Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ LÝ LUẬN CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ HỌC MÁC – LÊNIN VỀ DỊCH VỤ VÀ MỘT SỐ HÀNG HÓA ĐẶC BIỆT. LIÊN HỆ THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.61 KB, 27 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


TIỂU LUẬN
MƠN HỌC: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
ĐỀ TÀI: LÝ LUẬN CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ HỌC MÁC – LÊNIN VỀ
DỊCH VỤ VÀ MỘT SỐ HÀNG HÓA ĐẶC BIỆT. LIÊN HỆ THỰC TIỄN

Thành Phố Hồ Chí Minh, tháng năm


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….

Điểm: …………………………

KÝ TÊN




MỤC LỤC
Contents
MỤC LỤC................................................................................................................. 1
LỜI NÓI ĐẦU.......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA MÁC – LÊ NIN VỀ DỊCH VỤ VÀ HÀNG HÓA
ĐẶC BIỆT................................................................................................................. 2
1.1. Các khái niệm liên qua....................................................................................... 2
1.1.1. Khái niệm dịch vụ.......................................................................................... 2
1.1.2. Khái niệm hàng hóa đặc biệt.......................................................................... 2
1.2. Đặc điểm của dịch vụ......................................................................................... 2
1.3. Bản chất dịch vụ................................................................................................. 3

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ HÀNG HÓA Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY................................................................................................................ 4
2.1. Đặc điểm kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phát triển theo định hướng
XHCN ở Việt Nam.................................................................................................... 4
2.1.1. Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế kém phát
triển, mang nặng tính tự cấp, tự túc và quản lý theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung
sang nền kinh tế hàng hóa, vận hành theo cơ chế thị trường.................................. 4
2.1.2. Nền kinh tế hàng hóa phát triển theo định hướng XHCN thơng qua bản chất và
vai trị quản lý của Nhà nước.................................................................................. 4
2.1.3. Nền kinh tếquan hệ với kinh tế các nước trên thế giới tồn tại dưới nhiều hình
thức…...................................................................................................................... 5
2.1.4. Nền kinh tế hàng hóa dựa trên cơ sở nền kinh tế nhiều thành phần..............6
2.2. Đánh giá về nền kinh tế hàng hóa taị Việt Nam............................................. 6
2.2.1.Thị trường Việt Nam...................................................................................... 6



2.2.2.Lực lượng sản xuất......................................................................................... 7
2.2.3.Cơ chế thị trường ở Việt Nam........................................................................ 8
2.2.4.Những thành tựu đạt được với nền kinh tế hàng hóa................................... 10
2.3. Các giải pháp phát triển nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam........................12
2.3.1.Đa dạng hố các hình thức tư liệu sản xuất..................................................12
2.3.2. Tiến hành phân công lao động xã hội chú ý đến các nghành nghề truyền thống…
13
2.3.3.Hình thành đồng bộ các loại thị trường........................................................ 13
2.3.4.Tiếp tục đổi mới và nâng cao vai trò quản lý vĩ mơ của Nhà nước.............13
2.3.5Đẩy mạnh việc xây dựng và hồn thiện hệ thống luật pháp và cải cách nền
hành chính quốc gia.............................................................................................. 14
2.3.6.Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần..................................................... 14
KẾT LUẬN............................................................................................................. 16


LỜI NĨI ĐẦU
Từ khi hịa bình độc lập lại năm 1954, miền Bắc nước ta đã bước vào thời
kỳ quá độ tiến lên CNXH với đặc điểm như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói "Đặc
điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến
thẳng lên CNXH không phải qua giai đoạn phát triển TBCN".
Từ năm 1975, sau khi đất nước đã hoàn toàn độc lập và cả nước thống nhất,
cách mạng dân tộc dân chủ đã hoàn toàn thắng lợi trên phạm vi cả nước thì cả nước
cùng tiến hành cách mạng XHCN, cùng quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đảng ta
từ đại hội VI đã mở ra mơ hình kinh tế mới đó là mơ hình kinh tế thị trường có sự
điều tiết của nhà nước. Đặc biệt Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh, thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một thời kỳ lịch sử mà: " Nhiệm vụ quan trọng nhất
của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,…
tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có cơng nghiệp và nơng nghiệp hiện đại, có văn hố
khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phỉa cải
tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt

và lâu dài".
Nền kinh tế mới đó là phải xóa bỏ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp,
phát triển nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế có sự điều tiết của
nhà nước. Trong nền kinh tế "mở" đó khơng thể thiếu được kinh tế hàng hóa đó là
một mơ hình kinh tế kích thích tính năng động, sáng tạo của chủ thể kinh tế. Song
trong nền kinh tế hàng hóa khơng thể tránh khỏi những khó khăn khi quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Nhân đây, trong bài tiểu luận: " Lý luận của kinh tế chính trị
học Mác lenin về dịch vụ và một số hàng hóa đặc biệt. Liên hệ thực tiễn.", em
xin được chỉ ra những đặc điểm và những điểm hạn chế của Nền kinh tế hàng hóa
nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với những điều kiện và
phương hướng phát triển kinh tế hàng hóa ở nước ta.

