MỤC LỤC
Trang
PHẦN I: GIỚI THỆU
PHẦN II: CƠ SỞ LÝ LUẬN
PHẦN III: NỘI DUNG
1. Thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay
1.1. Về số lượng nguồn nhân lực
1.2. Về chất lượng nguồn nhân lực
1.3. Về sử dụng nguồn nhân lực
2. Các giải pháp nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực ở Việt Nam
đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế
2.1. Thực hiện chính sách “chiêu hiền, đãi sỹ”, khai thác triệt để lao động
trí tuệ
2.2. Thực hiện chính sách ưu đãi để thu hút lao động đã qua đào tạo đến
làm việc ở các vùng nông thôn, miền núi
2.3. Thực hiện tuyển dụng và sắp xếp cán bộ “đúng người, đúng việc”
2.4. Thực hiện chính sách tuyển dụng và sử dụng lao động phải gắn với
cơ chế thị trường có sự quản lý, hướng dẫn của Nhà nước
2.5. Tập trung đào tạo nguồn nhân lực chất lượng tốt để sử dụng đạt hiệu
quả cao nhất
2.5.1. Đổi mới hệ thống giáo dục và đào tạo
2.5.2. Mở rộng quy mô đi đôi với nâng cao chất lượng và hiệu quả
của giáo dục và đào tạo.
2.5.3. Phát hiện và đào tạo nhân tài có hiệu quả
2.5.4. Phát triển số lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
2.5.5. Đầu tư thỏa đáng cho giáo dục và đào tạo
PHẦN IV: KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
3
7
7
7
8
10
12
12
13
14
14
15
16
17
19
19
20
22
24
1
PHẦN I: GIỚI THỆU
Ngày 7 tháng 11 năm 2006, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ
150 của Tổ chức thương mại thế giới (gọi tắt là WTO), bên cạnh những cơ hội mới sẽ
đến, chúng ta không khỏi lo ngại về những thách thức đang chờ đón. Một trong
những vấn đề được đề cập nhiều nhất là nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự phát triển của
mọi nền kinh tế. Không có nguồn nhân lực, không thể vươn lên. Nhưng nguồn nhân
lực đó thiếu trình độ, cũng không thể vươn lên.
Lịch sử thế giới đã chứng kiến những sức mạnh khác nhau để một quốc gia
trở nên hùng mạnh. Sức mạnh của vó ngựa đã từng giúp Mông Cổ hay đế chế
Ottaman bá chủ một thời. Tiếp đó, sức mạnh của những cánh buồm rộng lớn đã giúp
Tây Ban Nha hay Bồ Đào Nha thống trị thế giới. Rồi đến sức mạnh của những chiếc
động cơ hơi nước đã giúp nước Anh chiếm lĩnh khắp nơi để họ có thể nói “Mặt trời
không bao giờ lặn trên đất Anh”. Tất cả đã lùi vào dĩ vãng. Ngày nay, tất cả những
quốc gia trên thế giới trở nên hùng mạnh đều nhờ vào một yếu tố: đó là tri thức.
Nhìn lại Việt Nam, với dân số hiện nay trên 80 triệu người, trong đó 56% dân
số ở độ tuổi dưới 30, gần 80% dân số ở độ tuổi dưới 40. Đó là những độ tuổi khát
khao học tập nhất, khả năng tiếp thu, cống hiến và làm nên những thay đổi tốt nhất.
Đáng buồn thay, số người đã qua đào tạo chỉ chiếm 17,5% trong tổng số lao
động của cả nước; 2,2% trong tổng số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật chưa
có việc làm; chỉ có khoảng 70% số người có trình độ đại học, cao đẳng và trung học
chuyên nghiệp làm việc đúng ngành nghề đào tạo; 30% cán bộ, nhân viên không đủ
trình độ chuyên môn, hoặc làm không đúng nghề. Đội ngũ công nhân có khoảng 1,76
triệu người làm việc trong khu vực kinh tế quốc doanh và khoảng 3,64 triệu người
làm việc ở khu vực ngoài quốc doanh. Tuy vậy, trong số công nhân ở khu vực quốc
doanh, chỉ có khoảng 50% được đào tạo tại các trường dạy nghề.
