Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Đào tạo nhân lực ngành bảo hiểm đáp ứng yêu cầu hội nhập và cách mạng 4.0

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.19 KB, 8 trang )

ĐÀO TẠO NHÂN LỰC NGÀNH BẢO HIỂM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
HỘI NHẬP VÀ CÁCH MẠNG 4.0
TS. Hồng Bích Hồng1

Tóm tắt: Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ trên thế
giới và có tác động trực tiếp tới Việt Nam. Đây là cơ hội để thúc đẩy nền kinh tế phát triển thơng qua việc đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tăng cường khả năng thu hút các nguồn lực về vốn, công nghệ,
kinh nghiệm quản lý…, đồng thời cũng mở ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp vươn ra thị trường thế giới.
Ngành bảo hiểm cũng khơng nằm ngồi xu thế đó, tính đến nay đã có 64 doanh nghiệp bảo hiểm với nhiều
hình thức sở hữu đang hoạt động, các doanh nghiệp ngày càng mở rộng quy mô và từng bước vươn ra thị
trường quốc tế. Tuy nhiên, ngành bảo hiểm cũng phải đối mặt với nhiều thách thức như cạnh tranh gay gắt
giữa các doanh nghiệp về thị phần và nhân lực, thiếu nguồn nhân lực có chun mơn và chất lượng cao. Điều
đó địi hỏi các cơ sở đào tạo, đặc biệt là các trường đại học (có đào tạo ngành bảo hiểm) phải có các biện pháp
kịp thời nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động.
Từ khóa: đào tạo, nhân lực, ngành bảo hiểm, hội nhập, cách mạng 4.0.
Abstract: The 4th Industrial Revolution and international economic integration are happening strongly
in the world and having a direct impact on Vietnam. This is an opportunity to promote the development
of the economy through promoting the industrialization and modernization of the country, enhancing the
ability to attract capital, technology, management experience from abroad... as well as bring opportunities
for businesses to reach the foreign market. Insurance industry is not out of that trend; up to now, there are
64 insurance enterprises with many kinds of ownership, which are expanding their scale and reaching out to
the international market. However, the insurance industry faces many challenges such as fierce competition
among enterprises on market share and human resources, lack of professional and high qualified human
resources. This problem requires training institutions, especially universities (with insurance industry
training) to take timely measures to improve the quality of training, to meet the needs of the labor market.
Keywords: training; human resources; insurance industry; integration; revolution 4.0.


1. VÀI NÉT VỀ THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM
Bảo hiểm có vai trị quan trọng trong nền kinh tế, kinh tế càng phát triển thì nhu cầu về bảo
hiểm càng gia tăng, bởi khơng có một cá nhân hay tổ chức nào có thể biết trước và phịng tránh


hồn tồn rủi ro, và bảo hiểm là phương thức hiệu quả giúp họ có nguồn tài chính đủ lớn khắc
phục hậu quả của những rủi ro đó. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm thời gian qua đã cho thấy sự
1

Email: , Khoa Bảo hiểm,Trường Đại học Lao động – Xã hội.


433

PHẦN 3: MÔI TRƯỜNG VẬN HÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TRONG DOANH NGHIỆP

lớn mạnh không ngừng của ngành bảo hiểm và ngành bảo hiểm còn rất nhiều tiềm năng phát triển
trong tương lai, có thể thấy điều đó qua việc gia tăng của số lượng, quy mơ và doanh thu phí của
các doanh nghiệp bảo hiểm.
Bảng 1. Một số chỉ tiêu về thị trường bảo hiểm
2015
Tổng số doanh nghiệp bảo hiểm

2016

2017

61

63

64

202.378


248.247

316.300

Doanh thu phí bảo hiểm (tỷ đồng)

70.162

87.364

107.821

Đầu tư trở lại nền kinh tế (tỷ đồng)

160.258

198.150

247.815

2,02

2,29

2,64

584.719

603.089


786.795

Tổng tài sản (tỷ đồng)

Đóng góp vào GDP (%)
Số việc làm được tạo ra (người)

