TÌM HIỂU VỀ NGHỆ THUẬT HÁT XOAN
MỤC LỤC
1) Lịch sử hình thành và phát triển ................................................................... 2
2) Đặc điểm loại hình nghệ thuật. ..................................................................... 2
2.1. Cơ cấu tổ chức và thành viên trong sinh hoạt Hát Xoan. ............................. 2
2.2. Giao tiếp ứng xử và địa điểm diễn xướng. ................................................... 3
2.3. Mục đích ca hát và trang phục, đạo cụ, nhạc cụ khi hát. .............................. 4
2.4. Nghệ thuật dân ca Hát Xoan. ....................................................................... 6
3) Giá trị văn hóa của nghệ thuật hát Xoan ..................................................... 12
1
1) Lịch sử hình thành và phát triển
Hát Xoan cịn được gọi là Khúc mơn đình (hát cửa đình), là lối hát thờ thần,
tương truyền có từ thời các vua Hùng. Thuở xa xưa, người Văn Lang tổ chức
các cuộc hát Xoan vào mùa xuân để đón chào năm mới.
Theo sử sách ghi lại thì hát Xoan đã tồn tại hơn 2.000 năm, là di sản văn hóa
dân gian hết sức q báu. Trên chặng đường dài đó, loại hình nghệ thuật này đã
được nhiều người có vị thế và uy tín trong xã hội, nhiều văn nhân thi sĩ nâng đỡ,
tạo điều kiện cho phát triển. Trong đó có phần công lao to lớn của bà Lê Thị Lan
Xuân, mà phường Xoan truyền tụng như một ân nhân. Để tỏ lòng biết ơn bà, các
phường Xuân kiêng tên bà gọi chệch đi là hát Xoan.
Các làn điệu Xoan cổ đều được bắt nguồn từ những làng cổ nằm ở địa bàn
trung tâm bộ Văn Lang thời các vua Hùng dựng nước. Gốc của hát Xoan ở vùng
Phú Thọ, sau đó lan tỏa tới các làng q thuộc đơi bờ sông Lô, sông Hồng, qua
cả tỉnh Vĩnh Phúc. Bốn phường Xoan cổ là An Thái, Phù Đức, Kim Đới và Thét
nằm ở 2 xã Kim Đức và Phương Lâu (Phú Thọ).
2) Đặc điểm loại hình nghệ thuật.
2.1. Cơ cấu tổ chức và thành viên trong sinh hoạt Hát Xoan.
Những người đi Hát Xoan được tổ chức với lại gọi là phường Xoan( hoặc họ
Xoan). Phường Xoan từ 15-20 người, trong đó 4-5 là nam, nữ từ 15-20 người.
Nam gọi là ké. Nữ gọi là đà. Kép có thể đã có vợn nhưng trong phường ít nhất
phải có một kép trẻ, tuổi từ 10-15. Đào đều là các cô gái xinh đẹp hát hay, tuổi
từ 15-20. Đứng đầu phường Xoan là một người đàn ông đã đứng tuổi, thuộc
nhiều bài hát Xoan, biết chữ Nơm, được dân làng tín nhiệm bầu làm trùm. Ông
trùm vừa là người hướng dẫn đào kép hát , múa, vừa là người quản lý, vừa là
người giao dịch với các làng mà phường Xoan đến hát. Để có uy tín với các làng
kết nghĩa, vai trị của ơng trùm rất quan trọng. Ơng trùm phường Xoan thường là
kép của phường, đã tham gia đi hát rất nhiều năm, có nhiều kinh nghiệm, biết
nhiều điển tích đọc được văn bản Hát Xoan bằng chữ Nơm. Ơng trùm vừa là
nhạc công thuần thục giữ nhịp trống phách, vừa là kép hát dẫn thành thạo, vừa là
2
chỉ đạo nghệ thuật, vừa là thày dạy dỗ các đào kép hát múa. Đặc biệt ơng trùm
phải có khả năng quản lý và giao dịch. Hàng năm vào tháng chạp âm lịch,
phường Xoan được tập hợp dưới luyện tập hướng dẫn của ông trùm. Địa điểm
luyện tập tại nhà ông trùm.