Thêm vào đó, việc sử dụng lao động còn nhiều điều bất hợp lý: chưa thật sự
coi trọng người tài giỏi, phân bố cán bộ còn mất cân đối, tuyển dụng và sắp xếp cán
bộ, người lao động chưa “đúng người, đúng việc”, chưa chú trọng đến công tác giáo
dục và đào tạo nguồn nhân lực.
2
Từ những thực trạng trên cho thấy, nguồn nhân lực ở nước ta dồi dào về số
lượng, thiếu về chất lượng và sử dụng không hiệu quả. Như vậy, vấn đề đặt ra là:
chúng ta lấy gì để tồn tại và phát triển trong một “thế giới phẳng” nhưng cạnh tranh
khốc liệt như hiện nay. Câu trả lời là, chúng ta phải nhanh chóng đào tạo nguồn nhân
lực chất lượng cao và sử dụng nó một cách tốt nhất. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài
“Những giải pháp nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực ở Việt Nam đáp ứng
yêu cầu hội nhập quốc tế” làm tiểu luận cho môn học kinh tế vi mô.
PHẦN II: CƠ SỞ LÝ LUẬN
3
Việt Nam có nguồn nhân lực phong phú, con người Việt Nam cần cù, thông
minh, chịu khó, có nhiều khả năng. Nếu sử dụng tốt sẽ làm cho kinh tế phát triển, làm
cho dân giàu nước mạnh. Song, thực tế cho thấy, chúng ta chưa làm tốt điều này.
Chính vì vậy, đề tài này tập trung nghiên cứu những mặt hạn chế trong việc sử dụng
nguồn nhân lực ở Việt Nam và trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp nhằm sử dụng có
hiệu quả nguồn nhân lực ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Cơ sở lý luận của đề tài này là nếu chúng ta sử dụng có hiệu quả nguồn nhân
lực thì năng suất biên (MP) sẽ lớn hơn năng suất trung bình (AP), khi đó sẽ làm cho
năng suất trung bình (AP) tăng lên. Do đó, kinh tế của quốc gia sẽ phát triển.
Như vậy, một vấn đề đặt ra là: Tại sao khi năng suất biên (MP) lớn hơn năng
suất trung bình (AP), thì khi đó năng suất trung bình (AP) tăng lên?
Để làm rõ vấn đế này, chúng ta hãy phân tích quá trình sản xuất lúa của một
nông dân được thể hiện ở bảng 1 như sau:
Bảng 1: Mối quan hệ giữa số lượng yếu tố đầu vào và sản lượng
Diện tích đất (ha)
K (1)
Lao động (người)
L (2)
q
(3)
MP
L
(4)
AP
L
(5)
1 1 3 3 3,0
1 2 7 4 3,5
1 3 12 5 4,0
1 4 16 4 4,0
1 5 19 3 3,8
1 6 21 2 3,5
1 7 22 1 3,1
1 8 22 0 2,8
1 9 21 -1 2,3
1 10 15 -6 1,5
Trong đó:
K: đất đai; L: lao động; q: sản lượng
MP
L
: năng suất biên của lao động
AP
L
: năng suất trung bình của lao động
Để sản xuất ra lúa, giả sử người nông dân cần hai yếu tố đầu vào chủ yếu là
đất đai (K) và lao động (L). Rõ ràng để sản xuất ra lúa, người nông dân còn cần nhiều
4
yếu tố khác như: phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc cỏ, v.v. Tuy nhiên, để cho đơn giản
giả định các yếu tố này không đổi.