(Nguồn: Cục Quản lí và Giám sát Bảo hiểm, Bộ Tài chính)
Các chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động của thị trường bảo hiểm đều cho thấy xu hướng phát
triển của thị trường bảo hiểm ở Việt Nam, nó cũng phù hợp với xu hướng chung của các quốc gia
phát triển trên thế giới, tuy nhiên, tốc độ phát triển của ngành chưa tương xứng với tiềm năng. Mặc
dù tốc độ tăng trưởng doanh thu phí bảo hiểm đều tăng trên 20% mỗi năm, nhưng so sánh năm
2017 với 2016 thì tốc độ tăng doanh thu phí thấp hơn tốc độ tăng số người làm việc trong ngành
bảo hiểm, nói cách khác, năng suất lao động theo doanh thu phí giảm. Điều đó cho thấy, u cầu
về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành bảo hiểm là tất yếu, để tạo nên sự phát triển ổn định
của thị trường bảo hiểm, trước bối cảnh công nghiệp 4.0 và hội nhập kinh tế quốc tế.
Chiến lược thị trường bảo hiểm Việt Nam 2015-2020 đã chỉ rõ, công tác phát triển nguồn nhân
lực bảo hiểm Việt Nam là một yêu cầu quan trọng. Thị trường bảo hiểm cần xây dựng và phát triển
nguồn nhân lực với cơ cấu, trình độ hợp lý, năng động, có năng lực nhằm đảo bảo năng lực cạnh
tranh của thị trường Việt Nam trong giai đoạn hội nhập với thị trường quốc tế. Nguồn nhân lực của
thị trường bảo hiểm có thể được phân chia thành 2 nhóm là cán bộ và đại lý bảo hiểm, trong đó, số
cán bộ chiếm khoảng 4% tổng số.
Theo số liệu điều tra của Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo bảo hiểm, Cục Quản lý và giám
sát bảo hiểm năm 2015, đối với nhóm cán bộ bảo hiểm, về trình độ: đại học chiếm 79%, trên đại
học chiếm 5%, còn lại là cao đẳng, trung cấp 16%; Về độ tuổi: trung bình là 30; Về thâm niên công
tác tại doanh nghiệp bảo hiểm: 50% cán bộ có thâm dưới 3 năm, 5% thâm niên từ 3-5 năm, 35%
thâm niên từ 5 năm trở lên. Đối với nhóm đại lý, về trình độ bao gồm phổ thơng trung học, trung
cấp, cao đẳng và đại học trở lên, trong đó số lượng đại lý có trình độ tốt nghiệp phổ thông trung học
chiếm nhiều nhất, thứ hai là nhóm đại lý tốt nghiệp từ đại học trở lên, mức độ duy trì đại lý thấp,
đặc biệt là trong khối các DNBH nhân thọ, theo số liệu thống kê của các doanh nghiệp bảo hiểm

thì sớ lượng đại lý gia nhập và rời khỏi thị trường bảo hiểm trong một năm là tương đương nhau,
số đại lý bảo hiểm nhân thọ duy trì thời gian từ 3 năm trở lên chỉ chiếm 12%.
Nhìn một cách tổng quát, nguồn nhân lực hiện có của ngành bảo hiểm đã đáp ứng nhu cầu cơ
bản cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm của từng doanh nghiệp bảo hiểm và của thị trường bảo


434

QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0

hiểm Việt Nam, góp phần phát triển thị trường với tốc độ tăng trưởng bình qn ln ở mức 2 con
số. Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số hạn chế:
- Số cán bộ được đào tạo chuyên sâu về bảo hiểm còn thấp, kể cả ở cấp độ quản lý và cán bộ
chuyên môn, nhiều cán bộ nghiệp vụ tốt nghiệp từ các ngành khác, điều đó ảnh hưởng đến chất
lượng cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, đội ngũ đại lý phần lớn là tốt nghiệp phổ
thông trung học, kể cả đại lý có trình độ trung cấp và cao đẳng thì cũng khơng được đào tạo chun
mơn về bảo hiểm (vì hiện tại khơng có trường đào tạo chuyên ngành bảo hiểm ở trình độ này), họ
chỉ được đào tạo ngắn ngày về sản phẩm để chào bán ra thị trường, hơn nữa để có doanh thu cao
nên họ tìm mọi cách để bán được sản phẩm, chưa tư vấn đầy đủ cho người lao động dẫn đến tình
trạng hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn hoặc khiếu nại ở khách hàng, gây ra những ảnh hưởng không
tốt đối với các doanh nghiệp bảo hiểm.
- Số lượng doanh nghiệp bảo hiểm tăng nhanh trong khi đó số lượng các cơ sở đào tạo về bảo
hiểm không nhiều và chưa chuyên sâu đã gây thiếu hụt nghiêm trọng nguồn nhân lực chất lượng
cao cho thị trường bảo hiểm, dẫn đến hiện tượng chuyển dịch nhân sự cấp cao giữa các doanh
nghiệp, gây xáo trộn hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm. Do thiếu hụt nguồn
nhân lực chất lượng cao, có kinh nghiệm khan hiếm, các doanh nghiệp cạnh tranh quyết liệt trong
việc thu hút nhân sự (về chế độ đãi ngộ, lương, môi trường làm việc), ảnh hưởng đến hoạt động
kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ.
- Các doanh nghiệp bảo hiểm chưa triển khai xây dựng vị trí việc làm, chưa xác định nhu
cầu về nhân sự nên khơng có cơ sở để xác định nhu cầu về số và chất lượng nhân lực của toàn thị