Phường Xoan hoạt động như một đơn vị hoạt động nghệ thuật bán chuyên
nghiệp, do đó khâu tuyển chọn đào kép rất được chú trọng. Kép trong phường
Xoan không những là diễn viên hát mà cịn là nhạc cơng có tay trống tay phách
điêu luyện. Đào phường Xoan phải đảm bảo có hai tiêu chuẩn nhanh và sắc.
Thiếu một trong hai tiêu chuẩn không đươj nhập phường. Khi đã có chồng
thường các cơ đào khơng theo chồng đi hát nữa. Ngồi khẳ năng bẩm sinh về
thanh sắc,các cơ đào được truyền kỹ năng về hát múa, được giảng dạy cặn kẽ về
các điển tích, được trau dồi bồi dưỡng thường xuyên về kiến thức văn học dân
gian, âm nhạc dân gian và cả âm nhạc bác học.
Như một đơn vị nghệ thuât bán chuyên nghiệp, phường Xoan lưu diễn từ
làng này qua làng khác, mỗi làng sở tại đều có những u cầu riêng. Có làng u
cầu ngồi phần hát lề lối các cô đào cùng các chàng trai sở tại Hát Đúm giao
duyên. Có làng có những tư gia mời phường Xoan đến hát tại nhà, chủ yếu là hát
bài bản, làn điệu thuộc giọng ngoài như: Giọng Lý, Giọng Ru, Giọng Phú…đây
là bài bản làn điệu có âm điệu , lời ca và lối hát khác với Hát Xoan. Nhất là
giọng Phú, chỉ hát những điển tích của văn chương bác học: Phú Kiều, phú Lưu
Bình Dương Lễ, phú Thị Kính.
Với những yêu cầu của các làng sở tại thì từ ơng trùm đến các đào kép phải
có một trình độ nhất định và khả năng văn hoá âm nhạc tương đối phong phú
mới đáp ứng được yêu cầu.
2.2. Giao tiếp ứng xử và địa điểm diễn xướng.
Như đã nói ở trên thì mối quan hệ giữa phường Xoan với các làng phường
Xoan đến ca hát là quan hệ anh em, tục kết nghĩa giao ước phường Xoan là em,
làng sở tạ là anh. Tuy nhiên trong giao tiếp ứng xử hai bên đều hết sức trân
trọng, xưng là anh em nhưng bình đẳng.
3
Địa điểm diễn xướng ở cửa đình cịn hát ở cửa đình, nhưng cịn hát ở trong
đình. Ngày xưa trước cuộc Hát Xoan, đào phường Xoan thường Hát Trống Quân
với trai làng Đức Bác ở bến sông, trên đường làng đầu đường làng, đầu đường
làng rồi mới vào hát ở cửa đình.Một số làng lại có những tư gia, sau khi nghe
Hát Xoan ở cửa đình thì lại mời phường Xoan về hát ở nhà, nhưng không hát
thờ mà chủ yếu nghe Hát Phú ngâm ngợi những bài thơ áng văn .
2.3. Mục đích ca hát và trang phục, đạo cụ, nhạc cụ khi hát.
Ban đầu, mục đích của sinh hoạt Hát Xoan là tế thần cầu mong mưa thuận
gió hịa, dân làng an khang thịnh vượng, sau đó là để trai gái hát giao duyên.
Trên cơ sở của múa tín ngưỡng người ta xướng lên những lời cầu khẩn trầm
bổng mà thành Hát Xoan. Để thoả mãn nhu cầu tâm linh, nhu cầu giao tiếp ,
nhiều làng mời Xoan gốc đến hát, và để cảm tạ những người đi hát người ta cho
tiền hoặc biếu gạo cho họ, lâu dần lệ. Vì thế, mục đích đi hát của phưỡng Xoan
ngoài việc thoả mãn nhu cầu tâm linh nhu cầu ca hát thì cịn nhằm hưởng gao
hoặc tiền.
Khi đi hát các cô đào thường mặc váy sồi hay quần láng đen, áo tứ thân, năm
thân,( hoặc là bao xanh bao hồng), đầu vấn khăc nhung đen ,hay khăn mỏ quạ.
