Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Đường lối đối ngoại của đảng thời kỳ đổi mới .trách nhiệm của sinh viên trong việc thực hiện chính sách đối ngoại và hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.02 KB, 34 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ ĐỊA CHẤT
KHOA XÂY DỰNG

TIỂU LUẬN
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM – 7020301
ĐỀ TÀI 8: Đường lối đối ngoại của Đảng thời kỳ đổi mới.
Trách nhiệm cảu sinh viên trong việc thực hiện chính sách đối
ngoại và hội nhập quốc tế.

Hà Nội, 2021


Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

MỤC LỤC

2


Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài:
Tình hình thế giới tiếp tục chứng kiến nhiều biến đổi phức tạp và khó
lường về ngoại giao giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. Tồn cầu hố
tiếp tục phát triển sâu rộng và tác động tới tất cả các nước. Các quốc gia lớn
nhỏ đang tham gia ngày càng tích cực vào q trình hội nhập quốc tế. Hồ


bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế hàng đầu của mỗi quốc gia, phản ánh
đòi hỏi bức xúc của các quốc gia, dân tộc trong quá trình phát triển.
Sau khi tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, thế và lực của nước ta đã
lớn mạnh, có lợi thế rất lớn là tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định, mơi
trường hồ bình. Nhằm phát huy những thành tựu to lớn đã đạt được trong tiến
hành công cuộc Đổi mới với mục tiêu xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp
tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa
phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với phương châm:
“Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng
đồng thế giới phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển”. Việt Nam đã và
đang hợp tác chặt chẽ với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực để cùng
nhau giải quyết những thách thức chung như dịch bệnh truyền nhiễm, đói
nghèo, tội phạm xun quốc gia, ơ nhiễm môi trường, buôn lậu ma túy, ...
Những nỗ lực của Việt Nam thể hiện rõ tinh thần trách nhiệm của mình đối với
bạn bè ở khu vực và quốc tế. Việt Nam sẽ chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và
khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hợp tác quốc tế, độc
lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an
ninh quốc gia, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc…
Chính vì những lý do trên nhóm chúng em chọn đề tài nghiên cứu “ĐƯỜNG
LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ
SAU NĂM 1986 ĐẾN NAY” .
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài:
 Mục đích:
Thơng qua q trình xác định chính sách đối ngoại theo đường lối đổi mới
toàn diện đất nước của Đảng cộng sản Việt Nam, khẳng định sự nhạy cảm
chính trị, kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng của Đảng đã kịp thời đổi mới chính
sách đối ngoại phù hợp với chính sách đối nội và xu thế thời đại để hội nhập
với cộng đồng quốc tế vì hồ bình, độc lập dân tộc, hợp tác và phát triển.
 Nhiệm vụ:


3


Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

+ Trình bày những cơ sở dẫn đến sự xác định chính sách đối ngoại theo
đường lối đổi mới
+ Trình bày các giai đoạn phát triển của đường lối đối ngoại đổi mới, cái
mới, cái sáng tạo của Đảng trong việc hoạch định chính sách đối ngoại đổi
mới.
+ Thơng qua việc phân tích những thành tựu, tồn tại khẳng định chủ
trương “độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá” quan hệ quốc tế là quyết
sách đúng đắn, nhạy bén của Đảng, từ đó bước đầu nêu lên những kinh nghiệm
thực hiện chính sách đối ngoại.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Theo phương pháp luận sử học, đồng thời dựa vào phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và
kết hợp chặt chẽ các phương pháp lịch sử với so sánh, thống kê nhằm làm nổi
bật những thắng lợi trong đường lối chính sách đối ngoại của Đảng gần 20 năm
qua
4. Phạm vi nghiên cứu ( cục dạng thời đại và nội dung):
Chính sách đối ngoại của Đảng là một đề tài rộng khoá luận đề cập tới
những vấn đề sau.Thời gian và không gian đề cập là từ năm (1986 – đến nay) ở
Việt Nam. Đây là thời kỳ Đảng lãnh đạo và tiến hành đổi mới toàn diện nhằm
đáp ứng những yêu cầu cấp thiết của đất nước và đáp ứng xu thế thời đại.

4



Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình làm bài, chúng em đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ từ
mọi người, đặc biệt là thầy Nguyễn Tuấn Vương . Chúng em rất cảm ơn thầy
đã có những hướng tận tình và kịp thời trong quá trình chúng em làm tiểu luận.
Đồng thời, chúng em cũng xin cảm ơn các thầy, cô trong bộ phận thư viện nhà
trường và các thầy cô trong khoa lí luận chính trị thuộc trường đại học Mỏ Địa Chất Hà Nội đã tạo điều kiện cho nhóm chúng em tìm kiếm thơng tin,tài
liệu…và hồn thành bài này.Tuy chúng em đã cố gắng làm thật tốt,nhưng cũng
không thể tránh khỏi những sai sót nhất định, nên chúng em rất mong muốn
thầy và các bạn góp ý chân thành để chúng em hiểu biết hơn về chủ trương,
đường lối của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Cùng với đó là sự nhận thức sâu sắc
hơn về những vấn đề mang tính quan trọng và những chiến lược, hướng đi
mang tầm quốc gia của nước ta trong những năm tới.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!

5


Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

PHẦN NỘI DUNG
Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập quốc tế là đòi hỏi khách
quan của đất nước và xu thế chung của cả thế giới.
Nền tảng của việc mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế.
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của chính sách
đối ngoại
Giữ vững mơi trường hịa bình, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc đổi
mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội, cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất

nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu
tranh chung của nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội.
Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền vững.
Phát triển quan hệ với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới và các tổ
chức quốc tế theo các nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ quyền và tồn vẹn
lãnh thổ, khơng can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực
hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp thơng qua
thương lượng hịa bình; tơn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.Củng cố
và tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các
phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Tiếp tục mở
rộng quan hệ với các đảng cầm quyền.

1.
1.1.
1.1.1.

Phát triển công tác đối ngoại nhân dân theo phương châm “chủ động, linh
hoạt, sáng tạo và hiệu quả”. Tích cực tham gia các diễn đàn và hoạt động của
nhân dân thế giới, tăng cường vận động viện trợ và nâng cao hiệu quả hợp tác
với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài để phát triển kinh tế – xã hội.Chủ
động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người, sẵn sàng đối thoại với
các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân quyền.
Kiên quyết làm thất bại các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn
đề “dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tơn giáo” hịng can thiệp vào công việc nội
bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn định chính
trị của Việt Nam.
Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với
các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, phục vụ lợi ích đất nước
làm mục tiêu .Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù

hợp với chiến lược phát triển đất nước. Chuẩn bị tốt các điều kiện để ký kết các
hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương. Thúc đẩy quan hệ hợp
6


Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

tác tồn diện có hiệu quả với các nước ASEAN, châu Á – Thái Bình Dương…
Tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế, rà soát lại các văn bản pháp quy, sửa đổi, bổ
sung, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán, ổn định
và minh bạch.
Phát huy vai trị chủ thể và tính năng động của doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế trong hội nhập kinh tế quốc tế. Xúc tiến thương mại đầu tư,
phát triển thị trường, sản phẩm và thương hiệu mới. Khuyến khích các doanh
nghiệp Việt Nam hợp tác liên doanh với doanh nghiệp nước ngoài và mạnh dạn
đầu tư ra nước ngồi.Đẩy mạnh cơng tác văn hố – thơng tin đối ngoại, góp
phần tăng cường sự hợp tác, tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các
nước. Đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm cơng tác đối ngoại
vững vàng về chính trị, có trình độ ngoại ngữ và năng lực nghiệp vụ cao, có
đạo đức và phẩm chất tốt.Tăng cường cơng tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu
về đối ngoại với sự tham gia và phát huy trí tuệ của các cơ quan nghiên cứu và
các nhà khoa học.
Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước
đối với các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của
Đảng, Nhà nước và nhân dân; chính trị và kinh tế đối ngoại; đối ngoại, quốc
phịng và an ninh; thơng tin trong và ngồi nước.
1.1.2.

