Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

TIỂU LUẬN vấn đề PHÁT HIỆN, bồi DƯỠNG và sử DỤNG NHÂN tài, NHÌN từ TRUYỀN THỐNG đến HIỆN đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.8 KB, 13 trang )

TIỂU LUẬN - VẤN ĐỀ PHÁT HIỆN, BỒI DƯỠNG
VÀ SỬ DỤNG NHÂN TÀI, NHÌN TỪ TRUYỀN THỐNG
ĐẾN HIỆN ĐẠI
1.1. Quan niệm về nhân tài:
ác tư liệu lịch sử để lại cho thấy từ xa xưa, dân tộc Việt Nam đã có truyền
thống trọng dụng và đãi ngộ nhân tài. Trong Văn bia ở Văn Miếu - Quốc
Tử Giám do Thân Nhân Trung soạn thảo nêu rõ: “Hiền tài là nguyên khí
quốc gia. Ngun khí thịnh thì thế nước mạnh và càng lớn lao, ngun
khí suy thì thế nước yếu mà càng xuống thấp. Bởi vậy, các bậc vua tài
giỏi đời xưa, chẳng có đời nào lại khơng chăm lo ni dưỡng và đào tạo
nhân tài bồi đắp thêm nguyên khí”. Tuy nhiên, cho đến nay quan niệm về
nhân tài vẫn có nhiều cách tiếp cận khác nhau.
Theo định nghĩa của Từ điển Hán ngữ hiện đại: “Nhân tài là người
có tài năng và đạo đức; có một sở trường nào đó”. Quan niệm khác lại
cho rằng: “Nhân tài là những người có tài năng, năng lực vượt trội ở lĩnh
vực nào đó: kinh tế, chính trị, xã hội, khoa học... và có đóng góp cho xã
hội”
Trong Cương yếu quy hoạch nhân tài trung và dài hạn 2010-2020
do Chính phủ Trung Quốc ban hành ngày 06/6/2010 cho rằng: “Nhân tài
là những người có tri thức hoặc kỹ năng chun mơn nhất định, tiến hành
lao động sáng tạo và có đóng góp cho xã hội, là người lao động có tố chất
và năng lực tương đối cao trong nguồn nhân lực”.
Tiếp cận từ góc độ “tài năng”, tác giả Nguyễn Huy Tú cho rằng:
“Tài năng là một tổ hợp thuộc tính được cấu tạo nên do sự tương tác của
các tổ hợp cơ bản những thuộc tính nhân cách, đó là trí thơng minh cao,
tính sáng tạo cao, động cơ mạnh và năng lực chuyên biệt vượt trội với
hiệu quả tác động của các yếu tố môi trường là xã hội, gia đình, trường
học và bạn bè”(3). Người tài năng là người có được các tổ hợp thuộc tính

1



nêu trên và đó sẽ là tiền đề cho sự hình thành có chất lượng cao những
hoạt động của mình trong xã hội và vì xã hội.
Như vậy, tài năng là một cơ cấu mở bao gồm khơng chỉ có trí thơng
minh cao, tính sáng tạo cao, động cơ mạnh mẽ và năng lực chuyên biệt
vượt trội, mà còn phải gồm các hiệu ứng tâm lý - nhân cách - xã hội của
các quan hệ gia đình, nhà trường, bạn bè và xã hội.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam (năm 2005), các thuật ngữ năng
lực, tài năng và thiên tài được hiểu như sau:
Năng lực: là “đặc điểm của cá nhân thể hiện mức độ thông thạo tức là có thể thực hiện một cách thành thục và chắc chắn một hay một số
dạng hoạt động nào đó. Năng lực gắn liền với những phẩm chất về trí
nhớ, tính nhạy cảm, trí tuệ, tính cách của cá nhân. Năng lực có thể phát
triển trên cơ sở năng khiếu (đặc điểm sinh lý của con người, trước hết là
của hệ thần kinh trung ương), song không phải là bẩm sinh, mà là kết quả
phát triển của xã hội và của con người”.
Tài năng: “là sự kết hợp hoàn thiện nhất các năng lực nhất định đối
với một hoạt động nhất định, giúp con người đạt được những thành tựu
xuất sắc, mới mẻ, có ý nghĩa xã hội. Tài năng biểu thị chất lượng cao của
năng lực, có thể biểu hiện trong bất cứ lĩnh vực hoạt động nào, thông qua
đào tạo chu đáo và luyện tập công phu, hoạt động thực tiễn phong phú,
phát triển tối đa các tố chất tương ứng”.
Thiên tài: là “tài năng sáng tạo ở trình độ cao nhất; đồng thời khái
niệm này còn chỉ nhân tài bẩm sinh. Một tác phẩm thiên tài là một tác
phẩm có tính chất hết sức mới mẻ và độc đáo, có ý nghĩa lịch sử đặc biệt
đối với sự phát triển của xã hội lồi người. Do đó, nó để lại những ấn
tượng mạnh mẽ, sâu sắc. Một người được coi là thiên tài là người đã có
được những tác phẩm sáng tạo như thế, là một con người có những khả
năng xuất chúng, có những cố gắng rất lớn, nhạy cảm với những vấn đề

