quản
lý rủi ro, phòng tránh tai nạn lao động trong quá trình sản xuất; giữ gìn vệ sinh khu
vực sản xuất; áp dụng đúng quy trình quản lý lưu kho
•Bao gói, ký mã hiệu và nhãn mác
Uỷ ban Châu Âu đã hài hòa các quy định về tên gọi, thành phần cấu tạo và
nhãn mác của các sản phẩm dệt nhằm đảm bảo sự cung cấp thông tin đầy đủ về sản
phẩm đến người tiêu dùng và tránh những khác biệt trong các quy định giữa các
quốc gia thành viên. Các quy định về nhãn hàng dệt được nêu tại Chỉ thị số
96/74/EC. Chỉ thị số 96/73/EC bổ sung thêm các bộ quy tắc về tên gọi của hàng dệt

trên toàn EU nhằm tạo điều kiện thuận lợi hóa thương mại trong phạm vi EU.
Các quốc gia thuộc EU hầu hết đều đặt ra một số yêu cầu bắt buộc đối với
nhãn mác hàng dệt may như: trên nhãn mác một số mặt hàng phải có thông tin về
Sinh viên: Đỗ Hà Vân Lớp: TC28D
19
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Quang Minh
hàm lượng sợi dệt, tên nhà xuất khẩu hoặc nhà nhập khẩu, hướng dẫn cách làm sạch
sản phẩm
•Thuế suất và hạn ngạch
Tất cả các quốc gia thành viên EU đều áp dụng hệ thống thuế Hải quan thông
thuờng khi hàng nhập khẩu từ bên ngoài EU. Nếu không có hiệu lực của một Hiệp
định thương mại đặc biệt, thì hệ thống thuế nhập khẩu chung được áp dụng.
Đối với hàng dệt may Việt Nam nhập khẩu vào EU: Việt Nam được hưởng
Hệ thống thuế quan phổ cập (GSP) của EU từ 1/7/1996 nên hàng hóa được nhập
khẩu với mức thuế ưu đãi. Từ ngày 1/1/2005 EU đã dỡ bỏ hạn ngạch dệt may cho
Việt Nam nên hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang EU không bị hạn chế về số
lượng.
Trên đây là một số quy định đối với hàng dệt may nhập khẩu vào thị trường
EU. Các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam cần biết để có những biện
pháp nhằm đáp ứng tốt những yêu cầu trên.
Sinh viên: Đỗ Hà Vân Lớp: TC28D
20
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Quang Minh
CHƯƠNG II: CƠ HỘI THÁCH THỨC ĐỐI VỚI XUẤT KHẨU HÀNG
DỆT MAY VIỆT NAM KHI HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO
VIỆT NAM - EU ĐƯỢC KÝ KẾT
2.1. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường EU
thời gian qua
Sau khi Hiệp định khung hợp tác Việt Nam – EU được ký kết năm 1995, quan
hệ giữa hai bên có nhiều bước phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực ngoại thương.

KNXK của Việt Nam sang EU không ngừng tăng lên, dệt may là ngành tiên phong
tìm chỗ đứng trên thị trường EU. Tuy nhiên EU là thị trường rất khó tính, nhiều rào
cản thuế quan và phi thuế quan được áp dụng nên hàng dệt may Việt Nam gặp phải
nhiều khó khăn va thách thức. Tuy vậy, xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang EU
cũng đã đạt được nhiều thành tích trong thời gian qua
2.1.1. Kim ngạch xuất khẩu
EU là thị trường nhập khẩu dệt may lớn thứ hai thế giới chỉ sau Mỹ. Các thành
viên EU: Đức, Pháp, Anh, Hà Lan… là các bạn hàng truyền thống của dệt may Việt
Nam từ những năm 1980, nhưng với số lượng không lớn. Từ sau khi Hiệp định dệt
may Việt Nam – EU được ký kết thì KNXK dệt may Việt Nam sang EU có sự tăng
đột phá, trong vòng 4 năm KNXK tăng 201 triệu USD, với tốc độ bình quân là
13,2%/năm.
Bảng 2.1: KNXK dệt may Việt Nam sang EU thời gian qua
Đơn vị: triệu USD
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
KNXK 610 591 546 600 660 841 1243 1459 1704 1644
% tăng 9,75 -3,21 -7,61 9,89 10.0 27,42 47,8 17,37 16,79 -3,5
Nguồn: Niên giám thống kê
Nhìn vào bảng số liệu trên, ta thấy năm 2001 và 2002 là hai năm đáng buồn
của xuất khẩu dệt may Việt Nam sang EU, KNXK giảm 64 triệu USD so với năm
2000. Một trong những nguyên nhân quan trọng nhất là sau khi Hiệp định thương
mại Việt - Mỹ có hiệu lực, các doanh nghiệp dệt may đã quá tập trung vào thị
Sinh viên: Đỗ Hà Vân Lớp: TC28D
21
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Quang Minh
trường Mỹ mà bỏ quên thị trường EU. Năm 2003, thời gian tự do xuất khẩu sang Mỹ
đã hết và với việc EU tăng hạn ngạch cho Việt Nam nên KNXK dệt may sang EU đã
tăng trở lại, đạt 600 triệu USD, tăng 9,89% so với năm 2002. KNXK dệt may của nước
ta sang EU tiệp tục tăng trong những năm gần đây, năm 2004 đạt 660 triệu USD, năm
2005 đạt 841 triệu USD, đến năm 2006 KNXK đạt 1243 triệu USD - đánh dấu một

mốc lịch sử lần đầu tiên KNXK dệt may Việt Nam sang EU đạt trên 1 tỷ USD, với tốc
độ tăng là 47,8% so với năm 2005. Đến năm 2007, 2008 tốc độ tăng vẫn cao nhưng có
phần bị chững lại. Năm 2009, tốc độ tăng đã giảm 3,5%. Mặc dù KNXK dệt may nói
chung có tăng nhưng do nhu cầu tiêu dùng tại các nước EU đã sụt giảm nghiêm trọng
dưới tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 nên KNXK dệt may
sang EU đã giảm 3,5% so với năm 2008.
Hình 2.1: KNXK dệt may Việt Nam sang EU thời gian qua
Đơn vị: triệu USD
Nguồn: Niên giám thống kê
Về tỷ trọng, mặc dù thị trường EU từ vị trí số 1 đã tụt xuống vị trí thứ 2 trong
KNXK dệt may của Việt Nam, nhưng trong thời gian tới EU vẫn được xác định là
thị trường mục tiêu của dệt may Việt Nam, một thị trường đầy tiềm năng, chỉ tiêu
đặt ra trong năm 2010 này là KNXK đạt 2,2 tỷ USD. Do đó, các doanh nghiệp cần
đẩy mạnh tăng KNXK sang EU nhiều hơn.
2.1.2 . Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu
Có thể nhận thấy rằng dệt may Việt Nam đang trong tình trạng thiếu trầm
trọng đội ngũ thiết kế giỏi, do đó những mặt hàng xuất khẩu của chúng ta thường
đơn giản về mẫu mã, chủng loại và màu sắc. Trong những năm gần đây, các doanh
Sinh viên: Đỗ Hà Vân Lớp: TC28D
22

×