Bảng 1 mô tả mối quan hệ giữa số lượng đất đai, lao động và sản lượng lúa
(q). Giả sử diện tích đất được giữ cố định ở một đơn vị (01 ha chẳng hạn) và số
lượng lao động được sử dụng trong sản xuất tăng dần từ 1 đến 10. Rõ ràng, nếu
không có lao động nào thì quá trình sản xuất không diễn ra và sản lượng (q) sẽ bằng 0
(hay không đáng kể).
Khi sử dụng 1 lao động, sản lượng tăng lên 3 đơn vị, ta nói năng suất biên
(MP) của người lao động thứ nhất là 3. Khi tăng số lao động lên 2, sản lượng tăng từ
3 lên 7 đơn vị, ta nói năng suất biên của người lao động thứ hai là 4 (= 7 - 3). Khi
tăng số lao động lên 3, sản lượng tăng từ 7 lên 12 đơn vị, ta nói năng suất biên của
người lao động thứ ba là 5 (= 12 – 7). Tuy nhiên, khi số lao động từ 4 trở lên, năng
suất biên của lao động giảm dần. Điều này có thể được giải thích như sau:
Cột (4) trong bảng 1 cho thấy, năng suất biên phụ thuộc vào số lao động
được sử dụng. Số lao động không thể tăng mãi trong khi diện tích đất và các yếu tố
đầu vào khác (máy móc, phân bón, thuốc trừ sâu, v.v) giữ nguyên mà không làm
giảm năng suất biên của lao động. Với diện tích đất là 01 ha, người lao động đầu tiên
có cả 01 ha đất để làm và diện tích đó là quá sức đối với anh ta nên năng suất của anh
ta không cao. Với sự giúp đỡ của người thứ hai hay thứ ba, mọi người sẽ sản xuất ra
nhiều hơn nên năng suất biên của những người này tăng dần. Với 3 lao động, diện
tích đất có thể vừa đủ để mọi người làm việc hết sức mình và mỗi người chuyên tâm
làm công việc theo kỹ năng của mình như cắt lúa, vận chuyển và phơi lúa. Khi số lao
động tăng lên 4, diện tích đất cũng như số công cụ lao động phải được chia sẻ cho
mỗi người và họ sẽ không được làm việc hết khả năng của mình. Sản lượng sẽ tăng
chậm hơn và năng suất biên của người thứ tư giảm xuống. Rõ ràng, khi thêm nhiều
lao động thì mỗi lao động chỉ có ít vốn và diện tích để làm việc, thời gian chết nhiều
hơn và mỗi người khó có thể làm việc theo khả năng của mình nên năng suất biên cứ
giảm dần. Cho đến người thứ tám, công việc của người này có thể là mang thức ăn và
nước uống cho những người khác nên hầu như sản lượng không tăng lên nữa và năng
suất biên của anh ta bằng 0. Ở những mức lao động cao hơn, tình trạng lãng công có
thể xảy ra nên sản lượng có thể giảm sút và năng suất biên có thể âm.
5
Cột thứ (5) trong bảng 1 mô tả năng suất trung bình của lao động (AP
L
), tức
là sản lượng tính trên mỗi đơn vị lao động. Năng suất trung bình của lao động lúc đầu
tăng lên nhưng sau đó giảm đi khi số lao động từ 4 trở lên. Điều này có thể được giải
thích như sau:
Giả sử một lao động duy nhất của một nông trang có thể cắt được 3 công
lúa/ngày, ta nói năng suất trung bình của người này là 3 công/ngày/người. Khi thuê
thêm một lao động nữa, lúc này số lao động làm việc cho nông trang là 2 người, cả 2
người cắt được 7 công lúa/ngày nên năng suất biên của người thứ hai là 4, cao hơn
năng suất trung bình của người thứ nhất nên sẽ làm năng suất trung bình của cả hai
người tăng lên, lúc này là 3,5 công/ngày/người. Như vậy, rõ ràng khi năng suất biên
(MP) lớn hơn năng suất trung bình (AP), thì khi đó năng suất trung bình (AP) tăng
lên.