2



nóng bỏng của thời đại, của xã hội, biết thể hiện và thoả mãn được những
nhu cầu quan trọng nhất của xã hội”.
Như vậy, năng lực, tài năng, thiên tài là những cấp độ thể hiện sự
phát triển năng lực ở một con người cụ thể. Tuy nhiên, việc xem xét,
đánh giá năng lực, tài năng, thiên tài của một con người phải mang tính
lịch sử cụ thể, trong những quan hệ và điều kiện nhất định. Tức là năng
lực, tài năng của một người để hồn thành một cơng việc hay một lĩnh
vực hoạt động, đạt kết quả, hiệu quả, chất lượng cao, hoặc rất cao trong
một giai đoạn nhất định..
Từ những quan niệm nêu trên, có thể định nghĩa: Nhân tài là người
có năng lực (kiến thức, kỹ năng, thái độ) để hoàn thành xuất sắc một hoặc
một số nhiệm vụ nhất định trong một ngành, một lĩnh vực cụ thể, có lý
tưởng chính trị, mục đích sống trong sáng vì xã hội, đóng góp tài năng
của mình cho sự phát triển xã hội, được xã hội thừa nhận, trọng dụng và
tôn vinh. Nhân tài là người hội tụ đủ cả năng lực và phẩm chất, vừa có
đức vừa có tài.
1.2. Các yếu tố xác định nhân tài
Con người nói chung, nhân tài nói riêng trong q trình hình thành,
phát triển, trưởng thành đều sự chịu sự tác động của ba yếu tố: thứ nhất,
di truyền của hai dòng tộc cha và mẹ; thứ hai, sự ảnh hưởng của môi
trường tự nhiên và môi trường xã hội; thứ ba, sự phát huy các tố chất cá
nhân (sự nỗ lực, thích ứng, tính năng động, sáng tạo...). Ba yếu tố này có
quan hệ gắn bó, tác động qua lại, thúc đẩy, tạo tiền đề cho nhau và đóng
vai trị cốt lõi đối với sự phát triển và trưởng thành ở mỗi con người nói
chung, góp phần hình thành nên năng lực trí tuệ, năng lực thực tiễn và
phẩm chất đạo đức của mỗi cá nhân.
Để xác định nhân tài, cần dựa trên các nhóm năng lực sau:


3


- Năng lực trí tuệ: thể hiện ở sự thơng minh, có năng lực tư duy tốt,
có khả năng khái quát tổng hợp cao; khả năng phán xét sự việc và dự báo
xa; khả năng tiếp thu nhanh, nhớ lâu, hiểu kỹ, phản xạ nhanh, linh hoạt.
Đặc biệt, phải có tư duy sáng tạo cao, ln kiên trì theo đuổi cái mới. Tư
duy sáng tạo là phẩm chất cao quý của nhân tài, họ luôn nhạy bén, nắm
bắt các thông tin và làm chủ các tri thức mới. Chúng ta có thể sử dụng bộ
tiêu chí đánh giá chỉ số thơng minh (IQ) để xác định năng lực trí tuệ của
một người.
- Năng lực thực tiễn: thể hiện qua việc có kỹ năng giao tiếp tốt, biết
lựa chọn những thơng tin bổ ích, biết diễn đạt và trình bày vấn đề rõ ràng,
rành mạch; kỹ năng quan sát thực tế tốt và đánh giá sự việc đúng đắn…
Trên thực tế, để đánh giá năng lực thực tiễn của cá nhân, có thể áp dụng
các cơng cụ để đo lường chỉ số cảm xúc trí tuệ (EQ) và căn cứ vào cơng
trạng, thành tích, kết quả cơng việc được xã hội thừa nhận.
Người có tài năng phải có sự kết hợp giữa những đặc điểm mang
tính bẩm sinh (tố chất) và những phẩm chất được hình thành thơng qua
q trình rèn luyện, tu dưỡng, học tập, tiếp thu... từ xã hội, cộng đồng.
Trong đó, những phẩm chất được hình thành qua q trình giáo dục, rèn
luyện, tu dưỡng... giữ vai trị quyết định. Nhiều nghiên cứu khoa học đã
khẳng định tất cả mọi người phát triển bình thường đều tiềm ẩn những
năng khiếu khác nhau, đều có khả năng trở thành người có tài năng. Tuy
nhiên, những năng khiếu đó chỉ ở dạng tiềm năng nếu không được tiếp
tục bồi đắp, rèn luyện trong môi trường giáo dục của nhà trường, gia đình
và xã hội. Do vậy, yếu tố giáo dục của nhà trường và gia đình; sự nỗ lực
rèn luyện, tu dưỡng trong mơi trường xã hội đóng vai trị đặc biệt quan
trọng trong việc hình thành nhân cách của cá nhân.
- Phẩm chất đạo đức: người có tài năng chỉ thật sự có ích cho xã

hội nếu người đó có lịng nhân ái, giàu tình thương, chan hồ với mọi
người; ln có động cơ trong sáng, vì những mục tiêu cao cả, vì cộng
4


đồng; có hồi bão, ý chí, nghị lực, bản lĩnh, có tinh thần trách nhiệm, lịng
nhiệt huyết, đam mê, có tâm với công việc và không tư lợi cá nhân, theo
đuổi suốt đời mục tiêu, lý tưởng của mình.
1.3. Vị trí nhân tài trong xã hội và kinh nghiệm tuyển chọn
nhân tài của ông cha ta.
Từ xưa đến nay, nhân tài ln đứng ở vị trí trung tâm của xã hội và
đóng vai trị quan trọng đối với sự hưng thịnh của mỗi quốc gia. Đất nước
ngàn năm văn hiến đã sản sinh ra nhiều hiền tài mang trong mình bản sắc
văn hóa Việt Nam, đó là bản chất anh hùng, thông minh, sáng tạo trong đấu
tranh và lao động, trong cuộc sống thì giàu lịng nhân ái, trong sáng, thủy
chung. Điều đó đã được dân tộc ta nhiều lần chứng minh, khi đất nước gặp
khó khăn, người lãnh đạo đất nước quy tụ nhiều hiền tài ra giúp dân, giúp
nước thì dù đất nước có gặp mn vàn thử thách, gian nan cũng sẽ vượt qua.
Qúa trình phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài là hạt nhân quan
trọng trong phương sách giữ nước và kiến thiết quốc gia, là vấn đề chiến
lược xuyên suốt trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Thuật ngữ “nhân tài” không chỉ được dùng để chỉ những người có
học vấn cao, có bằng cấp cao về mặt chun mơn mà theo nghĩa rộng hơn
cịn bao hàm những người có tài thuộc mọi tầng lớp. Có thể hiểu nhân tài là
những người có tài năng vượt trội, có những đóng góp lớn cho xã hội. Theo
đó, nhân tài trước hết phải là những người có nhân cách, thơng minh, trí tuệ
phát triển, có một số phẩm chất nổi bật mà ít người có; đồng thời phải là
người giàu tính sáng tạo, có tư duy độc đáo, sắc sảo mà người bình thường
khơng có, có khả năng dự báo và suy diễn tốt, giải quyết các công việc
nhanh, chính xác, mang lại hiệu quả rất cao. Tóm lại, nhân tài là người mang