5


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA MÁC – LÊ NIN VỀ DỊCH VỤ VÀ HÀNG
HÓA ĐẶC BIỆT
1.1.

Các khái niệm liên qua

1.1.1. Khái niệm dịch vụ
Trong kinh tế học, dịch vụ được hiểu là những thứ tương tự như hàng hóa
nhưng là phi vật chất.
Philip Kotler cho rằng: “Dịch vụ là mọi hành động và kết quả mà một bên có
thể cung cấp cho bên kia và chủ yếu là vô hình và khơng dẫn đến quyền sở hữu một
cái gì đó. Sản phẩm của nó có thể có hay khơng gắn liền với một sản phẩm vật
chất”.
PGS.TS Nguyễn Văn Thanh cho rằng: “Dịch vụ là một hoạt động lao động

sáng tạo nhằm bổ sung giá trị cho phần vật chất và làm đa dạng hoá, phong phú
hoá, khác biệt hoá, nổi trội hoá… mà cao nhất trở thành những thương hiệu, những
nét văn hố kinh doanh và làm hài lịng cao cho người tiêu dùng để họ sẵn sàng trả
tiền cao, nhờ đó kinh doanh có hiệu quả hơn”.
Dịch vụ là hoạt động sáng tạo của con người, là hoạt động có tính đặc thù
riêng của con người trong xã hội phát triển, có sự cạnh tranh cao, có yếu tố bùng
phát về công nghệ, minh bạch về pháp luật, minh bạch chính sách của chính quyền.
1.1.2. Khái niệm hàng hóa đặc biệt
Trong kinh tế chính trị Marx-Lenin, hàng hóa cũng được định nghĩa là sản
phẩm của lao động thông qua trao đổi, mua bán. Hàng hóa có thể là hữu hình
như sắt thép, quyển sách hay ở dạng vơ hình như sức lao động. Karl Marx định
nghĩa hàng hóa trước hết là đồ vật mang hình dạng có khả năng thỏa mãn nhu cầu
con người nhờ vào các tính chất của nó.


Khác với hàng hóa thơng thường, hàng hóa đặc biệt là sức lao động bao hàm
yếu tố tinh thần và lịch sử. Thể hiện ở chỗ: nhu cầu vật chất của công nhân và nhu
cầu về tinh thần (vui chơi, giải trí…)
1.2.Đặc điểm của dịch vụ

❖ Tính vơ hình:
Tính vơ hình được thể hiện ở chỗ người ta khơng thể nào dùng các giác quan
để cảm nhận được các tính chất cơ lý hóa của dịch vụ.

❖ Tính khơng thể tách rời:
Dịch vụ thường được cung ứng và tiêu dùng một cách đồng thời, khác với
hàng hoá vật chất thường phải sản xuất ra rồi nhập kho, phân phối qua nhiều nấc
trung gian, rồi sau đó mới dến tay người tiêu dùng cuối cùng.

❖ Tính khơng đồng nhất:

Khó có thể có một tiêu chuẩn chung nào để đánh giá được chất lượng của dịch
vụ. (thậm chí cùng một loại hình dịch vụ cũng khơng có tiêu chí để đánh giá chất
lượng bởi vì chất lượng của sản phẩm nói chung sẽ được đánh giá trước tiên thể
hiện qua chỉ số kỹ thuật, tuy nhiên vì dịch vụ mang tính vơ hình nên rất khó có
được những chỉ số kỹ thuật và ở đây chất lượng dịch vụ được thể hiện ở sự thỏa
mãn, hài lòng của người tiêu dùng – nhưng sự hài lòng của người tiêu dùng cũng
rất khác nhau, nó có thể thay đổi rất nhiều).

❖ Tính khơng thể cất trữ:
Tính khơng thể cất trữ là hệ quả của tính vơ hình và khơng thể tách rời. Ở đây
nhà cung cấp dịch vụ không cất trữ những dịch vụ nhưng họ cất trữ khả năng cung
cấp dịch vụ cho những lần tiếp theo. Dịch vụ chỉ tồn tại vào thời gian mà nó được
cung cấp. Do vậy, DV không thể sản xuất hàng loạt để cất vào kho dự trữ, khi có
nhu cầu thị trường thì đem ra bán.

❖ Tính khơng chuyển quyền sở hữu được:
Khi mua một hàng hoá, khách hàng được chuyển quyền sở hữu và trở thành
chủ sở hữu hàng hố mình đã mua. Khi mua DV thì khách hàng chỉ được quyền sử


dụng DV, được hưởng lợi ích mà DV mang lại trong một thời gian nhất định mà
thôi.
1.3.