Khi số lao động làm việc cho nông trang là 4 người, năng suất trung bình của
lao động đạt giá trị cực đại là 4 công/ngày/người. Nếu chủ nông trại thuê thêm người
thứ 5, người này có năng suất biên là 3 đơn vị, thấp hơn năng suất trung bình của 4
người đầu nên năng suất trung bình của 5 người giảm xuống còn 3,8 đơn vị.
Tóm lại, năng suất trung bình của lao động tăng lên khi năng suất biên của
lao động lớn hơn năng suất trung bình của lao động. Ngược lại, năng suất trung bình
của lao động giảm xuống khi năng suất biên của lao động thấp hơn năng suất trung
bình của lao động. Năng suất trung bình của lao động đạt giá trị cực đại khi năng suất
biên của lao động bằng với năng suất trung bình của lao động.
Từ bảng 1, ta vẽ được đồ thị đường tổng sản lượng, năng suất biên của lao
động và năng suất trung bình của lao động (đồ thị 1).
Đồ thị 1 cho thấy, tại điểm ứng với số lao động là 4, năng suất trung bình của
lao động bằng với năng suất biên của lao động (AP
L
= MP
L
), khi đó năng suất trung
bình của lao động đạt cực đại. Với số lao động thấp hơn 4, năng suất biên của lao
động lớn hơn năng suất trung bình của lao động (MP
L
> AP
L
), khi đó năng suất trung
bình của lao động sẽ tăng lên nếu gia tăng số lượng lao động. Với số lao động lớn
hơn 4, năng suất biên của lao động nhỏ hơn năng suất trung bình của lao động (MP
L
< AP
L
), khi đó năng suất trung bình của lao động giảm dần nếu sử dụng thêm lao
động.
6
Đồ thị 1: Đường sản lượng, năng suất biên của lao động
và năng suất trung bình của lao động
Trên cơ sở lý luận như vậy, phần tiếp theo của đề tài (phần III) đi vào
nghiên cứu hai vấn đề cụ thể: một là, thực trang nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện
nay; hai là, các giải pháp nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực ở Việt Nam đáp
ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
PHẦN III: NỘI DUNG
7
q
22
16
12
3 4 8
5
4
3 4 8
1. Thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay
1.1. Về số lượng nguồn nhân lực
Số lượng nguồn nhân lực được phản ánh qua quy mô dân số, lực lượng lao
động và tốc độ gia tăng dân số trong một thời kỳ nhất định. Theo số liệu thống kê
những năm gần đây, dân số Việt Nam hiện nay trên 80 triệu người, mức tăng dân số
hàng năm khoảng 1,5% và lực lượng lao động tăng bình quân trên 3%/năm. Điều này
cho thấy, tốc độ tăng dân số và lực lượng lao động của nước ta khá cao và liên tục,
nên nguồn bổ sung vào đội ngũ lao động là rất lớn. Trên thực tế, quy mô nguồn lao
động nước ta còn lớn hơn mức gia tăng của lực lượng lao động bởi vì số người ra
khỏi độ tuổi lao động hàng năm vẫn có nhu cầu việc làm. Đây là thuận lợi nếu xét từ
góc độ cung ứng số lượng lao động, đồng thời cũng là khó khăn nếu nền sản xuất xã
hội không đáp ứng đủ việc làm cho người lao động.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do trong nhiều thập kỷ nước ta có tốc độ
tăng dân số cao, trong khi đó nền sản xuất xã hội lại kém phát triển, không đáp ứng
được yêu cầu phân công lao động xã hội. Mặt khác, ngoài số lao động gia tăng tự
nhiên hàng năm, những người ngoài lực lượng lao động như: người về hưu, trẻ em,
học sinh đang đi học tại các trường chuyên nghiệp cũng có nhu cầu việc làm khá lớn.