Kép và những chàng trai làng tham gia trong cuộc Hát Xoan , mặc quần ồng sớ
màu trắng, áo the thâm dài tới đầu gối. cổ quàng dải nhiễu điều , đầu đội khăn
hay khăn xếp đen. Trong quan niệm của phường Xoan, trang phục khi đi hát
phải đẹp, trang trọng khơng những biểu long tơn kính với thần linh mà cịn biểu
lộ sự tơn trong của mình đối với dân các làng kết nghĩa. Đây cũng hội có các phần: Bợm gái, Bỏ
Bộ, Xin hoa- Đố chữ. Gài Hoa, Dã Cá. Dã Cá là tiết mục được trình diễn như
một hoạt cảnh, có nơi là các cơ đào , có nơi là các trai láng sở tại được đóng vai
cá bị lưới bủa vây, bắt được dâng lên bàn thờ tế thần , tế thần xong mới được trở
lại làm người. Tiết mục Dã Cá rất sôi nổi vui vẻ, kết thúc cuộc Hát Xoan trong
khơng khí tưng bừng của lễ hội. Trước tiết mục Dã Cá ,ở nhiều làng còn đưa
thêm mục Hát Đúm xen vào trong cuộc Hát Xoan. Hát Đúm được xen vào Hát
Xoan làm tăng thêm phần sinh động của cuộc hát
2.4. Nghệ thuật dân ca Hát Xoan.
Nghệ thuật hát Xoan là nghệ thuật diễn xướng tổng hợp, hát đi đôi với múa
và nhạc đỡ giọng giữ nhịp, trong đó yếu tố hát là chính. Hát Xoan là hình thức
nghệ thuật “Hát thơ”, hát trên rất nhiều thể thơ truyền thống Việt Nam như: Lục
bát, song thất lục bát, lục bát biến thể, các thể thất ngơn và thể 4 chữ.
Có 3 hình thức hát xoan: hát thờ cúng các vua Hùng và Thành hoàng làng;
hát nghi lễ cầu mùa tốt tươi, cầu sức khỏe; và hát lễ hội là hình thức để nam nữ
giao duyên.
a) Nội dung lời hát
6
Cũng như một số loại hình nghệ thuật sinh hoạt dân gian khác của người
Việt, Hát Xoan có khởi đầu là lối hát tế thần. Là loại dân ca lễ nghi - phong tục,
lời ca trong Hát Xoan phản ánh khá rõ tín ngưỡng của cộng đồng người Việt:
phồn thực thờ tổ tiên, thờ thần…
Tín ngưỡng thờ thần:
“May ra bắt được cá măng
Đem lên tiến cúng cả làng bình n.”
Tín ngưỡng phồn thực:
“Tơi bước chân vào giáo trống
Tìm đền thượng chúc cho minh
Năm trống cơm thiên hạ thái bình
Năm trống cơm nhà no mọi đủ
Năm trống cơm mọi vẻ mọi hay.”
Là một xã hội nơng nghiệp, chủ đề chính của nội dung Hát Xoan vẫn là nghề
nông:
“Đêm mưa ngày nắng
Đầu tháng cuối năm
Lúa dé, lúa chiêm cho no làng
Ngoài đồng tốt lúa
Lúa tốt mạ lên cho chật nhà”
Tình u đơi lứa được phản ánh trong lời ca Hát Xoan rất đa dạng:
“Trăm năm gắn bó như niêm
Chữ tình tạc dạ, chữ duyên ghi lòng.”
Lời ca trong Hát Xoan được cấu trúc theo nhiều thể thơ. Thể thơ 4 chữ, 5
chữ, lục bát, song thất lục bát, thất ngôn…Thơ trong Hát Xoan bao gồm cả thơ
dân gian và thơ bác học.
7
Thể thơ 4 chữ là thể thơ cổ mà một số bài ở chặng hát nghi thức và trong 14
Qủa cách ta đều thấy như:
“Vạn thần tất hưởng
Tôi mời vua cả
Người sang đất này.”
Thơ lục bát, lục bát biến thể và song thất lục bát được sử dụng nhiều trong
cấu trúc lời ca Hát Xoan:
“Miếng trầu để đĩa bưng ra
Có cau, có vỏ lịng đà có vơi
Hay là trầu héo, cau ôi
Mà anh nỡ để trầu mời không ăn?”
b) Âm nhạc
Thuộc loại dân ca cổ nhất và cùng quá trình tồn tại và phát triển, âm nhạc
trong Hát Xoan chứa đựng những yếu tố từ giản dị nhất cho đến những bài bản,
làn điệu hoàn thiện và tinh tế.