đầy đủ hai mặt “đức và tài”, là người nổi trội trong xã hội.
Trải qua một nghìn năm Bắc thuộc, các triều đại phong kiến nước ta
đã chịu những ảnh hưởng nhất định về cách thức phát hiện và tuyển chọn
nhân tài, trong đó ảnh hưởng của Nho giáo là sâu đậm nhất. Nho giáo cho
5


rằng khi tiến cử nhân tài thì: “bên trong tiến cử khơng kể người thân, bên
ngồi tiến cử khơng kể thù ốn, khảo xét căn cứ vào cơng sức, năng lực, cứ
có tài năng, đức độ là tiến cử, khơng trông mong vào báo đáp của người
được tiến cử…Gột rửa tấm thân để thấm nhuần đạo đức, lời nói chân thực,
thẳng thắn thì phục tùng nghe theo, tĩnh tại mà ngay thẳng,…thương dân
khép mình vào khn phép. Xả thân vì nước, biết đại để mà nhìn xa trơng
rộng, khơng tư tình trong việc dùng người, bồi dưỡng nhân tài, đêm ngày
giữ phép công, không xâm phạm vào của công…”. Những tư tưởng tích cực
của Nho giáo trong việc xây dựng nhân cách người qân tử và trong vấn đề
phát hiện, tuyển chọn nhân tài cho đến nay vẫn còn những giá trị nhất định.
Tuy nhiên, trong quan niệm của Nho giáo còn nhiều điểm hạn chế cần khắc
phục, nhất là tư tưởng “Tam cương, ngũ thường”, “trọng nam, khinh nữ”…
là những tư tưởng lạc hậu, lỗi thời cần loại bỏ.
Mặc dù chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo nhưng bản sắc văn
hóa Việt Nam vẫn được gìn giữ. Trong việc tuyển chọn hiền tài của ơng
cha ta vẫn có những đặc trưng của dân tộc Việt Nam. Phát huy truyền
thống hiếu học và kính trọng hiền tài, các triều đại phong kiến ở Việt Nam
đã có nhiều sáng tạo trong phát hiện, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ hiền tài.
Khi nghiên cứu các văn bia trong Quốc tử giám cho thấy, hầu hết các văn
bia đều khẳng định quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa nhân tài với
sự hưng vong của đất nước. Sự diễn tả tuy có khác nhau nhưng đều khẳng
định nhân tài nảy nở từ trong lịng dân tộc. Trong bài kí đề tên tiến sĩ khoa
thi năm 1478, Đông các đại học sĩ Thân Nhân Trung đã nói: “Thần trộm

nghĩ, nhân tài phồn thịnh vốn có quan hệ đến khí hóa trời đất và cốt ở cái
gốc giáo hóa của thánh nhân. Bởi vì, khi có khí hóa của trời đất thì chân
nguyên hội hợp, gây dựng chứa chất thì mới sinh ra nhân tài đông đảo như
thế”.
Việc cầu hiền được các triều đại phong kiến hết sức chú trọng.
Năm 1076, vua Lý Nhân Tơng xuống chiếu cầu người nói thẳng, cất nhắc
6


những người hiền lương văn võ cho quản quân dân. Năm 1072, vua Trần
Thánh Tơng xuống chiếu tìm người tài giỏi, đạo đức, thông hiểu kinh
sách làm Tư nghiệp Quốc tử giám, có thể giảng bài, ý nghĩa của Tứ thư,
Ngũ kinh, sung vào nơi vua đọc sách. Năm Kỷ Dậu (1492), vua Lê Thái
Tổ xuống chiếu cầu hiền với nhận thức rằng “Đất nước thịnh vượng tất ở
việc cử hiền. Người làm vua thiên hạ phải lo việc đó trước tiên”. Thời
Tây Sơn, vua Quang Trung đã ban “ Chiếu học” khẳng định “ việc dựng
nước lấy học làm đầu, trị dân lấy nhân tài làm gốc”. Trong “ Chiêu hiền
tài”, nhà vua viết: “ Nhà nước làm chính trị phải dùng người hiền tài,
triều đình dùng người phải xét lời bàn của nhiều người. Ta lưu tâm việc
trị nước, độc ý việc cầu tài”. Đó là những tư tưởng hết sức tiến bộ có tính
dự báo và vượt trước thời đại.
Việc tuyển chọn hiền tài ngay từ xa xưa ông cha ta đã rất quan tâm
và tuyển chọn thơng qua nhiều hình thức linh hoạt khác nhau. Cầu hiền là
hình thức mời gọi người hiền tài; tiến cử là hình thức giao trách nhiệm
cho tất cả mọi người nếu phát hiện được người tài thì báo với vua hoặc
quan cấp trên. Tự tiến cử là tự mình tìm đến vua để trình bày kế sách,
mưu lược và tự giới thiệu về mình (như việc Nguyễn Trãi tìm đến Lam
Sơn gặp Lê Lợi). Thi cử là hình thức tuyển chọn qua các kì thi. Ơng cha
ta rất coi trọng các kỳ thi tuyển, thường chọn những người đạo cao, đức
trọng làm chánh chủ khảo. Việc lựa chọn Trạng nguyên được chính nhà