Bản chất dịch vụ
Bản chất của dịch vụ bao gồm 3 đặc tính sau đây:

– Dịch vụ là quá trình vận hành các hoạt động, hành vi dựa vào các yếu tố vơ hình
nhằm giải quyết các mối quan hệ giữa doanh nghiệp với khách hàng.
– Dịch vụ là một q trình, nó diễn ra theo một trình tự nhất định bao gồm nhiều giai

đoạn, nhiều bước khác nhau. Trong mỗi giai đoạn đôi khi sẽ có thêm nhiều dịch vụ
phụ, dịch vụ cộng thêm.
– Dịch vụ gắn liền với hiệu suất/ thành tích bởi mỗi dịch vụ đều gắn với mục tiêu là
mang lại giá trị nào đó cho người tiêu dùng. Hiệu suất ở đây chính là những tiện
ích, giá trị và giá trị gia tăng mà khách hàng nhận được sau khi sử dụng dịch vụ.


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ HÀNG HÓA Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY
2.1. Đặc điểm kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phát triển theo định hướng
XHCN ở Việt Nam
2.1.1. Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế kém
phát triển, mang nặng tính tự cấp, tự túc và quản lý theo cơ chế kế hoạch hóa
tập trung sang nền kinh tế hàng hóa, vận hành theo cơ chế thị trường.
Đi lên CNXH không qua giai đoạn phát triển TBCN nên nước ta thiếu cái
“cốt vật chất” của một nền kinh tế phát triển. Do hậu quả nặng nề của nhiều năm
chiến tranh, của nền kinh tế kém phát triển, của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp,
…nền kinh tế của nước ta đã tụt hậu nghiêm trọng so với khu vực và quốc tế.
Trong bối cảnh đó, KTTT là điều kiện rất quan trọng đưa nền kinh tế nước ta ra
khỏi khủng hoảng, phục hồi sản xuất, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, bắt kịp bước
tiến của thời đại.
Thực tiễn những năm gần đây cho thấy, đất nước ta chuyển sang cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước là phù hợp với quy luật khách quan, hợp lòng
dân, đáp ứng yêu cầu của cuộc sống. Nhờ chuyển sang KTTT mà nền kinh tế nước
ta đã có những thay đổi căn bản, nhờ cơ chế thị trường mà phân bổ các nguồn lực
một cách hiệu quả hơn. Các động lực lợi ích đã phát huy tác dụng, cơ chế quản lý
mới đã được vận hành và ngày càng tham gia tốt hơn vào phân công lao động quốc
tế. Nhưng, Đảng ta chủ trương chuyển sang KTTT, không phải là một thị trường
bất kỳ, mà là thị trường định hướng XHCN. Về bản chất đó là cơ chế hỗn hợp
mang tính định hướng XHCN, vừa kế thừa những thành tựu của lồi người, vừa

gắn liền vớiđặcđiểm và mục tiêu chính trịlà sựkết hợp giữa tăng trưởng kinh tế
và tiến bộ xã hội. Đó là ngun tắc chiến lược như sự tìm tịi cho một thiết chế mới.
Trước đây, có lúc chúng ta hiểu chưa đúng, đồng nhất KTTT với kinh tế TBCN,
mà cho rằng thị trường là bản chất. Vì vậy, mà không tận dụng được sức mạnh của
thị trường để phát triển kinh tế. Giờ đây, chúng ta đã hiểu được rằng thị trường


khơng mang bản chất chế độ, mà chỉ có chế độ xã hội nào biết hay không biết tận
dụng những lợi thế đóđể phục vụ chế độ mình. Thị trường được coi là một phương
tiện quan trọng để xây dựng và phát triển kinh tế.
Vì vậy, càng đổi mới kinh tế, càng gần với CNXH hơn. Nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần hợp tác, đua tranh phát triển ấy có thể đi lên sản xuất lớn XHCN
bằng chế độ hợp tác trên nền tảng của một nền sản xuất xã hội hóa.
2.1.2. Nền kinh tế hàng hóa phát triển theo định hướng XHCN thơng qua bản chất
và vai trị quản lý của Nhà nước
Sự vận động của nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường khơng thể nào
giải quyết hết được những vấn đề do chính cơ chế đó và bản thân đời sống KT- XH
đặt ra. Đó là tình trạng thất nghiệp, lạm phát, khủng hoảng, phân hóa bất bình đẳng,
ơ nhiễm mơi trường, sự bùng nổ dân số cũng như những hiện tượng xã hội khác.
Những tình trạng và hiện tượng trên ở những mức độ khác nhau, trực tiếp hay gián
tiếp đều có tác động ngược trở lại, làm cản trở sự phát triển “bình thường” của một
xã hội nói chung và của nền kinh tế hàng hóa nói riêng. Vì vậy sự tác động của Nhà
nước- một chủ thể có khả năng nhận thức và vận dụng các quy luật khách quanvào nền kinh tế là một tất yếu của sự phát triển KT- XH. Thiếu sự “can thiệp” của
Nhà nước vào kinh tế để cho nền KTTT tự do hoạt động, thì việc điều hành nền
kinh tế nước ta sẽ không thể có hiệu quả, cũng giống như người ta muốn vỗ tay mà
chỉ dùng một “bàn tay”.
Sự quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế hàng hóa ở nước ta được thực
hiện bằng luật pháp và các công cụ chính sách vĩ mơ khác. Nhà nước sử dụng
những cơng cụ đó để quản lý các hoạtđộng kinh tế làm cho nền kinh tế “ lành
mạnh” hơn, giảm bớt những thăng trầm,đột biến xấu trên conđường phát triển của