Ngoài ra, cần thấy rằng cơ cấu kinh tế nước ta về cơ bản vẫn là thuần nông (khoảng
70% lao động nông nghiệp, 30% lao động phi nông nghiệp) mà đất canh tác bình
quân lại thấp (0,1 ha/1 lao động) nên hệ số sử dụng quỹ thời gian lao động bình quân
cho một lao động nông thôn rất thấp.
Hiện tại, lực lượng lao động tăng thêm hàng năm trên 1 triệu người, cộng với
trên 2 triệu lao động hiện chưa có việc làm thường xuyên, tiếp nữa để đảm bào đủ
việc làm cho người lao động ở nông thôn, tận dụng hết quỹ thời gian lao động cần có
thêm xấp xỉ 8 triệu chỗ làm việc. Do đó, sức ép về việc làm ở nước ta hiện nay là rất
lớn.
Tóm lại, quy mô dân số đông, lực lượng lao động dồi dào, đó là sức mạnh
của quốc gia, là yếu tố cơ bản để mở rộng và phát triển sản xuất. Nhưng đối với các
nước chậm phát triển, trong đó có nước ta, khả năng mở rộng và phát triển sản xuất
rất hạn chế, nguồn vốn, trang thiết bị, nguyên nhiên vật liệu thiếu thốn nhiều, cơ sở
8
hạ tầng yếu kém...v.v. thì nguồn lao động đông và tăng nhanh lai gây sức ép việc làm
rất lớn. Tình trạng thừa lao động, thiếu việc làm là bài toán nan giải mà nước ta đã,
đang và sẽ phải tiếp tục giải quyết trong những thập kỷ tới.
1.2. Về chất lượng nguồn nhân lực
Chất lượng nguồn nhân lực được phản ánh chủ yếu qua sức mạnh của trí tuệ,
đây là yếu tố quan trọng nhất quyết định chất lượng của nguồn lao động, đặc biệt
trong điều kiện trí tuệ hóa lao động như hiện nay.
Nhìn chung, người Việt Nam có tư chất thông minh, sáng tạo, có khả năng
vận dụng và thích ứng nhanh, đó là ưu thế nổi trội của nguồn nhân lực nước ta.
Những phẩm chất này khẳng định năng lực trí tuệ của người Việt Nam có thể theo
kịp tốc độ phát triển của công nghệ hiện đại. Nếu được đào tạo và sử dụng hợp lý,
người lao động nước ta có khả năng làm chủ được các loại hình công nghệ từ đơn
giản đến phức tạp và hiện đại. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, nhiều nhà đầu tư
nước ngoài, người lao động Việt Nam nhanh nhạy hơn nhiều so với các nước trong
khu vực.
Tuy nhiên, phải khách quan thừa nhận rằng, năng lực chuyên môn, trình độ
tay nghề, khả năng biến tri thức thành kỹ năng lao động nghề nghiệp của người lao
động nước ta còn rất hạn chế. Nguyên nhân chính là do mặt bằng dân trí ở nước ta
còn thấp, tốc độ nâng cao dân trí trong nhiều năm qua hết sức chậm chạp. Đáng lo
ngại hơn là, mặc dù trong suốt mấy chục năm qua chúng ta đã cố gắng nhiều để đạt
được tỷ lệ hơn 90% dân số biết chữ, nhưng hiện nay lại diễn ra quá trình tái mù chữ
nghiệm trọng, nhất là ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa. Tình trạng này sẽ đẻ ra
những hậu quả lớn nhường nào sau 10-15 năm nữa. Bởi lẽ, chính thế hệ trẻ hiện nay
sẽ là những chủ nhân tương lai của đất nước.