Truyền thống ngoại giao của dân tộc
Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, nhân dân Việt Nam

ln phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, gian khổ. Qua những thăng trầm
ấy, ngoại giao Việt Nam đã từng bước được hình thành và phát triển, vừa mang
đậm bản sắc dân tộc, vừa kết tinh những tinh hoa của nhân loại để tạo nên một
bản sắc riêng của nền ngoại giao Việt Nam.
Ngoại giao Việt Nam truyền thống bắt nguồn từ ý chí đấu tranh kiên cường
cho độc lập, tự do của dân tộc với nhiều tấm gương điển hình như Lý Thường
Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi... và nhiều bài học sâu sắc và bổ ích về
quan hệ với lân bang, ứng xử trong đối ngoại... Đó cịn là lịng mong muốn hịa
bình, hịa hiếu, thủy chung, xuất phát từ bản chất nhân văn sâu sắc và truyền
thống u chuộng hịa bình vốn có của người Việt... Lịch sử đấu tranh bất
khuất chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam đã mang lại cho ngoại giao
Việt Nam tính chiến đấu cao, bản chất hịa bình, hịa hiếu, nhân nghĩa, thủy
chung, “lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”.
Tư tưởng đối ngoại và phong cách ngoại giao của Người là sự kết tinh
truyền thống của dân tộc và tinh hoa của nhân loại, trong đó ngoại giao nhân
7


Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

1.2.
1.2.1.

dân là một “binh chủng” đa kênh và đa năng quan trọng, cùng với ngoại giao
Đảng và Nhà nước hợp thành nền ngoại giao tổng hợp của quốc gia
Trong lịch sử quan hệ quốc tế, các nước tiến hành các hoạt động ngoại giao
dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng quy tụ lại thành hai loại chính là ngoại
giao nhà nước và ngoại giao nhân dân. Ngoại giao nhà nước là mối quan hệ
giữa chính phủ với chính phủ của các nước có chủ quyền, giữa các nhà lãnh
đạo của các nước. Các quan chức làm việc trong các đại sứ quán hoặc cơ quan

đại diện ngoại giao của một nước ở nước ngoài là những người đại diện cho
chính phủ ở nước sở tại. Ngoại giao nhân dân là một hình thức hoạt động quan
hệ đối ngoại do các tổ chức, các đoàn thể, hoặc cá nhân thuộc nhiều lĩnh vực
tiến hành, khơng mang tính chất chính thức của Chính phủ.
Hoạt động của ngoại giao nhân dân là phát huy “sức mạnh mềm” của một
nước, hỗ trợ cho ngoại giao nhà nước để thực hiện chính sách đối ngoại mà
chính phủ nước đó đề ra. Ngoại giao nhân dân là lực lượng quan trọng của mặt
trận ngoại giao và ưu thế của ngoại giao nhân dân là có thể đi đầu, có thể đi
trước tại những nước, những khu vực và về một số vấn đề mà ngoại giao chính
thức của nhà nước chưa có điều kiện triển khai.
Hồ Chí Minh chủ trương đối ngoại rộng mở, mở rộng lực lượng theo
phương châm “thêm bạn, bớt thù”, tránh đối đầu “khơng gây thù ốn với một
ai”, tìm ra những điểm tương đồng, khai thác mọi khả năng có thể nhằm tập
hợp lực lượng, hình thành mặt trận đồn kết ủng hộ Việt Nam theo nhiều tầng,
nhiều nấc. Người từng nói: “Đường lối tấn cơng vào lịng người, chinh phục
bằng đạo lý, chuyển hóa bằng nhân tình, thuyết phục lịng người để nhân lên
sức mạnh của chính nghĩa”. Như vậy, với Hồ Chí Minh, ngoại giao khơng chỉ
là sự nghiệp của tồn dân, mà cịn phải lơi kéo, thuyết phục bằng chính nghĩa
để nhân dân và bạn bè thế giới ủng hộ, giúp đỡ mình.
Ngoại giao Việt Nam hiện đại bắt đầu từ khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời (1945) và vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp dẫn
dắt và rèn luyện. Ngoại giao Việt Nam hiện đại là sự kết hợp tài tình giữa ngoại
giao truyền thống Việt Nam với những tư tưởng ngoại giao của Chủ tịch Hồ
Chí Minh được vận dụng linh hoạt và sáng tạo trong từng hoàn cảnh cụ thể.
Trải qua những giai đoạn khác nhau, trong thời chiến cũng như trong thời bình,
ngoại giao Việt Nam hiện đại đã kế thừa xứng đáng truyền thống cha ơng, góp
phần khơng nhỏ vào bảo vệ chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ và xây dựng đất nước
ngày càng phồn thịnh.
Địi hỏi bức thiết của tình hình trong nước và xu thế của thế giới
Địi hỏi bức thiết của tình hình trong nước

8


Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

1.2.2.

2.

Năm 1975 nước ta hồn tồn giải phóng, tổ quốc hịa bình, thống nhất cả
nước tiến lên chủ nghĩa xã hội với khí thế của một dân tộc vừa giành được
thắng lợi vĩ đại. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt được một số
thành tựu quan trọng. Chiến tranh vừa kết thúc thì nước ta phải tập trung vào
công cuộc khắc phục hậu quả nặng nề của hơn 30 năm chiến tranh, thì lại xảy
ra hai cuộc chiến là chiến tranh biên giới Tây Nam với Campuchia, và cuộc
chiến biên giới phía Bắc với Trung Quốc. Hai cuộc chiến này đã làm suy giảm
tiềm lực của đất nước. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch sử dụng những âm
mưu thâm độc phá hoại nước ta. Đại hội Đảng lần V (3-1982) nhận định “Nước
ta đang ở trong tình thế vừa có hịa bình vừa phải đương đầu với một kiểu
chiến tranh phá hoại nhiều mặt”. Mặt khác do tư tưởng chủ quan, nóng vội,
muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trong thời gian ngắn đã dẫn đến những
khó khăn về kinh tế xã hội.
Địi hỏi bức thiết của tình hình thế giới
Trong khi đó trên thế giới, sự tiến bộ nhanh chóng của cuộc cách mạng
khoa học – công nghệ đã thúc đẩy lực lượng sản xuất thế giới phát triển mạnh
mẽ; Nhật Bản và Tây Âu vươn lên trở thành hai trung tâm lớn của kinh tế thế
giới; xu thế chạy đua phát triển kinh tế đã dẫn đến cục diện hịa hỗn của các
nước lớn. Với thắng lợi của cách mạng Việt Nam và các nước Đông Dương, hệ
thống xã hội chủ nghĩa đã mở rộng phạm vi, phong trào cách mạng thế giới
phát triển mạnh. Đảng ta nhận định: Hệ thống nước xã hội chủ nghĩa đã và

đang lớn mạnh không ngừng; phong trào độc lập dân tộc và phong trào cách
mạng của giai cấp công nhân đang trên đà phát triển mạnh. Tuy nhiên, đến giữa
thập kỉ 70, tình hình kinh tế - xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa xuất hiện sự
trì trệ và mất ổn định. Trong các nước xã hội chủ nghĩa cũng xuất hiện những
mâu thuẫn bất đồng, Đơng Nam Á cũng đã có những chuyển biến mới. Sau
năm 1975, Mỹ đã rút quân khỏi Đông Nam Á lục địa: khối quân sự SEATO tan
rã; ngày 24 – 2 – 1976, các nước ASEAN ký hiệp ước thân thiện và hợp tác ở
Đông Nam Á (gọi tắt là hiệp ước Bali), mở ra cục diện hịa bình hợp tác trong
khu vực.
Q TRÌNH ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO MỞ RỘNG
CÁC QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI
2.1. Thực trạng đối ngoại của Đảng, Nhà nước trước đổi mới.
 Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng
Đại hội lần thứ IV của Đảng (12-1976) xác định nhiệm vụ đối ngoại là "Ra
sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn những
vết thương chiến tranh, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở
nước ta". Trong quan hệ với các nước, Đại hội IV chủ trương củng cố và tăng
9


Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

cường tình đồn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác với tất cả các nước xã hội
chủ nghĩa; bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào Campuchia; sẵn sàng, thiết lập phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các
nước trong khu vực; thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường giữa Việt Nam
với tất cả các nước trên cơ sở tơn trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng và cùng
có lợi.
Từ giữa năm 1978, Đảng đã điều chỉnh một số chủ trương, chính sách đối
ngoại như: chú trọng củng cố, tăng cường hợp tác về mọi mặt với Liên Xơ là
hịn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam; nhấn mạnh yêu cầu ra

sức bảo vệ mối quan hệ đặc biệt Việt - Lào trong bối cảnh vấn đề Campuchia
đang diễn biến phức tạp; chủ trương góp phần xây dựng khu vực Đơng Nam Á
hồ bình, tự do, trung lập và ổn định; đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ kinh tế
đối ngoại.
Đại hội lần thứ V của Đảng (3/1982)xác định: Công tác đối ngoại phải trở
thành một mặt trận chủ động, tích cực trong đấu tranh nhằm làm thất bại chính
sách của các thế lực hiếu chiến mưu toan chống phá cách mạng nước ta.Về
quan hệ với các nước, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh đồn kết và hợp tác tồn
diện với Liên Xơ là nguyên tắc, là chiến lược và luôn luôn là hịn đá tảng trong
chính sách đối ngoại của Việt Nam; xác định quan hệ đăc biệt Việt Nam-LàoCampuchia có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của ba dân tộc; kêu gọi các
nước ASEAN hãy cùng các nước Đông Dương đối thoại và thương lượng để
giải quyết các trở ngại; nhằm xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hịa bình
và ổn định; chủ trương khơi phục quan hệ bình thường với Trung Quốc trên cơ
sở các nguyên tắc cùng tồn tại hịa bình; chủ trương thiết lập và mở rộng quan
hệ bình thường về mặt nhà nước, kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật, với tất
cả các nước khơng phân biệt chế độ chính trị.
Thực tế cho thấy ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn
(1975-1986) là xây dựng quan hệ hợp tác.Từ năm 1975 đến năm 1977, nước ta
đã thiết lập thêm quan hệ ngoại giao với 23 nước; ngày 15-9-1976, Việt Nam
tiếp nhận ghế thành viên chính thức Qũy tiền tệ quốc tế (IFM); ngày 21-91976, tiếp ghế thành viên chính thức Ngân hàng thế giới (WB); ngày 23-91976, gia nhập Ngân hàng phát triển châu Á (ADB); ngày 20-9-177, tiếp nhận
ghế thành viên Liên hợp quốc; tham gia tích cực các hoạt động trong phong
trào không liên kết… Kể từ năm 1977, một số nước tư bản mở quan hệ hợp tác
kinh tế với Việt Nam.Với các nước khác thuộc khu vực Đông Nam Á: Cuối
năm 1976, Philippin và Thái Lan là nước cuối cùng trong tổ chức ASEAN thiết
lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
10


Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam


Những kết quả đối ngoại trên có ý nghĩa rất quan trọng đối với cách mạng
Việt Nam. Sự tăng cường hợp tác toàn diện với các nước xã hội chủ nghĩa và
mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với cả các nước hệ thống chủ nghĩa đã tranh
thủ được nguồn viện trợ đáng kể, góp phần khơi phục đất nước sau chiến tranh;
việc trở thành thành viên chính thức của Qũy tiền tệ quốc tế; Ngân hàng thế
giới; Ngân hàng phát triển châu Á và thành viên chính thức của Liên hợp quốc,
tham gia tích cực vào các hoạt động của Phong trào không liên kết, đã tranh thủ
được sự ủng hộ, hợp tác của các nước , các tổ chức quốc tế đồng thời phát huy
được vai trò của nước ta trên trường quốc tế. Việc thiết lập quan hệ ngoại giao
với các nước trong tổ chức ASEAN đã tạo thuận lợi để triển khai các hoạt động
đối ngoại trong giai đoạn sau, nhằm xây dựng Đông Nam Á trở thành khu vực
hịa bình, hữu nghị và hợp tác.
 Hạn chế và nguyên nhân.
Nhìn tổng quát, từ năm 1975- 1986, quan hệ hợp tác của Việt Nam gặp
những khó khăn trở ngại lớn. Nước ta bị bao vây, cộ lập trong đó đặc biệt từ
cuối thập kỷ 70 đến thế kỷ XX, lấy cớ “ sự kiện campuchia” các nước ASEAN
và một số nước khác thực hiện bao vây, cấm vận Việt Nam…
Nguyên nhân dẫn đến những khó khăn, là do trong quan hệ đối ngoại giai đoạn
này chúng ta chưa nắm bắt được xu thế chuyển từ đối đầu sang hịa hỗn và
chay đua kinh tế trên thế giới. Do đó, đã tranh thủ được các nhân tố thuận lợi
trong quan hệ quốc tế phục vụ cho công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế
sau chiến tranh; không kịp thời đổi mối quan hệ đối ngoại phù hợp với tình
hình. Nguyên nhân những hạn chế về đối ngoại của Việt Nam giai đoạn ( 1975
-1986) đã được Đại hội lần thứ VI của Đảng chỉ ra là “ bệnh chủ quan, duy ý
chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ
quan”.
2.2. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1986-1995)
2.2.1. Đổi mới chính sách đối ngoại (1986 -1991)
Hoạt động mở rộng quan hệ đối ngoại của Việt Nam được bắt đầu từ năm
1986. Nghị quyết 32 của Bộ Chính trị khóa V (tháng 7/1986) chủ trương

chuyển từ đối đầu sang đối thoại, đấu tranh trong cùng tồn tại hịa bình. Đến
Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ VI, Đảng nhấn mạnh : “Ra sức kết hợp sức
mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, giữ hịa bình ở Đơng Dương, góp
phần giữ vững hịa bình ở Đơng Nam Á và trên thế giới, tranh thủ điều kiện
quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
Quốc…”. Hịa bình ở khu vực và thế giới có quan hệ gắn kết với nhau, thế giới
có hịa bình thì các khu vực mới có hịa bình và ngược lại. Đổi mới toàn diện,
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12-1986) của Đảng đề ra chính
11


Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

sách đối ngoại phù hợp với yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước. Đại hội
khẳng định: “Đảng và Nhà nước ta kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại hồ
bình và hữu nghị”. Về quan hệ với các nước khu vực Đông Nam Á: “Chúng ta
mong muốn và sẵn sàng cùng các nước trong khu vực thương lượng để giải
quyết các vấn đề ở Đông Nam Á, thiết lập quan hệ cùng tồn tại hồ bình, xây
dựng Đơng Nam Á thành khu vực hồ bình, ổn định và hợp tác”. Đại hội VI
nhấn mạnh nhiệm vụ hàng đầu là "... tranh thủ điều kiệnquốc tế thuận lợi cho
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc"... và "cần hồ bình để
phát triển kinh tế". Nghị quyết của Đại hội VI và các nghị quyết của Trung
ương đã chuyển hướng chính sách ngoại giao, chủ trương đẩy mạnh và mở
rộng quan hệ với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị
- xã hội khác nhau, thi hành chính sách hữu nghị, phù hợp với lợi ích của nhân
dân ta và xu thế phát triển chung của thế giới. Nó trở thành tư tưởng chủ đạo,
sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam, đồng thời là một dấu mốc quan trọng trong tiến trình từng bước gia nhập
ASEAN của Việt Nam.
Trên cơ sở đổi mới tư duy đối ngoại, Đảng và Nhà nước xác định mục tiêu và

những chính sách đối ngoại lớn. Mục tiêu của ngoại giao Việt Nam lúc này là
hịa bình và phát triển. Đảng và Nhà nước ta quyết tâm giải quyết vấn đề
Campuchia, từ đó giải quyết vấn đề bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc,
ASEAN và Hoa Kỳ.
Từ giữa những năm 80, các nước lớn và ASEAN đi vào hịa hỗn, hợp tác giải
quyết các vấn đề khu vực, trong đó có vấn đề Campuchia. Đại hội VI đã khẳng
định “chúng ta mong muốn và sẵn sàng cùng các nước trong khu vực thương
lượng để giải quyết các vấn đề ở Đông Nam Á, thiết lập quan hệ cùng tồn tại
hịa bình, xây dựng Đơng Nam Á thành khu vực hịa bình, ổn định và hợp tác”.
Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị (khóa VI 20/5/1988) là mốc khởi đầu của
q trình đổi mới tư duy, nhận thức và đường lối đối ngoại của Đảng ta. Nghị
quyết khẳng định nước ta “lại càng có những cơ hội lớn để có thể giữ hịa bình
và phát triển về kinh tế” và xác định “với một nền kinh tế mạnh, một nền quốc
phòng vừa đủ mạnh cùng với sự mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chúng ta sẽ
càng có nhiều khả năng giữ vững độc lập và xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội hơn”. Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị thay chủ trương 10 năm trước tăng
cường liên minh 3 nước Đông Dương làm đối trọng với các nước ASEAN.
Ngược lại, chúng ta khẳng định khơng đối lập nhóm 3 nước Lào, Việt Nam,
Campuchia, xã hội chủ nghĩa với nhóm ASEAN, tư bản chủ nghĩa.
Nghị quyết nêu rõ chúng ta cần có chính sách tồn diện với Đơng Nam Á,
trước hết là tăng cường quan hệ hợp tác về nhiều mặt với Indonexia, phá vỡ bế
tắc trong quan hệ với Thái Lan, mở rộng quan hệ hợp tác về kinh tế, khoa học 12


Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

kỹ thuật, văn hóa với các nước trong khu vực, thúc đẩy việc xây dựng khu vực
hịa bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác. Đặc biệt nghị quyết cũng nhắc lại lời
cảnh báo của nghị quyết 32 khóa V về nguy cơ tụt hậu xa hơn “nếu chúng ta lại
để lỡ những cơ hội lớn đó thì sẽ gặp những thách thức mới và sẽ bị thua kém

về mọi mặt so với nhiều nước trên thế giới”. Ra sức tranh thủ sự đồng tình của
thế giới, làm thất bại âm mưu cô lập ta về kinh tế và chính trị; lợi dụng sự phát
triển của khoa học - kỹ thuật, đồng thời tranh thủ vị trí tối ưu trong phân công
lao động quốc tế.
Thực hiện chủ trương trên, ta đã mời ngoại trưởng Indonexia sang thăm và ký
Thông cáo chung Việt Nam - Indonexia tại thành phố Hồ Chí Minh ngày
29/07/1987, vừa khai thơng quan hệ song phương, mở đường cho xu thế đối
thoại, hợp tác giải quyết vấn đề Campuchia. Việt Nam đã từng bước rút quân
khỏi Campuchia từ 1984 – 1989. Như vậy vấn đề Campuchia đi dần vào giải
pháp hịa bình. Trước những tiến triển mới đó, các nước ASEAN bắt đầu phát
triển quan hệ song phương với Việt Nam, hoan nghênh Việt Nam tham gia vào
hợp tác khu vực. Tháng 12/1987, tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 3
họp tại Manila ( Philipin ) Tổng thống Philipin C.V. Akinô tuyên bố không coi
Việt Nam là mối đe dọa đối với Philipin. Tiếp đó tháng 2/1989 Bộ trưởng
Ngoại giao Philipin tuyên bố “ không chống lại việc Việt Nam gia nhập
ASEAN”. Còn thủ tướng Thái Lan Chatichai, khi lên cầm quyền tháng 8/1988,
đã đưa ra chủ trương “ Biến Đông Dương từ chiến trường thành thị trường”.
Chính sách trên của Thái Lan đã được thủ tướng Malaysia tuyên bố ủng hộ
(6/1989). Thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội Đảng VI, Nhà nước ta cũng
luôn khẳng định lập trường của Việt Nam là được chung sống hồ bình với các
nước trong khu vực, sẵn sàng hợp tác để xây dựng Đông Nam Á thành một khu
vực hồ bình, ổn định và phát triển. Tháng 1/1989, tại Hội nghị bàn tròn các
nhà báo châu Á - Thái Bình Dương tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh, Tổng
Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh một lần nữa nhấn mạnh:
Việt Nam sẵn sàng phát triển quan hệ hữu nghị với các nước ASEAN và các
nước trong khu vực.Tại Hội nghị này, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch
tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á”.
Những phát biểu trên một lần nữa nhấn mạnh quan điểm trước sau như một của
Đảng và Nhà nước ta trong vấn đề gia nhập ASEAN. Quan hệ Việt Nam –
ASEAN đã được đẩy mạnh trong năm 1989 và các năm tiếp theo. Sự kiện

chính trị nổi bật và quan trọng nhất trong quan hệ hai bên đó là Tổng thống
Indonexia Xuhacto, nguyên thủ của một nước ASEAN đầu tiên, thăm hữu nghị
chính thức Việt Nam tháng 10/1990. Thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng lần lượt
thăm hữu nghị chính thức Indonexia, Vương quốc Thái Lan và Cộng Hòa
Singapore từ ngày 24/10 đến ngày 01/11/1991.

13


Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

Kể từ giai đoạn này, các nước ASEAN tách dần khỏi lập trường của Trung
Quốc về vấn đề Campuchia, vượt qua chính sách bao vây cấm vận của Hoa Kỳ
đối với Việt Nam để đi vào cải thiện quan hệ với Việt Nam - Đông Dương.
Buôn bán hai chiều Việt Nam - ASEAN đã tăng từ 107 triệu đô la Mỹ năm
1985 lên 740 triệu đô la Mỹ năm 1991.
Chúng ta đã giải quyết được vấn đề Campuchia trên cơ sở giữ vững một số
thành quả của cách mạng Campuchia, bình thường hóa quan hệ với Trung
Quốc, khai thơng quan hệ với các nước ASEAN tạo dựng tiền để để ta tham gia
tổ chức này nhằm xây dựng khu vực Đơng Nam Á hịa bình, ổn định, hợp tác
để phát triển, từng bước cải thiện quan hệ với Hoa Kỳ từ đó có điều kiện tăng
cường quan hệ với Nhật Bản và các nước phương Tây khác. Những thành tựu
đối ngoại thời kỳ đầu đổi mới này sẽ tạo đà cho những thắng lợi lớn hơn thời
kỳ tiếp theo.
2.2.2. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1991-1995)
Quan hệ Việt Nam – ASEAN bắt đầu có những chuyển biến tích cực, và việc
Hiệp định Pari về Campuchia được ký kết tháng 10/1991 đánh dấu chấm dứt
của “ thời kỳ Campuchia trong quan hệ Việt Nam – ASEAN , mở ra một thời
kỳ mới , thời kỳ hợp tác của cả hai bên”.


Việt Nam trải qua nhiều cuộc chiến tranh nên lợi ích lớn nhất của đất nước lúc
này là duy trì hịa bình, ổn định khu vực, tạo dựng một môi trường quốc tế và
khu vực thuận lợi cho công cuộc đổi mới, cải thiện đời sống nhân dân, đưa đất
nước đi lên theo kịp với nhịp độ phát triển chung của các nước trong khu vực
và trên thế giới. Hội nghị Trung ương 3, khóa VII (tháng 6-1992) đã ra Nghị
quyết xác định nhiệm vụ công tác đối ngoại, tư tưởng chỉ đạo chính sách đối
ngoại, các phương châm xử lý các vấn đề quan hệ quốc tế; đề ra chủ trương mở
rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ đối ngoại của Việt Nam, cả
về chính trị, kinh tế, văn hóa..., trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, chủ quyền
và tồn vẹn lãnh thổ, tơn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi, bảo vệ và
phát triển kinh tế, giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp và bản sắc văn hóa
dân tộc... Nghị quyết Trung ương 3, khóa VII là văn kiện đánh dấu sự hình
thành đường lối đối ngoại của Đảng ta cho thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước.
Lãnh đạo ta và lãnh đạo các nước ASEAN liên tiếp tiến hành các chuyến viếng
thăm lẫn nhau, góp phần gia tăng sự hiểu biết và tin cậy. Ta và các nước này đã
ký hàng chục hiệp định cấp chính phủ tạo cơ sở pháp lý cho việc phát triển hợp
tác kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học kỹ thuật. Các nước ASEAN trở thành
bạn hàng quan trọng, chiếm khoảng 30% hàng xuất - nhập khẩu của ta, kim
ngạch buôn bán hai chiều tăng từ 1,6 tỷ USD năm 1991 lên 2,7 tỷ USD năm
14


Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

1994. Các nước thành viên ASEAN cũng chiếm hơn 20% tổng số đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam. Giữa Việt Nam và các nước này cũng từng bước thương
lượng giải quyết những vấn đề tồn tại. Chúng ta đã thỏa thuận với Malaysia
cùng khai thác vùng chồng lấn và hồi hương người Việt di tản. Thái Lan tiếp
tục giải quyết thuận lợi việc cho Việt kiều ngập quốc tịch, khai thông sự hợp
tác về sông Mekong, lập quỹ khu vực, duy trì viện trợ linh hoạt hơn trong đàm

phán về vùng chồng lấn, thỏa thuận về lập lại trật tự trên Vịnh Thái Lan. Chúng
ta cũng kiên trì thúc đẩy đàm phán phán về thềm lục địa với Indonexia.
Tháng 07/1992, Việt Nam đã tham gia Hiệp ước Bali, trở hành quan sát viên
của ASEAN. Với tư cách là quan sát viên ASEAN , từ năm 1992 ,Việt Nam đã
được mời tham dự các cuộc họp hàng năm Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao
ASEAN. Từ tháng 2/1993, Việt Nam đã tuyên bố “sẵn sàng tham gia ASEAN
vào thời điểm thích hợp”. Điều này đã được các nước ASEAN, dư luận khu
vực và quốc tế đánh giá cao. Đáp lại ,các nước ASEAN tuyên bố “ muốn Việt
Nam sớm gia nhập ASEAN”. Tháng 10/1993, chúng ta tuyên bố chính sách 4
điểm định hướng quan hệ với ASEAN . Tại hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao
ASEAN lần thứ 27 tại Băng cốc 1994, các nước ASEAN đã nhất trí tuyên bố
sẵn sàng cơng nhận Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN. Ngày
28/07/1995, tại Banda Xeri Beegaoan (Vương quốc Bruney) lễ kết nạp Cộng
Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thành thành viên thứ 7 của ASEAN đã được
tổ chức trọng thể. Quốc Hội nước ta cũng gia nhập Liên minh Quốc hội
ASEAN (AIPO).Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 11994) và Đại hội VIII (tháng 6-1996) của Đảng đã khẳng định đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa quan hệ với tinh thần "Việt Nam
muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hịa
bình, độc lập và phát triển".
Năm năm tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới trên mặt trận đối ngoại, Việt
Nam đã giữ vững được mơi trường hịa bình, phá được thế bị bao vây cấm vận
về kinh tế và cơ lập về chính trị, đã bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc –
nước láng giềng lớn và Hoa Kỳ - cường quốc số 1 thế giới, gia nhập ASEAN
và đã mở rộng quan hệ với hầu hết các nước ở khắp năm châu ( riêng từ 1991 –
1995 Việt Nam đã lập thêm quan hệ ngoại giao với 42 nước , nâng tổng số các
nước có quan hệ ngoại giao với ta lên 160 nước ). Điều này cho thấy, vị trí, vai
trị và uy tín của Việt Nam ngày một nâng cao ở khu vực và thế giới.
2.3. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1996-đến nay):
2.3.1. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1996-2004):
Tại đại hội lần thứ VIII (6-1996), Đảng tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc

tế, nhiều mặt với nhiều nước, các trung tâm kinh tế, chính trị khu vực và quốc
tế. Đồng thời chủ trương “ xây dựng nền kinh tế mở” và “đẩy nhanh quá trình
15


Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

kinh tế khu vực và thế giới”.
Đại hội xác định rõ hơn quan điểm đối ngoại với các nhóm đối tác, chủ trương
đối ngoại của Đại hội VIII có đặc điểm mới so với đại hội VII như:
Mở rộng quan hệ với các Đảng cầm quyền và các Đảng khác
Quán triệt yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ
chức phi chính phủ.
Lần đầu tiên, trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, Đảng đưa ra chủ trương “Thử
nghiệm để tiến tới thực hiện đầu tư ra nước ngoài”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương, khóa VIII (121997), đề ra chủ trương tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp
định Thương mại Mỹ, Gia nhập APEC và WTO. Có kế hoạch cụ thể để chủ
động thực hiện cam kết trong khuôn khổ AFTA. Đại hội lần thứ IX (4-2001),
Đảng nhấn mạnh chủ trương chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và
khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực. Đảng nêu rõ quan điểm về xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ: “ Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước
hế là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ
mạnh. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phài đi đôi với chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội
lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp phát triển đất nước”.
Sau 15 năm đổi mới, tình hình chính trị - xã hội nước ta dần đi vào ổn định;
“thế” và “lực” của ta được nâng cao hơn; quan hệ quốc tế được mở rộng; vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế được cải thiện. Tuy nhiên, chúng ta cịn phải
đối phó với nhiều khó khăn, thử thách “Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so
với nhiều nước trong khu vực vẫn là thách thức to lớn và gay gắt do điểm xuất

phát của ta quá thấp, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh quyết liệt”.
Đại hội VIII (tháng 6-1996) và Đại hội IX (tháng 4-2001) của Đảng tiếp tục
hoàn thiện đường lối đối ngoại thông qua việc khẳng định "Việt Nam sẵn sàng
là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hịa
bình, độc lập và phát triển". Ngồi ra, Đại hội còn nhấn mạnh, Việt Nam chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực,
nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế. Tháng 11-2001, Bộ Chính trị đã ra Nghị
quyết riêng về hội nhập kinh tế quốc tế. Nghị quyết đề ra 9 nhiệm vụ cụ thể và
6 biện pháp tổ chức thực hiện quá trình hội nhệp kinh tế.Hội nghị Trung ương
8, khóa IX (tháng 7-2003) đã ra Nghị quyết về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới nhằm đánh giá toàn diện, sâu sắc cục diện thế giới, khu vực từ
1991 đến nay; chỉ ra một cách có hệ thống những thành tựu, bài học kinh
16


Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

nghiệm về đối ngoại. Đây là một mốc hết sức quan trọng trong nhận thức, định
hướng cho chính sách đối ngoại và hoạt động quốc tế của Đảng và Nhà nước ta
trong thời gian tới.
Những thành tựu của công tác đối ngoại thời kỳ đổi mới trong chính sách và
hoạt động đối ngoại đã hòa nhịp cùng với đổi mới trên mọi lĩnh vực của đất
nước, đem lại những thành tựu rất to lớn, được thể hiện trên các mặt: “Từ chỗ
bị bao vây cấm vận, đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 169 nước;
đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử, nước ta có quan hệ với tất cả các nước,
trung tâm chính trị - kinh tế lớn trên thế giới”. Chúng ta đã tạo được khuôn
khổ quan hệ hợp tác hữu nghị, ổn định lâu dài và đan xen lợi ích với tất cả các
nước láng giềng, khu vực: Quan hệ đặc biệt và hợp tác tồn diện với Lào
khơng ngừng được củng cố và mở rộng, hợp tác kinh tế ngày càng chặt chẽ,
hiệu quả. Quan hệ với Cam-pu-chia được đổi mới theo hướng mở rộng, nâng

cao hiệu quả hợp tác kinh tế, phối hợp giải quyết các vấn đề an ninh, biên giới,
lãnh thổ trong khuôn khổ các tổ chức khu vực và quốc tế. Quan hệ với Trung
Quốc được bình thường hóa hồn tồn và nâng lên tầm cao mới theo phương
châm 16 chữ "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng
tới tương lai". Lần đầu tiên trong lịch sử, hai nước đã ký Hiệp ước về biên giới
trên đất liền, Hiệp định về Phân định vịnh Bắc Bộ, Hiệp định giải quyết vấn đề
lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước trong vịnh Bắc
Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá trong vịnh Bắc Bộ. Sau khi gia nhập Hiệp hội
các quốc gia Đông - Nam Á (ASEAN) năm 1995, Việt Nam đã có nhiều đóng
góp tích cực, góp phần vào việc củng cố đồn kết, duy trì những nguyên tắc cơ
bản, tăng cường hợp tác nội khối, góp phần nâng cao vai trị, vị trí của của hiệp
hội ở khu vực và trên trường quốc tế.
Nước ta đã chủ động duy trì và thúc đẩy quan hệ hữu nghị với các nước bạn bè
truyền thống như Nga, Cu Ba, Ấn Độ, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên,
Mông Cổ; các nước thuộc Cộng đồng các quốc gia độc lập, Trung - Đông Âu
trên nhiều lĩnh vực, thể hiện tình nghĩa thủy chung, đồn kết trong chính sách
đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời, chúng ta đã chủ động khôi
phục và củng cố quan hệ hợp tác với các nước châu Phi, Trung Đông và Mỹ
La-tinh, nêu cao tinh thần đoàn kết và ủng hộ các nước bạn trong cuộc đấu
tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền và tự quyết dân tộc.
Không những thế, nước ta cũng đã bình thường hóa và mở rộng quan hệ hợp
tác cùng có lợi với các nước lớn và trung tâm kinh tế - chính trị lớn trên thế
giới. Từ chỗ là hai nước thù địch trước đây, Việt Nam đã thiết lập quan hệ
ngoại giao và hợp tác với Mỹ trên tinh thần gác lại quá khứ, hướng tới tương
lai. Nước ta tiếp tục thúc đẩy quan hệ hợp tác nhiều mặt với Nhật Bản, Hàn
Quốc, Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân, Tây Bắc Âu, nhất là trên các lĩnh vực kinh tế,
thương mại, đầu tư, viện trợ phát triển, văn hóa, du lịch, chuyển giao cơng
17



Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

nghệ.
Nước ta đã triển khai mạnh mẽ công cuộc hội nhập kinh tế với khu vực và quốc
tế. Đến nay, Việt Nam đã trở thành thành viên tích cực của ASEAN, tham gia
ngày càng sâu rộng vào các định chế kinh tế, tài chính, thương mại của
ASEAN như Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Khu vực Đầu tư
ASEAN (AIA); là thành viên của Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM), Diễn đàn
Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC); có quan hệ chặt chẽ với
Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển
châu Á (ADB)... Hội nghị lần thứ 9 ban chấp hành Trung ương khóa IX ( 5-12004) nhấn mạnh yêu cầu chuẩn bị tốt cá điều kiện trong nước để sớm gia nhập
Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Hoạt động đối ngoại đã có những đóng góp to lớn trong cơng cuộc phát triển
đất nước thơng qua việc giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định. Đặc biệt là
công tác nghiên cứu, tham mưu, thông tin, vận động viện trợ, thu hút đầu tư;
tham gia giải quyết vướng mắc trong quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với các
nước khác.
Hoạt động ngoại giao đa phương có bước trưởng thành vượt bậc kết hợp chặt
chẽ với các mối quan hệ song phương, góp phần nâng cao hơn nữa vai trị và
uy tín của Việt Nam tại các tổ chức quốc tế như: Liên hợp quốc, Phong trào
Khơng liên kết, ASEAN, ASEM, Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp..;
tạo điều kiện cho Việt Nam mở rộng quan hệ đối ngoại, phát triển kinh tế - xã
hội; đồng thời đóng góp bảo vệ hịa bình và các nguyên tắc cơ bản của luật
pháp quốc tế.
Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng được coi trọng. Về
nhận thức, Đảng khẳng định rõ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một
bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam. Gần đây, Nghị quyết 36 của
Bộ Chính trị về đổi mới cơng tác đối với người Việt Nam ở nước ngồi đã được
ban hành, nhằm xóa bỏ ngăn cách giữa người Việt ở nước ngoài và người Việt
ở trong nước; tạo điều kiện cho bà con hướng về cội nguồn và tham gia đóng

góp xây dựng đất nước; bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cơng dân Việt Nam ở
nước ngồi, cũng như hỗ trợ kiều bào hội nhập với nước sở tại.
2.3.2. Chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước từ (2004 – đến nay)
Tháng 2-2021 vừa qua, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã
thành công rực rỡ, thông qua Nghị quyết Đại hội và các văn kiện quan trọng,
tổng kết các thành tựu và bài học của nhiệm kỳ qua cũng như 35 năm đổi mới,
đề ra tầm nhìn, mục tiêu tổng quát và các mục tiêu cụ thể của đất nước từ nay
đến năm 2045.

18


Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

Đại hội đã đánh giá: “Quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục mở rộng
và đi vào chiều sâu, tạo khung khổ quan hệ ổn định và bền vững với các đối
tác. Chủ động tham gia xây dựng các nguyên tắc, chuẩn mực trong các thể chế
đa phương khu vực và toàn cầu; xử lý đúng đắn, hiệu quả quan hệ với các nước
láng giềng, các nước lớn, các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối
tác khác. Đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân được triển
khai đồng bộ và toàn diện. Tiếp tục hoàn thiện và thực thi có hiệu quả cơ chế
quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại; tăng cường công tác bảo hộ công
dân và cơng tác người Việt Nam ở nước ngồi. Hội nhập quốc tế tiếp tục được
triển khai chủ động, tích cực, tạo không gian quan hệ rộng mở, tranh thủ được
sự hợp tác, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế. Vị thế, uy tín, vai trị của Việt Nam
trong khu vực và trên thế giới ngày càng được nâng cao”. Công tác đối ngoại
đã sát cánh cùng cả hệ thống chính trị và tồn dân, thực hiện có hiệu quả các
nhiệm vụ chính trị lớn trong cả nhiệm kỳ qua.
Văn kiện Đại hội đã khẳng định những điểm nổi bật về phương hướng đối
ngoại, đó là:

Một là, “Tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập
và giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài
để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước”. Đây là bước
phát triển rất mới trong tầm nhìn chiến lược của Đảng ta, vừa là sự nhìn nhận
vai trò quan trọng của đối ngoại, vừa đặt ra những nhiệm vụ rất nặng nề cho
giai đoạn tới. “Vai trò tiên phong của đối ngoại” khơng chỉ có ngoại giao mà
cả quốc phòng, an ninh và các binh chủng khác, trong sự phối hợp liên ngành
dưới sự chỉ đạo và quản lý thống nhất của Đảng và Nhà nước. Như đồng chí
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 28
(tháng 8-2013): Trong thời bình, cơng tác đối ngoại sẽ tiếp tục là một mặt trận
quan trọng, cùng với quốc phòng - an ninh đóng vai trị tiên phong, góp phần
bảo vệ an ninh, độc lập và chủ quyền đất nước.
Hai là, đối ngoại phải “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở
các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế,
bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”. Lợi ích quốc gia - dân tộc đã, đang và sẽ tiếp
tục là kim chỉ nam, tiêu chí cao nhất trong triển khai hoạt động đối ngoại.
Không những vậy, Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII còn xác định đây là một
trong những quan điểm chỉ đạo cao nhất nhằm thực hiện tầm nhìn và định
hướng phát triển của đất nước. Đồng thời, Việt Nam không theo chủ nghĩa dân
tộc vị kỷ, hẹp hịi mà thúc đẩy lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên
tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.
Ba là, Đại hội nêu rõ nhiệm vụ “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải
quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thúc đẩy hội
19


Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia - dân
tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia”. Độc lập, tự chủ là cơ sở, tạo

ra sức mạnh nội sinh để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế và chủ động, tích
cực hội nhập quốc tế. “Hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng” nghĩa là hội nhập
đầy đủ trên các lĩnh vực, các tầng nấc khác nhau với mức độ tham gia, đóng
góp thực chất hơn, cam kết và đan xen lợi ích cao hơn. Hội nhập quốc tế cũng
phải bám sát, gắn chặt và phục vụ trực tiếp nhiệm vụ phục vụ phát triển với
việc “Tích cực triển khai các cam kết khu vực và quốc tế, lồng ghép với các
chiến lược, chính sách, kế hoạch và chương trình phát triển kinh tế - xã hội”.
Bốn là, tư duy về đối ngoại song phương và đa phương có những bước phát
triển mới. Về song phương, chúng ta cần tiếp tục đưa các mối quan hệ đối
ngoại song phương đi vào chiều sâu, đồng thời cần “tạo thế đan xen lợi ích” và
“tăng độ tin cậy”. Đối ngoại đa phương cần “Chủ động tham gia, tích cực đóng
góp, nâng cao vai trị của Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể chế đa
phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế” và “trong những vấn đề, các cơ
chế quan trọng, có tầm chiến lược đối với lợi ích Việt Nam, phù hợp với khả
năng và điều kiện cụ thể”. Đây là bước phát triển quan trọng về lý luận và thực
tiễn từ Đại hội XII và Chỉ thị 25 của Ban Bí thư (8-8-2018). Điều này phù hợp
thế và lực mới của đất nước cũng như những đòi hỏi thực tiễn mới đối với công
tác đối ngoại. Tư duy về không gian và các trọng điểm chiến lược của đất nước
cũng được thể hiện rất rõ, đó là các nước láng giềng, khu vực tiểu vùng Mê
Cơng, ASEAN, châu Á - Thái Bình Dương, các nước lớn và các đối tác quan
trọng…
Năm là, đối ngoại được giao trọng trách tham gia cùng quốc phòng, an ninh và
cả hệ thống chính trị vào việc bảo đảm mơi trường hịa bình, ổn định của đất
nước, giữ nước từ sớm, từ xa. Về an ninh quốc gia, văn kiện nêu rõ “Kiên
quyết, kiên trì đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp của
các thế lực thù địch vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị đất nước”. Về bảo
vệ chủ quyền, biển đảo: “Tiếp tục thúc đẩy giải quyết các vấn đề trên biển, an
ninh, an tồn hàng hải, hàng khơng trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công
ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Củng cố đường biên giới hịa