nó, khắc phục được tình trạng phân hóa bất bình đẳng, baơ vệ được tài nguyên môi
trường của đất nước. Như vậy, sự vận động của nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước ở nước ta là một sự vận động được điều tiết


bởi sự thống nhất giữa cơ chế thị trường- “bàn tay vô hinh”, và sự quản lý của Nhà
nước- “bàn tay hữu hình”.
2.1.3. Nền kinh tếquan hệ với kinh tế các nước trên thế giới tồn tại dưới nhiều hình
thức
Kinh tế “khép kín” thường gắn liền với nền kinh tế phong kiến, gắn với sản
xuất nhỏ, với tình trạng “bế quan toả cảng” tự cung tự cấp và với nền kinh tế “chỉ
huy”. Nhìn chung, đó là một nền kinh tế kém phát triển, bảo thủ, trì trệ.
Sự ta đời và phát triển của nền kinh tế hàng hóa đã làm phá vỡ các mối quan
hệ kinh tế truyền thống của nền kinh tế khép kín. Đặc biệt đến giai đoạn TBCN, sự
phát triển của kinh tế hàng hóa đã làm cho thị trường dân tộc hoạt động gắn bó với
thị trường thế giới. Chinh sự giao lưu và các mối liên hệ kinh tế được mở rộng ra
nước ngoài đã làm cho nền kinh tế hàng hóaTBCN có những bước phát triển nhanh
chóng.
Mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với nước ngồi là tất yếu vì sản xuất và trao
đổi hàng hóa tất yếu vượt khỏi phạm vi quốc gia mang tính chất quốc tế. đồng thời
đó cũng là tất yếu của sự phát triển nhu cầu.
Biệt lập trong sự phát triển kinh tế tất yếu dẫn tới đói nghèo. Do đó việc mở
rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài dưới nhiều dạng khác nhau đối với nước ta
như là một tất yếu trong sự phát triển, khi trình độ khoa học kỹ thuật thế giới cho
phép đáp ứng nhu cầu cả về sản xuất lẫn tiêu dùng. Thơng qua mởrộng quan hệ
kinh tế với nước ngồi để biến nguồn lực bên ngoài thành nguồn lực bên trong.
Điều đó tạo điều kiện cho q trình phát triển rút ngắn ở nước ta.
Mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngồi bằng nhiều hình thức như tăng
cường hoạtđộng ngoại thương, hợp tác, liên doanh, liên kếtđểthu hút vốnđầu tư
vào nước ta. Gia nhập vào các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực. Tranh thủ nắm

bắt những ngành, những mặt hàng “mũi nhọn” có tương lai gắn với cơng nghệ mới,
tiến tới có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới, nhanh chóng đưa nền kinh
tế nước ta hội nhập voà nhịp điệu của kinh tế thế giới.


Việc mở cửa nền kinh tế, đòi hỏi phải đảm bảo ngun tắc bình đẳng, tơn
trọng lẫn nhau, đảm bảo chủ quyền và cùng có lợi.
2.1.4. Nền kinh tế hàng hóa dựa trên cơ sở nền kinh tế nhiều thành phần
Cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần đó là do cịn nhiều hình
thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất:
- Kinh tế Nhà nước
- Kinh tế tư bản Nhà Nước
- Kinh tế hợp tác
- Kinh tế tư bản tư nhân
- Kinh tế cá thể tiểu chủ
Nền kinh tế nhiều thành phần trong sự vận động của cơ chế thị trường ở
nước ta là nguồn lực tổng hợp to lớn để đưa nền kinh tế vượt khỏi thực trạng thấp
kém, đưa nền kinh tế hàng hóa phát triển kể cả trong điều kiện ngân sách Nhà
nước hạn hẹp.
Nền kinh tế nhiều thành phần vừa phản ánh tính đa dạng phong phú trong
việc đáp ứng nhu cầu xã hội vừa phản ánh tính chất phức tạp trong việc quản lý
theo định hướng XHCN. Do đó, việc “phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
phải đi đôi với tăng cường quản lý của Nhà nước về KT-XH”. Để hạn chế và khắc
phục những hậu quả của mặt trái kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo
cơ chế thị trường mang lại, giữ cho công cuộc đổi mới đi đúng hướng và phát huy
bản chất tốt đẹp của CNXH, Nhà nước phải thực hiện tốt vai trị quản lý KT-XH
bằng luật pháp, kế hoạch, chính sách, thông tin, tuyên truyền, giáo dục và các công
cụ khác.
Nhận thức tính chất nhiều thành phần của nền kinh tếlà một tất yếu khách
quan, từ đó có thái độ đúng đắn trong việc khuyến khích sự phát triển của chúng