trường bảo hiểm. Hầu hết các doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường, nhất là các doanh nghiệp quy
mơ nhỏ chưa có được hệ thống tổ chức chuẩn mực, nên chưa xây dựng hệ thống mô tả công việc,
tiêu chuẩn và yêu cầu cơng việc cụ thể đối với từng vị trí cơng việc, do đó thiếu cơ sở cho việc xác
định nhu cầu nhân sự trong hiện tại và cả tương lai. Khi chưa xác định được cầu lao động thì cũng
khó để có được nguồn cung phù hợp.
- Đại lý bảo hiểm chưa được thực sự coi là một nghề, đa phần là đại lý bán thời gian, khơng
có ý định gắn bó lâu dài nên chưa làm hết chức trách của đại lý, ảnh hưởng đến sự phát triển của
hệ thống đại lý bảo hiểm theo hướng chuyên nghiệp.
2. ẢNH HƯỞNG CỦA CÁCH MẠNG 4.0 VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ ĐỐI VỚI NGÀNH BẢO HIỂM
Mặc dù ngành bảo hiểm là ngành cung cấp dịch vụ nhưng việc tiêu dùng sản phẩm bảo hiểm
lại có đặc thù, khác hẳn với các sản phẩm dịch vụ khác, khách hàng phải đóng phí bảo hiểm vào
đầu kì, ngay khi kí kết hợp đồng bảo hiểm, nhưng việc hưởng dịch vụ (nhận tiền bồi thường/chi
trả) phải sau này mới được nhận, hoặc thậm chí khơng được nhận nếu rủi ro khơng xảy ra, vì vậy,
để khách hàng tin tưởng, tự nguyện mua bảo hiểm thì việc cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp bảo
hiểm cần phải đảm bảo tính chuyên nghiệp, thường xuyên có sự thay đổi cho phù hợp với nhu cầu
của khách hàng. Cuộc cách mạng 4.0 và hội nhập kinh tế quốc tế sẽ mang lại cơ hội nhưng cũng
đem đến thách thức lớn cho các doanh nghiệp bảo hiểm, ảnh hưởng đến mọi mặt của ngành Bảo
hiểm, như vấn đề ứng dụng công nghệ thông tin vào các cơng đoạn của một chu trình sản phẩm
dịch vụ bảo hiểm, hay vấn đề cạnh tranh với các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngồi - có nguồn
vốn lớn và kinh nghiệm lâu năm…


PHẦN 3: MÔI TRƯỜNG VẬN HÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TRONG DOANH NGHIỆP

435

Kỹ thuật số và robot thế hệ mới sẽ tác động lớn tới chu trình của sản phẩm bảo hiểm. Ở giai
đoạn tìm hiểu thị trường, thiết kế sản phẩm, việc sử dụng dữ liệu lớn (Big Data), và ứng dụng vạn
vật kết nối mang lại những phân tích tin cậy, chính xác và nhanh hơn nhiều so với các phương
pháp truyền thống trước đây. Từ đó, các doanh nghiệp bảo hiểm thiết kế và phát triển được những