vua ra đề và chấm thi. Việc sử dụng nhân tài không kể thành phần xuất
thân, như trong văn bia năm 1554 có ghi “ Dùng người hiền tài chẳng nệ
giống nịi là đạo thơng suốt từ xưa tới nay chưa hề thay đổi”.
Để nhận biết nhân tài người xưa đã biết thơng qua một số hồn
cảnh để thử như: phái đi xa để xem sự trung thành, bởi vì đi xa thì khó
đơn đốc, khó kiểm tra, để xem người đó có tự giác, tận tâm với công việc
hay không; hoặc giữ lại gần và không thúc giục xem anh ta có tự giác và
cung kính hay khơng. Hoặc giao cho anh ta nhiều cơng việc có lớn, có
7


nhỏ, có khó, có dễ xem năng lực anh ta tốt xấu thế nào. Đột nhiên đưa ra
một vấn đề bao gồm những ý tưởng kì lạ để xem tri thức, trí tuệ và sự
nhạy cảm của anh ta ra sao. Giao công việc và hẹn thời gian để xem có
giữ chữ tín hay khơng. Cho phép quản lý tiền bạc, vật phẩm có giá trị để
xem có nảy sinh lịng tham hay khơng. Báo cho biết trước sự nguy cấp để
xem khí tiết người đó ra sao. Cho anh ta uống rượu để xem thái độ anh ta
như thế nào. Đặt anh ta vào môi trường nhiều gái đẹp xem anh ta có hiếu
sắc khơng. Thử thách con người qua những hoàn cảnh như trên, cho thấy
việc tuyển chọn nhân tài của người xưa thực sự kỹ càng, toàn diện và
khoa học. Đó là những kinh nghiệm hết sức quý báu trong việc phát hiện,
sử dụng và bổ nhiệm cán bộ ta hiện nay.
Khi đã lựa chọn được nhân tài, việc sử dụng nhân tài là vô cùng qun
trọng. Qúa trình phát triển nhân tài được bắt đầu từ phát hiện, đào tạo, bồi
dưỡng đến sử dụng đãi ngộ nhân tài, trong các khâu này quan trọng nhất là
sử dụng nhân tài. Người xưa đã dựa vào nguyên tắc tùy tài mà giao việc.
Bởi vì tài cao mà giao việc nhỏ dẫn đến nhân tài chán mà bỏ việc, tài nhỏ
mà giao việc lớn thì sẽ hỏng việc; hoặc có tài ở lĩnh vực này lại giao cho
cơng việc ở lĩnh vực khác thì cũng khơng làm được việc. Để tránh kéo bè,
kéo cánh, địa phương chủ nghĩa, ở thời phong kiến đã áp dụng hình thức

định kỳ thuyên chuyển quan lại từ nơi này sang nơi khác. Sau một thời gian
làm việc, triều đình tổ chức sát hạch để đề bạt, bố trí, sử dụng. Một số triều
đại cũng áp dụng hình thức thưởng phạt nghiêm minh như những hình thức
giáo dục để quan lại khơng ngừng tu dưỡng, rèn luyện và vươn lên. Trong
việc sử dụng hiền tài, ông cha ta không chỉ chú trọng vào bằng cấp, mà quan
trọng hơn là chú trọng những người thực tài, vì thế cũng có người tuy khơng
đỗ đạt cao nhưng vẫn được đề bạt lên chức vụ cao.
Bên cạnh việc phát hiện và sử dụng hiền tài, ông cha cũng rất chú
trọng đến vấn đề tôn vinh các bậc hiền tài. Điều đó được thể hiện ở việc tơn
vinh những người có đức, có tài, có cơng lớn với quê hương đất nước.
8