theo nguyên tắc tự nhiên của kinh tế, phục vụ cho sự nghiệp đi lên CNXH ở nước
ta.
2.2. Đánh giá về nền kinh tế hàng hóa taị Việt Nam


2.2.1. Thị trường Việt Nam
Để phát triển kinh tế hàng hóa ở nước ta, cần đẩy mạnh chú trọng phát triển
các loại thị trường. Quá trình chuyển đổi ở nước ta cần phải từng bước hình thành
thị trường thống nhất và thơng suốt cả nước. Từng bước hình thành và mở rộng
đồng bộ trường thống nhất và thông suốt cả nước , Từng bước hình thành và mở
rộng đồng bộ thị trường hàng tiêu dùng, tư liệu sản xuất, dịch vụ, thị trường vốn và
tiền tệ.... Cần phải mở mở rộng giao lưu giao lưu hàng hóa, phát triển thị trường
trong nước, chú trọng nông thôn, miền núi , miền núi, xóa bỏ triệt để mọi hình thức
chia cắt thị trường theo ranh giới hành chính. Đồng thời gắn thị trường trong nước
với thị trường quốc tế, giải quyết mối quan hệ giữa tiêu dùng trong nước và xuất
khẩu, có chính sách khuyến khích sản xuất nội địa để phát triển mạnh mẽ thị trường
nước ta, hội nhập với thị trường khu vực và thế giới.
Ở nước ta, kinh tế hàng hóa mà Đảng chủ trương xây dựng và phát triển
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là “ nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận động theo cơ chế thị trường có qn lí
nhà nước”
Trong suốt q trình phát triển của kinh tế hàng hóa nước ta, đã có rât nhiều
những làng nghề truềyn thống ra đời và phát triển rực rỡ( đó là minh chứng sinh
động cho việc phân công lao động trong nền kinh tế hàng hóa). Và thực tế cho thấy
rằng việc phân cơng lao động như thế rất có hiệu quả, thể hiện ở chỗ sản phẩm của
các làng nghề đó có chất lượng rất tốt , ko chỉ có chỗ đứng trong thị trường nội địa
mà còn rất được ưa chuộng tại các thị trường nước ngòai. ( tuy nhiên do sự phát
triển không đồng bộ của nền kinh tế cũng như các tác động của bên ngoai, nhiều
làng nghềtruyền thốngđã bịmai một,Đảng và nhà nước tađang cốgắng phục hồi
và phát triển). Bên cạnh đó, ở nước ta hiện nay ngày nay xuất hiện ngày càng nhiều

những ngành nghề mới.
2.2.2. Lực lượng sản xuất


Với dân số được đánh giá đơng nhất nhì khu vực Đông Nam Á, lực lượng
sản xuất ở nước ta rất đa dạng và dồi dào. Tuy nhiên, vì xuất phát điểm là một nước
gắn liền với nghề nông nên trình độ của lực lượng sản xuất nước ta khơng được
đánh giá cao, nói cách khác , trinh độ của lao động nước ta còn thấp so với mặt
bằng chung của thế giới. Một trong những tư tưởng xuyên suốt do hội nghị ban
chấp hành trương ương Đảng khóa VIII là nhằm cụ thể hóa và thực hiện thành cơng
những mục tiêu kinh tế xã hội mà Đại hội VIII của Đảng đè ra là “ ưu tiên phát
triển lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định
nghĩa xã hội chu nghĩa”. Đây là bước phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng
ta. Nó bắt nguồng từ việc tất yếu phải giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế bằng phát triển kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lí của nhà nước. Theo định hướng XHCN, xét từ quan hệ biện
chứng giữa lực lượn sản xuất và lực lượng sản xuất, thì lực lượng sx ln là yếu tố
động nhất, quyết định đối với sự phát triển của sản xuất xã hội. Chính vì vậy, để đạt
được mục tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2030 Đảng đã xác định
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước bằng cách ưu tiên phát triển lực lượng sản
xuất, thực chất là việc chuển từ sản xuất nhỏ nên sản xuất lớn.
Cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần đó là do cịn nhiều hình
thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Đại hội Đảng VIII khẳng định các thành
phần kinh tế tồn tại khách quan tương ứng với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, trong giai đoạn hiên nay, đó là kinh tế nhà nước, kinh tế hợp
tác, kinh tế cá biệt, kinh tế tư bản chủ nghĩa và kinh tế tư bản nhà nước.
2.2.3. Cơ chế thị trường ở Việt Nam
Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ kinh tế kém phát
triển, mang nặng tính tự cấp tự túc và quản lý theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung
sang nền kinh tế hàng hóa vận hàng hóa tập trung sang nền kinh tế hàng hóa vận

hành theo cơ chế thị trường.