bình, an ninh, hợp tác và phát triển; giải quyết các vấn đề còn tồn tại liên quan
đến đường biên giới trên bộ với các nước láng giềng”. Đối ngoại cũng phải
“Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược về đối ngoại,
không để bị động, bất ngờ”.
Sáu là, văn kiện khẳng định sự quan tâm và quan điểm của Đảng và Nhà nước
về cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Văn kiện nêu rõ “Hỗ trợ để người
Việt Nam ở nước ngồi có địa vị pháp lý vững chắc, phát triển kinh tế và đời
20


Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

sống, hòa nhập xã hội nước sở tại. Nâng cao hiệu quả công tác bảo hộ công
dân, quản lý lao động, du học sinh… Tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn tiếng
Việt, bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao lịng tự hào, tự tơn dân tộc. Làm tốt
cơng tác thơng tin tình hình trong nước, giúp đồng bào hướng về Tổ quốc, nhận
thức và hành động phù hợp với lợi ích quốc gia - dân tộc, có chính sách thu hút
nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngồi đóng góp tích cực cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đây sẽ là phương hướng để xây dựng những chủ
trương, chính sách nhằm hỗ trợ, tạo thuận lợi cho bà con hội nhập với xã hội sở
tại, đồng thời tiếp tục giữ gìn văn hóa, bản sắc dân tộc và đóng góp vào xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bảy là, văn kiện nêu: “Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ
cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”. Tính “tồn
diện” thể hiện trên các chủ thể, địa bàn, cả song phương và đa phương, trên các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, thơng tin đối ngoại, cơng tác về người Việt
Nam ở nước ngồi, bảo hộ cơng dân…, qua đó phát huy hiệu quả sức mạnh của
tất cả các binh chủng. Đặc biệt, nhằm phục vụ mục tiêu phát triển của đất nước,
ngoại giao sẽ khơng chỉ triển khai các nhiệm vụ chính trị lớn ở tầm vĩ mơ, mà
cịn phục vụ trực tiếp các địa phương, doanh nghiệp, người dân, tranh thủ mạng

lưới quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện để mở rộng địa bàn, thị
trường, tranh thủ nguồn ngoại lực cho phát triển của đất nước. Đây sẽ là trọng
tâm lớn của công tác đối ngoại những năm tới. Tính “hiện đại” của ngoại giao
được thể hiện ở việc xây dựng ngành, phát triển và nâng tầm phương thức triển
khai công tác đối ngoại, tổ chức bộ máy, cơ sở hạ tầng, công nghệ và trang
thiết bị… đạt trình độ khu vực và vươn tầm quốc tế, qua đó phục vụ tốt mục
tiêu phát triển của đất nước.
Tám là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “cán bộ là cái gốc của mọi công
việc”. Văn kiện Đại hội XIII đã nêu “Nâng cao bản lĩnh, phẩm chất, năng lực,
phong cách chuyên nghiệp, đổi mới sáng tạo của đội ngũ cán bộ làm công tác
đối ngoại và hội nhập quốc tế; chủ động thích ứng trước chuyển biến của tình
hình”. Qua đó nhấn mạnh phẩm chất, năng lực của cán bộ đối ngoại là yếu tố
quyết định, mang tính đột phá nhằm bảo đảm đáp ứng được các yêu cầu nhiệm
vụ ngày một cao hơn trong tình hình mới.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII là kim chỉ nam cho việc triển
khai công tác đối ngoại, thể hiện mạnh mẽ tính kế thừa và tinh thần đổi mới tư
duy, phù hợp thực tiễn, cũng như với thế và lực mới của đất nước. Thời gian
tới, các cơ quan trong lĩnh vực đối ngoại và hội nhập quốc tế sẽ tiếp tục phải
làm rõ nội hàm đường lối đối ngoại, tổ chức quán triệt Nghị quyết Đại hội sâu
sát đến các cơ sở đảng ở trong nước và nước ngoài. Chỉ với bảo đảm sự lãnh
đạo, chỉ đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước, sự phối
21


Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

hợp chặt chẽ, đồng lịng nhất trí của tồn hệ thống chính trị và tồn dân, chúng
ta mới thực hiện được thắng lợi đường lối đối ngoại và hội nhập quốc tế, thực
hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển của đất nước trong những năm tới.
Trong chặng đường 65 năm qua, nhất là trong 35 năm tiến hành công cuộc đổi

mới, cùng với sự phát triển của đất nước, những thành tựu đó của ngoại giao
Việt Nam đã góp phần cải thiện và nâng cao vị thế của Việt Nam trên thế giới,
tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
3. MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI, CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP KINH
TẾ QUỐC TẾ TRONG THỜI GIAN TỚI.
3.1 Chủ trương, nhiệm vụ của công tác đối ngoại trong thời gian tới
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm
1991 (Cương lĩnh năm 1991) nêu rõ: Mục tiêu chính sách đối ngoại là tạo điều
kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đi lên chủ
nghĩa xã hội, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì
hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) (sau đây gọi là Cương lĩnh năm 2011) cụ thể hóa
nhiệm vụ đối ngoại: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
hịa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân
tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy
và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp
hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Hợp tác bình
đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của
Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Trước sau như một ủng hộ
các đảng cộng sản và công nhân, các phong trào tiến bộ xã hội trong cuộc đấu
tranh vì những mục tiêu chung của thời đại; mở rộng quan hệ với các đảng
cánh tả, đảng cầm quyền và những đảng khác trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc
gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hịa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Tăng
cường hiểu biết, tình hữu nghị và hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân
dân các nước trên thế giới. Phấn đấu cùng các nước Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN) xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hịa bình, ổn
định, hợp tác và phát triển phồn vinh”
Như vậy, Cương lĩnh năm 2011 của Đảng xác định một cách cơ bản, toàn diện

nhiệm vụ đối ngoại từ nguyên tắc, mục tiêu, phương châm và định hướng lớn
cũng như những nội dung cụ thể. Đó là những vấn đề căn cốt để Đảng tiếp tục
đổi mới tư duy, phát triển nhận thức và sáng tạo trong chỉ đạo thực tiễn q
trình triển khai nhiệm vụ, cơng tác đối ngoại và hội nhập quốc tế.
22


Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

1- Về nhận thức, Đảng ta nhận thức ngày càng rõ hơn và đầy đủ hơn về tính
chất của thời đại, về thế giới và khu vực, làm cơ sở quan trọng để xác định
nhiệm vụ đối ngoại.
Một là, nhận thức về thời đại, Đảng ta khẳng định: Thời đại hiện nay là thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, bắt
đầu từ Cách mạng Tháng Mười Nga. Đây là một thời đại lịch sử lâu dài, phải
trải qua nhiều thời kỳ, giai đoạn với những tính chất và nội dung, các xu
hướng, các mâu thuẫn, cũng như những vấn đề chính trị, quân sự, kinh tế, xã
hội khơng giống nhau. Thế giới có nhiều thay đổi nhưng thời đại theo nghĩa
rộng không thay đổi. Trên cơ sở kiên định và nhất quán nhận định về thời đại
với quá trình lịch sử lâu dài, Đảng ta đã nêu bật tính chất của giai đoạn hiện
nay của thời đại, khẳng định tình hình thế giới tuy có những diễn biến phức
tạp, các nước xã hội chủ nghĩa gặp nhiều khó khăn nhưng sẽ đứng vững và
phát triển. Sự thật đã diễn ra như vậy. Chủ nghĩa xã hội đã không hề mất đi, các
nước xã hội chủ nghĩa vẫn vững vàng phát triển theo con đường đã lựa chọn.
Đất nước ta tự tin vững bước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai là, nhận thức về tình hình thế giới. Theo từng mốc thời gian, Đảng ta nhấn
mạnh những đặc điểm nổi bật của thế giới cũng như khu vực về chính trị, qn
sự, văn hóa, xã hội; về những vấn đề toàn cầu, những xu hướng vận động của
thế giới, về sự bùng nổ của cuộc Cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư, về tồn
cầu hóa và hội nhập quốc tế, về hịa bình, về xu hướng vừa hợp tác, vừa đấu

tranh... Những nhận định nhạy bén và xác đáng đó là cơ sở khoa học, thực tiễn
để Đảng ta xác định nhiệm vụ đối ngoại cụ thể.
2- Về nội dung của nhiệm vụ đối ngoại, trước tiên, Đảng ta nhận thức và xác
định ngày càng cụ thể những nội dung của nhiệm vụ đối ngoại. Văn kiện Đại
hội XI của Đảng nêu rõ: “Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững mơi
trường hịa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế
của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới”
Thứ hai, quan điểm nhất quán và xuyên suốt của Đảng ta là triển khai thực hiện
nhiệm vụ đối ngoại để kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đối
ngoại để phục vụ đối nội. Mở rộng quan hệ đối ngoại nhằm thúc đẩy các quan
hệ kinh tế, tăng cường hợp tác kinh tế đối ngoại để phát triển kinh tế - xã hội,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ ba, xác định rõ mục tiêu tối thượng khi thực hiện nhiệm vụ đối ngoại là lợi
ích quốc gia - dân tộc, mục tiêu phát triển được đặt lên hàng đầu; vai trò của
nhiệm vụ đối ngoại với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc được đặc biệt coi trọng. Văn
23


Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

kiện Đại hội XII của Đảng xác định: “Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh,
hoạt động đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hịa bình, ổn
định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao
đời sống nhân dân; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước,
nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và
góp phần vào sự nghiệp hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
trên thế giới”.

3- Về phương châm và định hướng trong quá trình triển khai nhiệm vụ đối
ngoại, từ chủ trương “muốn là bạn” đến “sẵn sàng là bạn”, “là bạn, là đối tác
tin cậy”, “là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng
quốc tế”, Đảng ta từng bước chuyển sang định hướng đa dạng hóa, đa phương
hóa các quan hệ quốc tế. Đan xen lợi ích với các đối tác giúp cho việc tăng
cường độc lập, tự chủ thông qua sự gia tăng tùy thuộc lẫn nhau giữa nước ta và
các nước. Về mặt kinh tế, giúp ta tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác
nhất định. Về chính trị, đa dạng hóa và đa phương hóa giúp ta tránh bị lôi kéo,
ép buộc trong quan hệ với các nước khác. Chúng ta chủ trương mở rộng quan
hệ với mọi quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, khơng phân biệt chế độ
chính trị - xã hội.
Đảng ta đổi mới nhận thức một cách rõ ràng, chuyển cách nhìn biện chứng và
thực tế, từ tư duy bạn - thù sang tư duy đối tác và đối tượng trên cơ sở lợi ích
quốc gia - dân tộc trong từng hoàn cảnh cụ thể; thấy rõ sự đan xen, chuyển hóa
giữa đối tượng, đối tác; xác định lấy đối tác làm cơ sở để thiết lập quan hệ quốc
tế; đồng thời, đấu tranh với đối tượng, với mặt đối tượng. Phương châm “đối
tác - đối tượng” thể hiện tư duy mềm dẻo là cơ sở để xử lý một cách hiệu quả
các quan hệ lợi ích đa chiều, phức tạp hiện nay. Khi đã là bạn, là đối tác tin cậy
với các nước, để bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, cần nhận thức rõ trong đối
tác có đối tượng và trong đối tượng có đối tác. Phương châm này giúp ta tận
dụng cơ hội hợp tác; đồng thời, thấy rõ hơn sự khác biệt về lợi ích để tìm các
giải pháp đưa quan hệ phát triển, không bỏ lỡ cơ hội hợp tác nhưng cũng không
lơ là mất cảnh giác. Đây cũng là một định hướng quan trọng để nhiệm vụ đối
ngoại gắn kết chặt chẽ với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn về thời đại và tình hình thế giới, khu vực, Đảng
ta xác định phương châm và định hướng cho thực hiện nhiệm vụ đối ngoại là
hợp tác và đấu tranh. Dòng chủ lưu trong giai đoạn hiện nay của thời đại là hịa
bình, hợp tác và phát triển. Trong khi nhận rõ hợp tác và phát triển là xu thế,
nhưng đồng thời cũng không mơ hồ chỉ thấy hợp tác một chiều. Hợp tác phải
đi đôi với đấu tranh, cạnh tranh để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của quốc

gia; đồng thời, đấu tranh, cạnh tranh để hợp tác, không dẫn tới đối đầu.
24


Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

Kiên quyết, kiên trì là một trong những phương châm, định hướng quan trọng
mà Đảng ta lần đầu tiên chỉ rõ trong Đại hội XII của Đảng, đó là: “Kiên quyết,
kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa”(4). Lịch sử cho thấy, giữa các quốc gia láng giềng thường có những
mâu thuẫn, xung đột về lợi ích hoặc tranh chấp lãnh thổ do lịch sử để lại. Giải
quyết các vấn đề đó phải có sự nỗ lực và thiện chí của tất cả các bên liên quan
bằng nhiều phương án, giải pháp lâu dài. Do vậy, cần nhất định phải kiên
quyết, kiên trì. Đây cũng là vấn đề mang tính nguyên tắc đặt ra đối với nhiệm
vụ đối ngoại là “giữ vững môi trường hịa bình”, “bảo vệ vững chắc Tổ quốc”.
Nếu giữ vững được mơi trường hịa bình, chúng ta sẽ thêm bạn, bớt thù, đóng
góp trực tiếp vào việc bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa và giữ nước từ khi nước
chưa nguy.
4- Về hội nhập quốc tế.
Thứ nhất, quan điểm về hội nhập quốc tế. Hội nhập quốc tế là nội dung rất
quan trọng của nhiệm vụ đối ngoại. Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Triển khai
mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”(5).
Đảng ta coi hội nhập quốc tế là sự nghiệp của tồn dân và của cả hệ thống
chính trị. Hội nhập quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại
lực, hội nhập kinh tế là trọng tâm, từng bước mở rộng hội nhập các lĩnh vực
khác, tuân thủ nghiêm các cam kết quốc tế đi đơi với chủ động, tích cực tham
gia xây dựng, thực hiện các chuẩn mực chung bảo đảm lợi ích quốc gia - dân
tộc.
Thứ hai, về hình thức và nội dung hội nhập quốc tế. Đảng ta nhận thức sâu sắc

hơn, đầy đủ hơn các đặc điểm của môi trường quốc tế cũng như các hệ thống
công cụ, quyền lực được sử dụng để chi phối, kiểm soát trong quá trình hội
nhập quốc tế. Hội nhập quốc tế khơng giới hạn trong một phạm vi, một lĩnh
vực nào của đời sống quốc tế mà được lan tỏa ở mọi cấp độ, mọi lĩnh vực trên
phạm vi khu vực và toàn cầu. Tham gia mọi mặt đời sống quan hệ quốc tế là
phải tham gia các q trình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc
phịng. Hội nhập quốc tế vừa là đòi hỏi khách quan của thời cuộc nói chung,
vừa là nhu cầu nội tại của mỗi nước, trong đó có Việt Nam.
Thứ ba, giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế. Đảng ta ngày càng
nhận thức rõ, trong quá trình hội nhập quốc tế, vấn đề bức thiết đặt ra là phải
giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước, phải xử lý tốt mối quan hệ giữa độc lập,
tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Đây là mối quan hệ cơ bản, đa
diện, đa chiều trong khi tình hình thế giới diễn biến hết sức nhanh chóng, phức
tạp, nước ta đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào các lĩnh vực của đời sống
quốc tế. Việc ký kết và thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
25


×