* Về thang âm
Thang âm là những âm có trong bài bản hoặc làn điêu của các thể loại dân ca
và ca hát cổ truyền, được sắp xếp từ âm thấp nhất đến âm cao nhất trong phạm
vi một bát độ.
Hát Xoan khi diễn xướng chịu sự chi phối của ngữ điệu tiếng Việt gồm sáu
thanh: huyền. hỏi, săc. Ngã, nặng và thanh không dấu. Hầu hết các bài hát trong
Hát Xoan đều là thang 5 âm: Bợm gái, Bỏ bộ, Xin hoa- Đố chữ, Đố hoa, Giã
Cá…
Những bài hát ở chặng nghi thức của Hát Xoan như: Giáo trống, Giáo pháo,
Thơ nhang thang âm có 4 âm, nhưng từng câu trong bài thang âm chỉ có 3 âm.
* Cấu trúc
8
Âm nhạc Hát Xoan được tạo nên bởi lối hát thơ, các ý thơ câu thơ khổ thơ
tạo nên các kiểu cấu trúc. Cấu trúc các bài bản, làn điệu Hát Xoan khá đa dạng
bao gồm các dạng cơ bản sau:
Khởi thuỷ là lối hát truyền cầu cúng ,nên Hát Xoan có một dạng cấu trúc âm
nhạc phụ thuộc thuộc vào lời của bài văn, hay bài thơ được trình bày bằng kiểu
vừa nói vừa hát. Những cấu trúc này là cấu trúc khổ nhạc hát nói.
Các bài ở chặng nghi thức trong Hát Xoan như Giáo trống, Giáo,Gíáo pháo,
Thơ nhang có cấu trúc khổ nhạc hát nói. Các câu trong khổ nhạc hát nói thường
giống nhau lặp đi lặp lại. Độ dài, ngắn của khổ nhạc hát nói phụ thuộc vào nội
dung thể thơ 4 hoặc 5 chữ( từ) hoặc thể thơ tự do có thêm các tiếng đưa hơi ,
tiếng đệm.
Dạng cấu trúc thứ hai trong Hát Xoan là cấu trúc khổ nhạc đơn. Khổ nhạc
đơn gồm nhiều câu nhạc, mỗi câu ứng với một câu 6 chữ, câu thơ 8 chữ
của thể thơ lục bát hoặc lục bát biến thể.
Dạng cấu trúc thứ ba tron Hát Xoan là cấu trúc 2 khổ đơn thường là do sự
phát triển củac cấu trúc khổ nhạc đơn mà ra.
* Giai điệu
Hát Xoan có 3 kiểu hát: hát nói, hát ngâm ngợi, hát xướng( giống như hát ca
khúc). Vì vậy giai điệu Hát Xoan cũng có một số nét đặc trưng như sau:
+ Những bài Giáo trống, Giáo pháo, Thơ nhang hát theo kiểu hát nói. Đặc
điểm của giai điệu hát nói là sự đồng nhất giữa dấu giọng của lời ca với giai
điệu. Lời ca của kiểu giai đoạn hát nói thường là thơ 4 hoặc 5 chữ hoặc biến thể
của của chúng. Các quãng trong kiểu giai đoạn hát nói khơng vượt q qng
8,thường là từ qng 2 đến quãng 5. Từng từ, từng chữ trong lời ca thường chỉ
ứng với một đến hai, ba nốt nhạc.Giai điệu không sử dụng nhiều nốt luyến láy.
Kiểu giai điệu hát nói mộc mạc giản đơn nhưng dõng dạc, khoẻ khoắn
Giai điệu của các bài Hát phú, Gài hoa theo kiểu ngâm ngợi. Đặc điểm của
kiểu giai điệu hát ngâm ngợi thường mềm mại. uyển chuyển, nhịp tự do thể hiện
tình cảm trữ tình sâu lắng. Dấu giọng lời ca hầu hết đồng nhất với độ cao giai
9
điệu. Giai điệu của hát kiểu hát ngâm ngợi có nhiền nốt luyến láy hơn giai điệu
của điệu hát nói
* Về nhịp điệu
Hát Xoan là hình thái sinh hoạt văn hố âm nhạc dân gian, được hình thành
bởi xúc cảm thiêng liêng trong đời sống tâm linh của người Việt vùng Phú Thọ.