Đại hội Đảng VII đã khẳng định, các thành phần kinh tế đang tồn tại khách
quan tương ứng với tính chất và trình độ sản xuất. Nền kinh tế phong phú trong
việc đáp ứng nhu cầu thành phần vừa phản ánh tính chất phức tạp trong việc quản
lý theo định hướng XHCN. Do đó, việc “ phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần phải đi đơi với việc tăng cương quản lí nhà nước về kinh tế xã hội . Để hạn
chế và khắc phục những hậu quả của mặt trái của kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường mang lại, giữ cho công cuộc đổi mới đúng
hướng va phát huy bản chất tốt đẹpcua CNXH . Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò
quản lý kinh tế - xã hội bằng luật pháp. kế hoạch, chính sách, thơng tin, tun
truyền, giáo dục và các cơng cụ khác. Nhận thức tính chất nhiều thành phần của
kinh tế là một tất yếu khách quan, từ đó có thái độ đúng đắn trong việc khuyến
khích sự phát triển của chúng theo nguyên tắc tự nhiên của kinh tế, phục vụ cho sự
nghiệp đi lên CNXH ở nước ta. Sự tồn tại của nền kinh tế hàng hố nhiều thành
phần, cũng có nghĩa là cịn có các quy luật kinh tế khác nhau hoạt động. Sự vận
động và phát triển của các thành phần kinh tế trong giai đoạn này chịu sự chi phối
trực tiếp của các quy luật thị trường. Thông qua hoạt động của các quy luật thị
trường mà nó đào thải những mặt, yếu tố bất hợp lý, thúc đẩy nhanh quá trình xã
hội hoá sản xuất. Sự ra đời và phát triển của kinh tế hàng hoá đã làm phá vỡ các
mối quan hệ kinh tế truyền thống của nền kinh tế khép kín, kém phát triển, bảo thủ ,
trì trệ. Đặc biệt đến giai đoạn tư bản chủ nghĩa sự phát triển của kinh tế hàng hoá đã
làm cho thị trường dân tộc hoạt động gắn bó với thị trường thế giới. Việc mở rộng
quan hệ hợp tác với nước ngoài là tất yếu vì sản xuát và trao đổi hàng hố tất yếu
vượt qua phạm vi quốc gia, mang tính chất quốc tế, đồng thời đó cũng là tất yếu sự
phát triển nhu cầu. Biệt lập trong sự phát triển kinh tế dẫn đến đói nghèo. Do đó mở
rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài dưới nhiều dạng khác nhau đối với nước ta
như là một tất yếu trong sự phát triển, khi trình độ khoa học kỹ thuật của thế giới
cho phép đáp ứng nhu cầu cả về sản xuất lần tiêu dùng. Thông qua mở rộng quan

hệ kinh tế với nước ngoài để biến nguồn lực bên ngoài thành nguồn lực bên trong.


Điều đó tạo điều kiện cho q trình phát triển rút gắn ở nước ta. Mở rộng quan hệ
kinh tế với nước bằng nhiều hình thức như tăng cường hoạt động ngoại thương,
hợp tác, liên doanh, liên kết đề thu hút vốn đầu tư cho nước ta. Gia nhập vào các tổ
chức kinh tế thế giới và khu vực. Tranh thủ nắm bắt những, những mặt hàng mũi
nhọn có tương lai, gắn với cơng nghệ mới, tiến tới có khả năng cạnh tranh trên thị
trường thế giới., nhanh chóng đưa nền kinh tế nước ta hội nhập vào nhịp điệu của
nền kinh tế thế giới. Việc “mở cửa” về kinh tế phải đảm bảo ngun tắc bình đẳng,
tơn trọng lẫn nhau, đảm bảo chủ quyền và cũng có lợi. Nước ta đang từng bước quá
độ lên CNXH không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, xu hướng vận động
và phát triển kinh tế hàng hoá gắn liền với các đặc điểm sau:
Một là, kinh tế thị trường bao gồm nhiều loại hình đan xen nhau :nhiều thành
phần kinh tế với nhiều hình thức sở hữu khác nhau tham gia vào nền kinh tế thị
trường. Mỗi kiểu hàng hoá, tham gia vào nền kinh tế thị trường có những nét đặc
thù về bản chất kinh tế-xã hội và trình độ phát triển, nhưng nó đềul la các bộ phận
khác nhau của nền kinh tế quốc dân thống nhất. Bởi vậy chúng ta vừa hợp tác, vừa
cạnh tranh nhau, bình đẳng trước pháp luật, được pháp luật bảo vệ. Nhân tố kinh tế
và quan hệ kinh tế trong mỗi kiểu sản xuất hàng hoá của mỗi thành phần kinh tế
đều xuất hiện cái mới. Trong đó, sản xuất hàng hố XHCN giữ vai trò chủ đạo,
định hướng với các kiểu sản xuất hàng hố khác. Nhận thức được tính chất nhiều
thành phần kinh tế là một tất yếu khách quan từ đó có thái độ đúng đắn trong
khuyến khích sự phát triển của chúng theo nguyên tắc tựn nhiên của kinh tế, phục
vụ cho việc đi lên xhcn.
Hai là, nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế
kém phát triển, mang nặng tính tựcấp tựtúc và quản lý theo cơchếkếhoạch hoá
tập trung sang nền kinht tế hàng hoá, vận hành theo cơ chế thị trường. Tuy nhiên,
kinh tế thị trường ở nước ta vẫn cịn ở trình độ kém phát triển. Biểu hiện ở số lượng
và chủng loại hàng hoá nghèo nàn, khối lượng hàng hố lưu thơng thị trường và