Những người này đều được đích thân nhà vua trọng thưởng tùy theo công
trạng và khi chết đi đều được nhân dân thờ cúng, suy tôn là thần, là thánh…
Việc phát hiện, đào tạo và bồi dưỡng nhân tài ở các triều đại phong
kiến ngày càng được tiến hành một cách chính quy và khoa học, chịu ảnh
hưởng lớn của tư tưởng Nho giáo. Điểm cốt lõi của tư tưởng này là “cử hiền”,
tức là qua thi cử để kén chọn hiền tài, trong giáo dục lấy đào tạo và bồi dưỡng
hiền tài là mục tiêu. Việc giáo dục nhân tài thì tùy khả năng mà giáo dục.
Ngay từ ngày xưa, phương pháp đào tạo nhân tài là khơi gợi và dẫn dắt học
sinh nắm vững tri thức, chủ động hình thành các quan niệm, coi trọng tính
chủ động của người học. Tư tưởng đó rất phù hợp với quan niệm giáo dục
hiện đại ngày nay là biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo.
Vấn đề giáo dục và đào tạo cũng được các triều đại phong kiến rất
quan tâm. Đời nhà Lý, sau khi rời đô về Thăng Long, năm 1070, vua Lý
Thánh Tông đã cho xây dựng Văn Miếu ở kinh đơ và chính nơi này đã trở
thành trường đại học đầu tiên ở nước ta, là nơi đào tạo và tuyển chọn hiền
tài. Tới thời Lê Thánh Tông, trong khu vực Văn miếu, nhà Thái học đã mở
rộng để cho học sinh học tập, lập thư khố đầu tiên để chứa sách. Năm

1484, cho khắc bia ghi danh những người đỗ tiến sĩ để lưu truyền đến đời
sau.
Sau khi đã tuyển chọn được hiền tài, các triều đại phong kiến đều có
quy định về các chức sắc, vị trí trong xã hội phù hợp với học vấn và tài năng
của từng người. Chế độ đãi ngộ với hiền tài cũng hết sức chu đáo: sau khi
danh sách thi đậu được công bố, những người đỗ đạt từ bậc tiến sĩ trở lên đều
được nhà vua đãi yến tại cung đình, được ban mũ áo, tước hiệu kèm theo các
bổng lộc, được rước vinh quy về làng và được bổ nhiệm vào các chức vụ
xứng đáng. Tuy vậy, trong các triều đại phong kiến, do ảnh hưởng của tư
tưởng Nho giáo, nên việc tuyển chọn hiền tài vẫn còn rất nhiều hạn chế.
Trong đào tạo và thi cử, nội dung đào tạo còn nặng về khoa học xã hội nhân
văn, nhẹ về khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật. Thi cử còn quá nặng về
9


phạm trường thi (phạm húy) khiến một số người thực tài không đỗ đạt. Đối
tượng tào đào thường là con nhà quý tộc hoặc giàu có, chưa chú ý đào tạo con
em nhà nghèo, tư tưởng trọng nam khinh nữ rất nặng nề. Một hạn chế lớn của
các triều đại phong kiến phương Đông là vua tôi cùng chung hoạn nạn nhưng
không cùng chung nhau hưởng vinh hoa, phú quý. Điều đó xuất phát từ tư
tưởng cha truyền con nối, sợ người khác chiếm quyền, vì thế mà sinh ra đố
kỵ, trù dập hiền tài.
CHƯƠNG 2: GIẢI PHÁP PHÁT HIỆN VÀ BỒI DƯỠNG
THUYỂN CHỌN NHÂN TÀI TRONG GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG
CƠNG NGHIỆP HĨA HIỆN ĐẠI HĨA
2.1. Quan điểm về lựa chọn và bồi dưỡng nhân tài của Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam
Những kinh nghiệm về phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, sử dụng và
đãi ngộ hiền tài của người xưa, chính là những bài học có giá trị tham
khảo bổ ích và thiết thực trong việc phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và lựa