sản phẩm bảo hiểm mang tính cá thể hố cao, phù hợp với nhu cầu đa dạng của thị trường. Đến
giai đoạn giới thiệu, chào bán sản phẩm, ngoài các kênh truyền thống như quảng cáo sản phẩm
trên các phương tiện thông tin đại chúng, đại lý…, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ đẩy mạnh kênh phân
phối qua giao dịch điện tử, như sử dụng kênh mạng xã hội để hỗ trợ việc tiếp cận và tương tác với
khách hàng thì sẽ nhanh và độ bao phủ rộng hơn rất nhiều. Bên cạnh đó, trí tuệ nhân tạo và dữ liệu
lớn sẽ giúp tối ưu hóa sản phẩm cho mỗi khách hàng, lập bảng minh họa phí bảo hiểm và quyền
lợi hưởng, hỗ trợ hồn thiện thủ tục, tiết kiệm thời gian và chi phí cho cả hai bên. Ngay khi khách
hàng đồng ý tham gia bảo hiểm, nhờ có cơ sở dữ liệu lớn, doanh nghiệp bảo hiểm có thể tra xuất
dữ liệu về khách hàng nhanh chóng, hệ thống cịn cung cấp cơ sở dữ liệu giúp đánh giá rủi ro, trên
cơ sở đó tính phí bảo hiểm cho khách hàng một cách hợp lý nhất.
Sở hữu nguồn dữ liệu lớn cũng giúp các doanh nghiệp bảo hiểm phòng tránh, ngăn ngừa trục
lợi bảo hiểm hoặc hành vi lựa chọn bất lợi, như phát hiện bảo hiểm trùng, lịch sử tham gia bảo
hiểm... Đến giai đoạn phục vụ sau bán hàng, các công cụ trực tuyến giúp quản trị hợp đồng bảo
hiểm mọi nơi, mọi lúc, rất thuận tiện cho khách hàng. Sử dụng robot nhận và xử lý tự động những
yêu cầu, trả lời những thắc mắc của khách hàng; công nghệ định vị, địa phương hóa, cá thể hố
chăm sóc khách hàng...
Mặc dù cách mạng 4.0 và hội nhập kinh tế quốc tế mang lại cho ngành bảo hiểm nhiều lợi
ích nhờ công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ như gia tăng kênh bán hàng, phương tiện tương
tác, cơ hội có được cơ sở dữ liệu lớn, toàn diện, giúp giảm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động
của doanh nghiệp bảo hiểm, hay doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam có thể vươn ra thị trường quốc
tế…, nhưng cũng mang lại nhiều rủi ro cho thị trường bảo hiểm. Thứ nhất, tự động hóa sẽ làm cho
ngành bảo hiểm cần sử dụng ít lao động đi, một bộ phận người lao động khơng có trình độ chun
mơn hoặc khơng thích ứng được với những thay đổi nhanh chóng của thị trường sẽ bị đào thải. Thứ
hai, sự phát triển của khoa học, công nghệ trong các lĩnh vực như Vật lý, Y học, Sinh học… sẽ làm
giảm rủi ro cho con người, hơn nữa, ứng dụng công nghệ hiện đại giúp các cá nhân, doanh nghiệp
quản lý rủi ro tốt hơn, khi đó nhu cầu về bảo hiểm sẽ giảm, các doanh nghiệp bảo hiểm phải đối
mặt với nguy cơ khách hàng rút khỏi thị trường bảo hiểm truyền thống. Thứ ba, vấn đề về an ninh
mạng, cơ sở dữ liệu cá nhân, khi vấn đề bảo mật không được làm tốt hoặc khi có những sự cố đối
với cơ sở dữ liệu, các thông tin của doanh nghiệp hoặc khách hàng có thể bị đánh cắp, ảnh hưởng
tới việc kinh doanh cũng như uy tín của doanh nghiệp. Thứ tư, doanh nghiệp bảo hiểm trong nước

(có quy mơ vốn nhỏ và ít kinh nghiệm) phải cạnh tranh quyết liệt với các doanh nghiệp bảo hiểm
nước ngồi (có quy mơ nguồn vốn lớn và kinh nghiệm hoạt động), không chỉ cạnh tranh để chiếm
lĩnh thị phần mà còn cạnh tranh để giữ chân nguồn nhân lực chất lượng cao.
Để đáp ứng nhu cầu của thị trường bảo hiểm trong thời gian tới, địi hỏi nhân lực ngành bảo
hiểm phải khơng ngừng học hỏi, rèn luyện để thích ứng với những thay đổi. Trước hết, cán bộ
bảo hiểm cần am hiểu chuyên môn, công nghệ thông tin và ngoại ngữ, ở mỗi bộ phận thậm chí là
mỗi vị trí khác nhau, cán bộ bảo hiểm cần có am hiểu sâu về chuyên mơn của cơng việc do mình