kim ngạch xuất khẩu cịn nhỏ, chi phí sản xuất và giá cả hàng hoá cao, chất lượng


thấp, quy mô và dung lượng thị trường hẹp, sức cạnh tranh của các doanh nghiệp
và hàng hoá trên thị trường trong nước cũng như nước ngồi cịn yếu, đội ngũ các
nhà quản lý doanh nghiệp giỏi cịn ít, thu nhập của người lao động cịn thấp...Trình
độ phát triển thấp của hàng hố bắt nguồn từ trình độ thấp của lực lượng sản xuất,
từ tính chất sản xuất nhỏ của nền kinh tế,từ trình độ phân cơng lao động xã hội kém
phát triển, từ sự kém phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng, lao động thủ cơng cịn
chiếm tỷ trọng lớn, từ sự kìm hãm của nền kinh tế trong cơ chế kế hoạch hoá tập
trung, bao cấp một thời gian quá lâu dài, từ sự nhận thức giản đơn về CNXH.
Ba là, nền kinh tế phát triển theo hướng hoà nhập vào thị trường thế giới và
khu vực. Cách mạng khoa học-kỹ thuật công nghệ càng phát triển càng làm cho lực
lượng sản xuất phát triển trình độ xã hội hố cao, dẫn đến q trình khu vực hoá,
quốc tế hoá nền kinh tế ngày càng mở rộng. Do vậy, phát triển kinh tế thị trường
không phải chỉ dựa trên cơ sở điều kiện trong nước mà cịn phải tính đến quan hệ
quốc tế, đến xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế. Nền kinh tế thị trường của mỗi
quốc gia muốn phát triển không thể không gắn với thị trường thế giới. Bất cứ một
quốc gia nào, cho dù là nước phát triển nhất cũng khơng thể sản xuất tất cả các loại
hàng hố.Vì vậy mỗi nước phải tùy theo lợi thế của mình lựa chọn mặt hàng xuất
khẩu có hiệu quả và cạnh tranh được trên thị trường thế giới. Sản xuất hàng hoá của
nước ta sẽ phát triển nếu biết cách thu hút vốn đầu tư nước ngoài và áp dụng những
tiến bộ khoa học công nghệ trên thế giới để khai thác những tiềm năng của nền
kinh tế. Muốn vậy, con đường đúng đắn là phát triển nền kinh tế mở: hướng mạnh
về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu có hiệu quả.
Bốn là, nền kinh tế thị trường phát triển định hướng XHCN thơng qua bản
chất và vai trị của nhà nước .Sựvậnđộng của nền kinh tếhàng hố thơng qua cơ
chế thịt rường không thể nào giải quyết được những vấn đề như: lạm phát, thất
nghiệp, khủng hoảng, phân hoá bất bình đẳng, ơ nhiễm mơi trường, sự bùng nổ dân
số cũng như các hiện tượng xã hội khác. Những tình trạng và hiện tượng trên ở

những mức độ khác nhau trực tiếp hay gián tiếp đều có tác động ngược trở lại, làm