chọn cán bộ ta ngày nay.
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh ln đánh giá cao vai trị và địa vị
của trí thức, nhân tài. Người khẳng định “Trí thức là vốn liếng quý báu của
dân tộc”. “Kiến thiết cần có nhân tài.Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm
nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài
ngày càng phát triển càng thêm nhiều”. Nhận thức rõ tầm quan trọng của
nhân tài đối với sự hưng thịnh của đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn quan
tâm đến phát triển nhân tài. Trong nhiều văn kiện quan trọng của Đảng và
Nhà nước đã nhấn mạnh mục tiêu của phát triển giáo dục nhằm nâng cao
dân trí, làm cơ sở đào tạo nhân lực và là nguồn gốc để đào tạo và bồi dưỡng
nhân tài trên nền tảng nhân cách tốt đẹp. Phát triển giáo dục và đào tạo
chính là tạo điều kiện để sản sinh ra nhiều nhân tài, làm giàu thêm “nguyên
khí của quốc gia”. Đây chính là mục tiêu và cũng là động lực thúc đẩy đất
nước phát triển nhanh và bền vững. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa
10


IX đã chỉ rõ; “Có cơ chế cụ thể phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi
ngộ xứng đáng các tài năng; mở rộng dân chủ, khuyến khích sáng tạo, phát
minh, sáng kiến và bảo vệ sở hữu trí tuệ…”.
2.2. Giải pháp sử dụng và tuyển chọn, bồi dưỡng nhân tài trong
giai đoạn cách mạng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ngày nay, chúng ta đang tiến hành đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa địi hỏi phải huy động và sử dụng tốt nhiều người hiền tài trên
mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế và xã hội của đất nước. Có
như vậy, nước ta mới nhanh chóng thốt khỏi nghèo đói tiến đến giàu có,
nhân dân ta ngày càng có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đất nước cường
thịnh, sánh vai với cường quốc năm châu. Tuy nhiên, phát triển nhân tài
nước ta hiện nay đang đứng trước những khó khăn rất lớn, bộc lộ nhiều
bất cập ở nhiều phương diện. Nền giáo dục của chúng ta đã có những

bước tiến mạnh mẽ nhưng xã hội vẫn băn khoăn với chất lượng giáo dục
và căn bệnh trầm kha của nó (bệnh thành tích). Chừng nào mà chúng ta
còn chưa tạo được bước đột phá mạnh mẽ nâng cao chất lượng giáo dục,
dạy thực chất, học thực chất, khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục thì
chừng đó việc lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng những học sinh, sinh viên tài
năng vẫn gặp nhiều lực cản. Bên cạnh đó, việc sử dụng và đãi ngộ nhân
tài ở nước ta hiện nay cũng còn nhiều vấn đề phải bàn. Những người tài
chỉ thực sự phát huy tác dụng cao nhất đối với đời sống xã hội nếu được
tạo điều kiện để thể hiện tài năng, mà trước hết là những người lãnh đạo
phải biết cách trọng dụng họ, tạo cho họ điều kiện làm việc thuận lợi, bố
trí cơng việc, vị trí cơng tác hợp lý, sau đó là có chế độ đãi ngộ thỏa đáng,
đồng thời xã hội phải tôn vinh họ. Thực tế ở nước ta những năm qua cho
thấy, nếu khơng có mơi trường, khơng có điều kiện thuận lợi, tài năng có
thể bị thui

chột, khơng phát huy được tác dụng, hoặc dẫn đến tình trạng

“chảy máu chất xám”. Hơn lúc nào hết chúng ta phải trở về với những
kinh nghiệm quý báu của cha ông trong phát hiện, đào tạo, sử dụng và đãi
11


ngộ hiền tài, phải xây dựng một chiến lược phát triển nhân tài, đáp ứng
yêu cầu trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhằm thực
hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Một là, phải tạo điều kiện để phát triển nhân tài. Nhân tài chính là
sản phẩm của một q trình đào tạo, rèn luyện và tự rèn luyện lâu dài và
cơng phu, nên để nhân tài có thể phát triển được cần phải có những điều
kiện.Trước hết và trên hết là phải có một nền giáo dục tiên tiến, có sự kết
hợp hài hịa giữa ba yếu tố gia đình, nhà trường và xã hội cùng quan tâm