436

QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0

đảm nhận, sử dụng và khai thác nguồn dữ liệu của đơn vị và thành thạo ngoại ngữ để học hỏi kinh
nghiệm, làm việc với đối tác nước ngồi. Bên cạnh đó, cán bộ bảo hiểm cần có tính năng động,
sáng tạo, chủ động, dễ dàng thích nghi với những cơng nghệ mới, nhạy bén với sự thay đổi của thị
trường và có thái độ tích cực với cơng việc.
3. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NHÂN LỰC NGÀNH BẢO HIỂM
Đối với hoạt động đào tạo nhân lực cho ngành bảo hiểm, có thể chia thành hai nhóm, đào tạo
chính quy dài hạn trong các trường đại học và đào tạo bồi dưỡng kiến thức chuyên môn nghiệp vụ
ngắn hạn tại Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo bảo hiểm, Bộ Tài chính và các trung tâm thuộc các
cơng ty bảo hiểm.
- Đối với đào tạo chính quy tại các trường đại học
Hoạt động bảo hiểm tồn tại ở Việt Nam từ rất lâu, song suốt cả một thời kỳ dài chỉ có hai đơn
vị tham gia thực hiện, đó là Bảo Việt - thực hiện các nghiệp vụ bảo hiểm thương mại và hệ thống
bảo hiểm xã hội (thuộc Bộ Lao đông - Thương binh và Xã hội và Tổng Liên đồn lao động Việt
Nam) thực hiện loại hình BHXH. Sau khi nhà nước chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, nhiều lĩnh
vực kinh tế- xã hội, trong đó có bảo hiểm, chuyển sang hoạt động theo nguyên tắc của kinh tế thị
trường, theo đó ngành bảo hiểm có những bước phát triển đáng kể. Sau năm 1995, thị trường bảo
hiểm có sự tham gia của nhiều loại hình doanh nghiệp bảo hiểm, các sản phẩm bảo hiểm ngày

càng đa dạng, đáp ứng nhu cầu của xã hội, bên cạnh đó là sự ra đời của hệ thống cơ quan BHXH,
với nhiệm vụ là tổ chức thực hiện chế độ, chính sách BHXH…, theo đó nhu cầu về nhân lực cho
ngành bảo hiểm ngày càng gia tăng.
Hiện tại, ở phía Bắc, chỉ có một số trường đại học có đào tạo ngành bảo hiểm như: Đại học
Kinh tế quốc dân, Học viện Tài chính, Đại học Lao động - Xã hội, ở phía Nam có Trường Đại học
Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, quy mơ tuyển sinh hệ đại học khoảng 600 sinh viên/năm, cao học
và nghiên cứu sinh là 25 người/năm. Đối với hệ đại học, đối tượng tuyển sinh là học sinh tốt nghiệp
phổ thông trung học, thời gian đào tạo là 4 năm, chương trình đào tạo gồm 120 tín chỉ. Chương
trình đào tạo do các trường đại học xây dựng dựa trên cơ sở chương trình khung của Bộ Giáo dục
và Đào tạo, gồm hai khối kiến thức là kiến thức giáo dục đại cương và kiến thức giáo dục chuyên
nghiệp, trong đó khối kiến thức giáo dục chuyên nghiệp bao gồm: (i) Kiến thức cơ sở ngành và
khối ngành, (ii) Kiến thức ngành/chuyên ngành, (iii) Kiến thức bổ trợ (có thể có), (iii) Thực tập và
khóa luận/thi/học thay thế thi tốt nghiệp và khối kiến thức này tối thiểu là 64%. Do chương trình
được phân bổ thành các khối kiến thức nên việc đưa các học phần vào chương trình đào tạo cịn bị
cứng nhắc, các học phần ở các khối kiến thức cơ sở ngành, kiến thức bổ trợ ở các trường còn phụ
thuộc vào thế mạnh của các trường nên số lượng các học phần chuyên ngành về bảo hiểm còn thấp,
chủ yếu là kiến thức lý thuyết, các chương trình đào tạo vẫn chưa cung cấp đủ những kiến thức và
kỹ năng nâng cao để sinh viên ra trường có thể nhanh chóng tiếp cận với cơng việc và có khả năng
thích ứng với những thay đổi.
Theo đánh giá của nhiều cơ quan, doanh nghiệp trong ngành bảo hiểm, tại các trường đại học
chương trình đào tạo vẫn chưa bám sát nhu cầu của ngành bảo hiểm, có thể nhận thấy khoảng cách
tương đối lớn giữa kiến thức sinh viên được học ở trường đại học và công việc thực tế khi đi làm.
Nội dung đào tạo chủ yếu là lý thuyết, chưa thực sự chú trọng giới thiệu các khía cạnh liên quan