Nằm trong tổng thể nguyên hợp của một hiện tượng phônclo, nhịp điệu Hát
Xoan cũng như các thành tố khác của Hát Xoan đều có mối tương quan logic.
Với những bài ở chặng nghi thức: Giáo trống, Giáo pháo, Thơ nhang và các bài
có gắn với múa minh hoạ như : Bỏ bộ, Đánh cá, Bợm gái nhịp điệ mạch lạc,
khúc triết. Nhịp tương ứng với loại nhịp 2/4 được sử dụng rất nhiều trong âm
nhạc Hát Xoan. Loại nhịp tưng ứng hỗn hợp cũng có xuất hiện( Thơ nhang,
Đóng đám) nhưng số lượng ít. Những bài hát ngâm ngợi( Gài hoa, Hát phú) nhịp
tự do.
Một đặc điểm khá tiêu biểu trong nhịp điệu Hát Xoan là kiểu nhấn lệch, sử
dụng ở nhiều bài Giáo trống, Giáo pháo, Thơ nhang, Xin hoa- đố chữ
* về kỹ năng hát
Hát Xoan gắn bó mật thiết giữa thơ ca và âm nhạc, nhịp điêu thơ và nhịp
điệu nhạc, ý thơ và ý nhạc đều có sự thống nhất. Vì trước là hát tế thần, sau là
hát kỹ năng Hát Xoan cũng đòi hỏi những yêu cầu kỹ thuật khá cao, với 4 tiêu
chí: vang, rền, nền, nẩy.
Như chúng ta đã biết địa điểm diễn xướng Hát Xoan khởi đầu là vùng đất
thiêng( bãi cỏ ở làng Phù Đức, xã Kim Đức, Việt Trì), nơi vua Hùng dạy trẻ
mục đồng ca hát. Hiện nay mỗi khi mở hội Hát Xoan, dân làng Phù Đức vẫn đến
tế lễ ở bãi cỏ này. Về sau người ta xây miếu ở bãi cỏ( vùng đất thiêng) gọi là
“Miếu Lãi Lèn” các cuộc Hát Xoan vẫn được hát ở trước miếu Lãi Lèn. Khi có
thiết chế đình làng địa điểm diễn xướng Hát Xoan ở cửa đình. Do đó Hát Xoan
cịn gọi là Hát Lãi Lèn, Hát Cửa Đình. Hát Xoan là sinh hoạt ca hát tập thể,
người tha gia đông, hát ở không gian rộng nên tiêu chí đầu tiên là hát phải vang.
Tiêu chí hát vang trong Hát Xoan khơng có nghĩa là gào hay thét to. Khi tuyển
10
đào, kép phường Xoan phẩi chọn người có giọng khoẻ và trong( không được
khan), lúc hát vận dụng đẩy hơi thở làm âm thanh vang lên trong vòm họng , ở
hốc mũi. Những bài Giáo trống, Giáo pháo, Thơ nhang là những bài ca khẩn
nguyện , hát the kiểu hát nói. Bởi vậy độ âm vang khơng những để nghe rõ mà
cịn thể hiện sự trang trọng, thần bí của giọng hát trước khung cảnh trang
nghiêm của cuộc tế lễ. Hầu hết các bài ở chặng thứ nhất( nghi thức) và chặng
thứ hai( 14 quả cách) đều được trình diễn theo kiểu hát nói.
Những bài Hát phú, Gài hoa giai điệu mềm mại uyển chuyển , hát theo kiểu
ngâm ngợi nên tiêu chí quan trọng nhất là phải rền. Theo các nghệ nhân Hát
Xoan thì rền có nghĩa là âm phải liền nhau, hơi phải trường để ngâm nga những
bài thơ áng văn. Trên cơ sở của hát nói, hát ngâm ngợi lấy hơi sâu hơn và không
chỉ lấy hơi ngực mà còn lấy hơi ở bụng. để lượng hơi dồi dào hơn, ngâm ngơi
được trường hơi. Kỹ năng hát ngâm ngợi địi hỏi phải mềm mai thể hiện được
tình cảm sâu lắng,trữ tình.