đến thế hệ trẻ. Xã hội muốn phát triển thì phải thực sự quan tâm đến phát
triển giáo dục, phát triển toàn diện con người. Một xã hội tiến bộ là một
xã hội thực sự tơn vinh và trọng dụng trí thức, trọng dụng nhân tài, dành
cho mỗi người khả năng lựa chọn mục đích hoạt động, đồng thời dành
cho họ khả năng huy động các nguồn lực để thực hiện mục đích đã đề ra.
Hai là, phải có biện pháp thúc đẩy khả năng nảy sinh và phát triển
nhân tài. Vì bên cạnh những điều kiện đảm bảo thì mơi trường xã hội
thuận lợi là mảnh đất ươm mầm cho những tài năng nở rộ. Một xã hội
lành mạnh là một xã hội mà ở đó những chuẩn mực giá trị của xã hội
được mọi người quan tâm và thực hiện, một xã hội thực sự cơng bằng,
bình đẳng, bác ái, một xã hội khá giả, nhiều người giàu, khơng có người
nghèo, một xã hội mà những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp được tôn trọng.
Sự trọng dụng và tôn vinh của xã hội đối với nhân tài là động lực quan
trọng để làm nảy sinh và phát triển nhân tài. Phải quan tam giáo dục toàn
diện, đặc biệt là giáo dục văn hóa ứng xử đối với mọi người, trang bị kiến
thức chu đáo về con người, về khoa học xã hội nhân văn cho đội ngũ cán
bộ quản lý. Nền tảng giáo dục tồn diện chính là cơ sở vững chắc cho
nhân tài nảy sinh và phát triển.
Ba là, có chính sách phù hợp trong sử dụng vả đãi ngộ nhân tài.
Hiện nay nước ta phải đối mặt với hai vấn đề. Một là sự thiếu hụt đội ngũ
nhân tài. Hai là chưa sử dụng và phát huy hết năng lực của đội ngũ nhân
12


tài hiện có. Điều này địi hỏi trong sử dụng cán bộ phải tuân thủ những
nguyên tắc nhất định. Trước khi giao công việc quan trọng hoặc đề bạt
cán bộ người lãnh đạo nhất thiết phải hiểu rõ cán bộ của mình, phải tin
người nhận nhiệm vụ sẽ hồn thành, nếu khơng tin thì khơng dùng.
Khơng nên vì người mà sinh ra tổ chức mà phải xuất phát từ công việc để
sắp xếp cán bộ. Người lãnh đạo, quản lý phải có lịng bao dung, rộng

lượng, khơng nhỏ nhen, đố kỵ tài năng, không sử dụng người ba phải, đạo
đức giả; phải sáng suốt lựa chọn người trung thực tài năng và đức độ. Sau
một thời gian sử dụng phải sát hạch để đánh giá thực chất năng lực cán
bộ, làm cơ sở cho việc đề bạt, cất nhắc. Khi cấp dưới hồn thành tốt cơng
việc, lãnh đạo cần có sự động viên khen thưởng kịp thời, tạo sự động viên
khích lệ họ cống hiến nhiều hơn nữa tài năng, trí tuệ cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc. Nhà nước cần có chính sách, chế độ khen thưởng
xứng đáng cho người có nhiều cống hiến xuất sắc, cần đưa ra cơ chế cạnh
tranh công bằng giữa các nhà khoa học, khuyến khích các nhà khoa học
thi đua sáng tạo và làm giàu bằng trí tuệ của chính sản phẩm khoa học do
mình làm ra. Đầu tư xây dựng các cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại phục
vụ tốt cho hoạt động nghiên cứu sáng tạo.
Vấn đề phát triển nhân tài trong thế kỷ XXI là một công việc đại sự
của quốc gia. Trong chiến lược phát triển cần đặc biệt quan tâm đến đào
tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ nhân tài trẻ tuổi, mạnh dạn giao những
nhiệm vụ, chức vụ quan trọng cho lớp trẻ, tạo điều kiện để họ phát huy tài
năng và sáng tạo. Kết hợp chặt chẽ việc đào tạo đội ngũ kế cận với việc
sử dụng những chuyên gia cao tuổi thực sự tài năng, có tâm huyết, có
nguyện vọng cống hiến lâu dài để phát huy tối đa nguồn trí tuệ của đất
nước trong thời kỳ mới.

13



×