PHẦN 3: MÔI TRƯỜNG VẬN HÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TRONG DOANH NGHIỆP

437

đến công việc thực tế của cán bộ DNBH, sinh viên chưa nắm bắt được những vướng mắc thực tế đã

và đang xảy ra trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm, các vụ việc điển hình trên thực tế cũng chưa
được nghiên cứu đầy đủ để đưa vào giảng dạy. Quá trình đào tạo các nghiệp vụ bảo hiểm chưa có sự
định hướng nghề nghiệp tốt nên chưa có cơ sở để phân cơng bố trí cán bộ mới cho phù hợp với từng
nghiệp vụ/vị trí việc làm. Chất lượng đầu vào của đội ngũ cán bộ bảo hiểm còn hạn chế, sinh viên tốt
nghiệp ra trường chưa thể làm việc được ngay, do đó, các cơ quan, doanh nghiệp sau khi tuyển dụng
thường phải tiến hành đào tạo lại.
- Đối với đào tạo nghiệp vụ ngắn hạn tại các trung tâm
Các trung tâm tham gia vào hoạt động đào tạo ngắn hạn hiện nay có thể được chia thành hai hệ
thống, một là Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo bảo hiểm, thuộc Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm,
Bộ Tài chính và các trung tâm đào tạo của các công ty bảo hiểm.
Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo bảo hiểm có chức năng tổ chức thực hiện các hoạt động
nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức của Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm. Tổ chức thi cấp chứng chỉ đào tạo đại lý bảo hiểm; Tư
vấn về đào tạo, bồi dưỡng liên quan đến lĩnh vực bảo hiểm cho tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
Trung tâm đào tạo của các công ty bảo hiểm chủ yếu là đào tạo đại lý cho chính cơng ty, nội
dung và thời gian đào tạo dựa trên quy định khung của Bộ Tài chính.
Các đại lý sau khi được đào tạo, để có thể hành nghề thì phải hoàn thành kỳ thi do Trung tâm
Nghiên cứu và Đào tạo bảo hiểm tổ chức và được cấp chứng chỉ. Sau khi hành nghề, các đại lý
vẫn phải thường xuyên cập nhật kiến thức tại doanh nghiệp. Tuy nhiên, hạn chế trong công tác đào
tạo đại lý hiện nay là số lượng đại lý được cập nhật kiến thức tại doanh nghiệp sau khi đã được
cấp chứng chỉ hành nghề chỉ chiếm mợt nửa; mức độ duy trì đại lý bảo hiểm rất thấp, hàng năm
số lượng đại lý thi cấp chứng chỉ đại lý bảo hiểm để được gia nhập đội ngũ đại lý còn lớn hơn số
lượng đại lý đang hoạt động hiện hữu. Doanh nghiệp bảo hiểm phải bỏ ra chi phí khá lớn để đào
tạo và phát triển đội ngũ đại lý, song họ không gắn bó với nghề gây lãng phí xã hội.
4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO NHÂN LỰC NGÀNH BẢO HIỂM
Để có nguồn nhân lực chất lượng cao cung cấp cho thị trường bảo hiểm, đáp ứng yêu cầu của
cuộc cách mạng 4.0 và hội nhập kinh tế quốc tế, các cơ sở đào tạo bảo hiểm cần thực hiện đồng
bộ nhiều giải pháp.
Thứ nhất, xây dựng tiêu chuẩn đối với các vị trí trong doanh nghiệp bảo hiểm
Để có thể xác định chính xác cầu về lao động của thị trường bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo

hiểm cần xác định và xây dựng tiêu chuẩn chuyên mơn bảo hiểm đối với các vị trí then chốt trong
doanh nghiệp, như: Hội đồng quản trị; Ban điều hành doanh nghiệp (Tổng giám đốc, Phó tổng
giám đốc…); Lãnh đạo các ban nghiệp vụ; Chuyên gia tính phí… Mặt khác, các doanh nghiệp bảo
hiểm cần xây dựng hệ thống tổ chức chuẩn mực, từ đó xây dựng hệ thống mơ tả công việc; tiêu
chuẩn và yêu cầu công việc cụ thể đối với từng vị trí nhân sự. Việc xây dựng các tiêu chuẩn này
phải được thực hiện bắt buộc ở các doanh nghiệp bảo hiểm, được pháp luật quy định, điều đó vừa
giúp các doanh nghiệp lựa chọn được ứng cử viên có chất lượng, vừa giúp các cơ sở đào tạo xây
dựng chiến lược đào tạo nhân lực, đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp, giảm chi phí đào tạo
lại cho các doanh nghiệp.


438

QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
Thứ hai, hồn thiện nội dung, chương trình đào tạo
- Đối với đào tạo bậc đại học

Trong điều kiện thời lượng chương trình đào tạo đã được quy định cứng, để cung cấp đủ
những kiến thức và kỹ năng nâng cao để sinh viên ra trường có thể nhanh chóng tiếp cận với cơng
việc và có khả năng thích ứng với những thay đổi, có thể nghiên cứu giảm bớt các nội dung mang
tính lý luận, bổ sung những kiến thức thực tiễn cần thiết như:
+ Luật pháp, thông lệ, tập quán quốc tế về kinh doanh bảo hiểm; các tổ chức, thị trường bảo
hiểm… có ảnh hưởng lớn tới hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Nội dung này tuy có được đề cập tới
trong nội dung của một số môn học nhưng chưa có tính chun sâu.
+ Đánh giá rủi ro. Trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm, đánh giá rủi ro là công việc rất cần
thiết, quyết định chủ yếu đến kết quả kinh doanh, trong khi đối tượng bảo hiểm lại rất đa dạng và
phức tạp, nhưng gần như các chương trình đào tạo bảo hiểm khơng có học phần giảng dạy riêng
biệt cho nội dung này, có chăng chỉ được lồng ghép trong nội dung của một số nghiệp vụ bảo hiểm.
+ Thực hành kĩ năng nghề nghiệp. Các chương trình đào tạo gần như khơng có học phần thực
hành riêng biệt. Mặc dù việc xây dựng và áp dụng vào giảng dạy học phần thực hành không phải

đơn giản, các trường khơng có điều kiện để có các trung tâm thực hành riêng nên ở học phần này,
yêu cầu sinh viên phải giải quyết các trường hợp giả định, trên cơ sở nghiên cứu các vị trí công
việc mà sinh viên đảm nhận sau khi ra trường và công việc thực tế ở các cơ quan, doanh nghiệp
bảo hiểm. Như vậy, sinh viên có thể hình dung được công việc sẽ làm trong tương lai, kết nối được
các kiến thức lý thuyết đã học với thực tiễn.
+ Kiến thức và kĩ năng bổ trợ nâng cao. Có nhiều kiến thức và kĩ năng chuyên sâu cần thiết
cho sinh viên chuyên ngành như: đạo đức nghề nghiệp, marketing bảo hiểm, kỹ năng đàm phán,
thuyết trình… đặc biệt là kiến thức về công nghệ thông tin và ngoại ngữ. Những kiến thức này sinh
viên có thể học ngoại khóa hoặc học thêm ngoài trường, Nhà trường chỉ cần quy định chuẩn đầu
ra mà sinh viên cần đạt được để được tốt nghiệp.
- Đối với đào tạo nghiệp vụ ngắn hạn
 Xây dựng chương trình đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ, tương ứng với từng nhóm vị trí chức
danh, trên cơ sở yêu cầu về các chứng chỉ, trình độ chuyên mơn họ cần đạt được, như nhóm lãnh
đạo doanh nghiệp; nhóm cán bộ quản lý nghiệp vụ; nhóm cán bộ nghiệp vụ; nhóm đại lý. Nội dung
đào tạo phải thường xuyên được cập nhật cho phù hợp với nhu cầu thị trường và xu hướng phát triển
của ngành bảo hiểm. Đa dạng hóa các hình thức đào tạo, như đào tạo không tập trung, trực tuyến…
Thứ ba, tăng cường phối kết hợp với các doanh nghiệp bảo hiểm trong quá trình tổ chức đào tạo
Bảo hiểm là ngành được gọi là ngành “kinh doanh rủi ro”, mà trong cuộc sống cũng như trong
lao động, sản xuất, kinh doanh, con người phải đối mặt với rất nhiều rủi ro khác nhau, do đó nghiệp
vụ bảo hiểm rất đa dạng và phức tạp, việc giải quyết các tình huống phát sinh phải nhanh chóng,
chính xác, điều đó địi hỏi người làm bảo hiểm phải có kiến thức sâu rộng về nhiều lĩnh vực, vì vậy,
ngồi những kiến thức lí luận, sinh viên cần được trang bị kiến thức thực tế. Để tăng cường trang bị
cho sinh viên kiến thức thực tế, có thể mời các chuyên gia, cán bộ bảo hiểm nhiều kinh nghiệm ở
các tổ chức bảo hiểm giảng dạy một số nội dung của một số học phần về nghiệp vụ bảo hiểm, hoặc