Trong ứng xử, phường Xoan hết sức trân trọng làng kết nghĩa. Cách ứng xử
này cũng được thể trong khi hát Hát đối đáp giao duyên tiêu chí hang đầu là phải
nền. Theo các nghệ nhân phường Xoan thì nền có nghĩa là nền nã lịch thiệp.
Nam nữ trong hát đối phải trân trọng nhau, thân ái, khơng đùa nghịch chịng
ghẹo. Nhả chữ phải rõ rang rành mạch nhưng phải da diết đằm thắm. Cịn tiêu
chí nảy trong Hát Xoan là những bài hát kèm theo múa như Giáo trống, Giáo
pháo hay Đánh cá phải vừa có âm vang, vừa nảy. Vang là phải dõng dạc, nảy là
mỗi câu phải dứt( ngắt).
Trong những bài trình diễn ở chặng hát hội của cuộc Hát Xoan hát theo kiểu
hát xướng. Hát xướng là sư tổng hợp của hái kiểu hát nói và giọng hát ngâm
ngợi giống như hát khúc), lấy hơi phải nhanh hơn hát nói hát ngâm ngợi, lượng
hơi phải đủ để phù hợp với nhịp độ tương đối nhanh, linh hoạt của một số bài:
Bợm gái, Bỏ bộ, Xin hoa, Đố chữ…Cách mở khẩu hình trong Hát Xoan là phải
vừa phải, không quá to cũng không quá nhỏ, sử dụng môi và lưỡi linh hoạt để
làm rõ chữ. Sự đa dạng của các bài bản, làn điệu thuộc giọng lề lối và giọng
11
ngoài lề lối của Hát Xoan, bắt buộc đào kép phải có kỹ năng hát điêu luỵên mới
thực hiện được các bài bản làn điệu với nội dung và tính chất khác nhau.
3) Giá trị văn hóa của nghệ thuật hát Xoan
Hát Xoan là di sản văn hóa phi vật thể quý báu của vùng đất Tổ Phú Thọ nói
riêng và trong kho tàng di sản văn hóa dân tộc Việt Nam nói chung. Hát Xoan là
loại hình dân ca nghi lễ, phong tục, là hình thức nghệ thuật đa yếu tố: Ca nhạc,
hát, múa phục vụ nhu cầu tín ngưỡng của cộng đồng. Hát Xoan có bề dày lịch
sử, có tổ chức nghệ thuật chặt chẽ, khơng gian văn hóa rộng lớn và sức lan tỏa
mạnh mẽ khắp cộng đồng. Với những giá trị nổi bật toàn cầu, ngày 24/11/2011,
tại Hội nghị lần thứ 6 của Ủy ban liên chính phủ về Bảo tồn Di sản văn hóa phi
vật thể của UNESCO tổ chức tại Bali - Indonesia, Hồ sơ Hát Xoan - Phú Thọ
của Việt Nam đã được cơng nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Hát Xoan cũng như các hình thức dân ca khác là một hiện tượng của văn hoá
dân gian nói chung và âm nhạc dân gian nói riêng của người Việt ở đồng bằng
Bắc Bộ. Nó đã ra đời và được nuôi dưỡng trong môi trường sinh thái tự nhiên và
môi trường lịch sử- kinh tế xã hội nhiều nghìn năm, ít nhất là khi cộng đồng
người Việt đặt chân cư trứ ở vùng đồng bằng sông Hồng. Trải qua thời đại các
vua Hùng với nhà nước Văn Lang Âu Lạc, thời đại độc lập tự chủ của nhà nước
Đại Việt và thời đại nhà nước phong kiến toàn thịnh dưới triều Hậu Lê cho đến
khi chế độ phong kiến suy tàn ở Việt Nam, vào cuối thế kỷ XIX, Hát Xoan vẫn
hiện diện qua những biến thiên của lịch sử, vần tồn tại trong đời sống tinh thần
của dân tộc. Điều đó chứng tỏ sức sống bên trong, sự biến đổi theo hướng thích
nghi để tồn tại của văn hố dân gian Việt Nam nói chung và thể loại Hát Xoan
nói riêng.
12
13