Mặt khác, số lượng lao động ở nước ta tuy đông nhưng đại bộ phận chưa
được đào tạo đầy đủ, đến cuối năm 2003 số người được đào tạo mới chỉ chiếm
17,5% tổng số lao động cả nước và hiện vẫn còn 3,74% lao động không biết chữ.
Trong cơ cấu đội ngũ lao động ở các cơ sở sản xuất, đội ngũ công nhân và lao động
giản đơn chiếm 82%; đội ngũ các nhà kỹ thuật, quản lý, phát minh và đổi mới công
nghệ chỉ chiếm 18%; trong khi đó tỷ lệ tương ứng ở các nước phát triển là 28% và
72%.
9
Như vậy, chưa nói đến chất lượng đào tạo và sự phù hợp giữa kiến thức đào
tạo trước đây với việc làm hiện nay ra sao, mà chỉ riêng những chỉ số trên đã cho thấy
tỷ lệ lao động được đào tạo ở nước ta là quá thấp. Đáng lưu ý là số lao động được
đào tạo đã thấp mà hiện tại vẫn còn 2,2% trong tổng số lao đông có trình độ chuyên
môn kỹ thuật chưa có việc làm. Thêm vào đó, chỉ có khoảng 70% số người có trình
độ đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp làm việc đúng ngành nghề đào tạo.
Ở khu vực hành chính sự nghiệp và bộ máy sản xuất kinh doanh khu vực nhà
nước hiện có khoảng 30% cán bộ, nhân viên không đủ trình độ chuyên môn hoặc làm
không đúng nghề, làm việc chủ yếu bằng kinh nghiệm. Tình hình này làm cho chất
lượng nguồn lao động càng thêm hạn chế.
Đội ngũ công nhân ở nước ta vừa nhỏ bé về số lượng lại vừa yếu về chất
lượng. Hiện nay, đội ngũ công nhân có khoảng 1,76 triệu người làm việc trong khu
vực kinh tế quốc doanh và khoảng 3,64 triệu người làm việc ở khu vực ngoài quốc
doanh, trong đó có khoảng gần 2 triệu công nhân kỹ thuật. Đây là lực lượng lao động
quan trọng, trực tiếp vận hành thiết bị, máy móc, các công nghệ hiện đại của các
ngành kinh tế-kỹ thuật. Tuy vậy, trong số công nhân ở khu vực quốc doanh, chỉ có
khoảng 50% được đào tạo tại các trường dạy nghề, số còn lại được tuyển dụng bằng
nhiều con đường khác nhau, không qua thử tay nghề. Ngoài ra, có thể thấy rằng, đội
ngũ công nhân nước ta chưa có văn hóa lao động công nghiệp, hạn chế về trình độ tổ
chức, tay nghề, thiếu tính kỷ luật và trách nhiệm nghề nghiệp. Đó chính là thực trạng
đáng lo ngại.
Đội ngũ tri thức tuy chưa nhiều nhưng những năm gần đây phát triển khá
nhanh. Lao động có trình độ cao đẳng trở lên tăng từ 800.000 năm 1995 lên 1,3 triệu
người năm 2000; số tiến sĩ chuyên ngành và tiến sĩ khoa học tăng từ 9.300 người năm
1995 lên 13.500 người năm 2000. Còn theo số liệu của Hội đồng chức danh nhà nước
năm 2002 thì đến cuối năm 2002, cả nước có hơn 1000 giáo sư và khoảng 4000 phó
giáo sư, trong đó có một số người là chuyên gia đầu ngành về khoa học, kỹ thuật và
công nghệ đạt trình độ quốc tế. Còn theo thống kê của Bộ Nội Vụ thì tính đến tháng
11 năm 2004, cả nước có khoảng 5479 giáo sư, phó giáo sư được công nhận, trong đó
số lượng giáo sư, phó giáo sư đang làm việc là 3075 người. Đó là những con số đáng
mừng, là nguồn vốn quý giá của đất nước mà không phải các nước đang phát triển
10