PHẦN 3: MÔI TRƯỜNG VẬN HÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TRONG DOANH NGHIỆP

439


giảng dạy các chuyên đề chuyên sâu, đây cũng là cơ hội chia sẻ kinh nghiệm giữa chuyên gia, cán
bộ bảo hiểm và giảng viên, cơ hội để doanh nghiệp, tổ chức bảo hiểm quảng bá hình ảnh, thương
hiệu của mình, tạo sự gắn kết giữa tổ chức bảo hiểm và nhà trường. Bên cạnh việc tham gia giảng
dạy, các tổ chức bảo hiểm cịn có thể hỗ trợ nhà trường trong việc cung cấp số liệu thống kê, hồ sơ
của một số ca điển hình, làm tài liệu giảng dạy và học tập cho sinh viên.
Chương trình đào tạo đại học nói chung và ngành bảo hiểm nói riêng đều có một học phần bắt
buộc là thực tập nghề nghiệp, thời gian thực tập nghề nghiệp từ 14 tuần đến 16 tuần, mục đích là
gửi sinh viên về các tổ chức bảo hiểm để được thực hành nghề nghiệp. Để sinh viên thực sự được
hành nghề, cần sự hỗ trợ từ phía các tổ chức bảo hiểm trong việc bố trí cơng việc phù hợp cho sinh
viên, cho phép sinh viên được tham gia vào các khâu thực hiện nghiệp vụ, ví dụ như được cùng
các cán bộ bảo hiểm xuống hiện trường vụ tai nạn giao thông để thực hành qui trình giám định tổn
thất, tính tốn bồi thường thiệt hại…
Kinh doanh bảo hiểm là ngành dịch vụ cao, luôn phải đối mặt với những rủi ro, bất trắc, do
đó, nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng, quyết định đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Để có thể đáp ứng yêu cầu của thị trường, sinh viên cần được trang bị những kiến thức, kĩ năng
để làm việc trong một môi trường năng động và nhiệm vụ của các trường đại học đào tạo chuyên
ngành bảo hiểm là luôn phải tìm cách nâng cao chất lượng đào tạo. Bên cạnh đó, những người đã
làm việc trong ngành bảo hiểm cũng cần thường xuyên học tập nâng cao trình độ, góp phần phát
triển ngành Bảo hiểm Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.

Bộ Tài chính, Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam 2011 - 2020.

2.

Bộ Tài chính, Thị trường bảo hiểm Việt Nam năm 2017.

3.


Chương trình đào tạo bảo hiểm của các trường: ĐH Kinh tế quốc dân, ĐH Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh; Học
viện Tài chính; ĐH Lao động - Xã hội.

4.

Chu Thị Bích Ngọc, “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam trong cuộc Cách mạng Cơng nghiệp 4.0”,
Tạp chí Tài chính, tháng 8/2018.

5.

Trịnh Thị Hoa Mai, Liên kết đào tạo giữa trường đại học với doanh nghiệp ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học Đại
học Quốc gia Hà Nội, số 24, 2008.

6.

Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo bảo hiểm, Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thị trường bảo hiểm Việt Nam
giai đoạn 2015-2020, trang web: www.mof.gov.vn, ngày 29/3/2017



×