cản trở sự phát triển bình thường của một xã hội nói chung và của nền kinh tế hàng
hố nói riêng. Phát triển kinh tế hàng hoá gắn liền với nền kinh tế mởl à tất yếu,
nhưng trong quá trình đó, bên cạnh việc tiếp thu tinh hoa văn hố thế giới, thì cũng
có nguy cơ du nhậpn hững yếu tố văn hoá xa lạ với truyền thống, đặc điểm của dân
tộc. Muốn giữ được nền kinh tế thị trường mang bản sắc văn hố Việt Nam phải
thực hiện có hiệu quả sự quản lý vĩ mô của nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
không chấp nhận lối sống thực dụng với sự chi phối tất cả của đồng tiền, khơng
chấp nhận thương mại hố mọi hoạt động của đời sống xã hội kết hợp sự chọn lọc
tinh hoa của văn minh nhân loại với giữ gìn những yếu tố tinh tuý của văn hoá dân
tộc, xây dựng những yếu tố văn hóa
2.2.4. Những thành tựu đạt được với nền kinh tế hàng hóa
Thực hiện đường lối đổi mới, với mơ hình kinh tế tổng qt là xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội, tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ
phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
1986-1990: GDP tăng 4,4%/năm. Việc thực hiện tốt ba chương trình mục
tiêu phát triển về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu được
đánh giá là thành công bước đầu cụ thể hóa nội dung của CNH XHCN trong chặng
đường đầu tiên. Đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế
quản lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống KTXH và giải phóng
sức sản xuất.
1991-1995: Nền kinh tế khắc phục được tình trạng trì trệ, suy thối, đạt được
tốc độ tăng trưởng tương đối cao liên tục và toàn diện.GDP bình quân năm tăng
8,2%. Đất nước ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế, bắt đầu đẩy mạnh CNH HĐH đất nước.
Từ năm 1996-2000, là bước phát triển quan trọng của thời kỳ mới, đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước. Chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực
cùng thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp đặt nền kinh tế nước ta trước những thử



thách. Tuy nhiên, giai đoạn này, Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng tổng sản
phẩm trong nước 7%/năm.
Năm 2000-2005, nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao, liên tục, GDP
bình quân mỗi năm đạt 7,5%. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng đạt 8,4%, GDP theo
giá hiện hành, đạt 838 nghìn tỷ đồng, bình quân đầu người đạt trên 10 triệu đồng,
tương đương với 640 USD.
Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu 50 vạn - 1 triệu tấn lương
thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, nước
ta đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo, thứ 2 về cà phê, thứ 4 về cao su, thứ 2
về hạt điều, thứ nhất về hạt tiêu.
2005-2010: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 7%. Mặc dù khủng
hoảng tài chính và suy thối kinh tế toàn cầu, nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài
vào nước ta đạt cao. Trong 5 năm, tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỉ USD, vượt
77% so với kế hoạch đề ra. Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 150 tỉ
USD, gấp hơn 2,7 lần kế hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so với giai đoạn 2001-2005.
Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỉ USD, gấp hơn 1,5 lần so với mục tiêu đề ra;
giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỉ USD, vượt 16%. GDP bình quân đầu người đạt
1.168 USD.
Giai đoạn 2011 - 2015, duy trì được tốc độ cao, đặc biệt là trong các năm
2017 - 2019; tính chung giai đoạn 2016 - 2020, tăng trưởng GDP dự kiến khoảng
6,84%/năm (đạt mục tiêu 6,5 - 7% của Kế hoạch 2016 - 2020 đã đề ra); đóng góp
của khu vực Công nghiệp xây dựng vào tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2016 - 2020
đã tăng lên hơn 44% (so với mức tương ứng 39,9% giai đoạn 2011 - 2015).
Năm 2019, Việt Nam tiếp tục duy trì thành tích xuất siêu năm thứ4 liên tiếp,
với mức xuất siêu khoảng 9,9 tỷ USD (dù nhập siêu dịch vụ 2,5 tỷ USD); nhiều
mặt hàng xuất khẩu của ta giữ được vị trí quan trọng trong xếp hạng thành tích xuất
khẩu của thế giới, như: dệt may (đứng thứ 7 thế giới về xuất khẩu với kim ngạch
vào khoảng 33 tỉ USD); da giày (thứ 3 thế giới về sản xuất và thứ 2 về xuất khẩu



với kim ngạch vào khoảng 17 tỷ USD); điện tử (đứng thứ 12 thế giới về xuất khẩu,
trong đó mặt hàng điện thoại di động đứng thứ 2 thế giới với kim ngạch vào
khoảng khoảng 50 tỷ USD); thủy sản (đứng thứ tư thế giới về xuất khẩu với kim
ngạch vào khoảng 9 tỷ USD); đồ gỗ (đứng thứ 5 thế giới về xuất khẩu với kim
ngạch vào khoảng 9 tỷ USD) và một số mặt hàng nông sản khác như cà phê, hồ
tiêu, gạo…ln đứng ở trong nhóm các quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới; nhiều
mặt hàng của Việt Nam, đặc biệt là các mặt hàng như cá basa, tôm... tiếp tục được
xuất khẩu sang các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU… với thuế suất bằng 0% hoặc ở
mức rất thấp.
Trên cơ sở mức tăng trưởng khả quan này, năm 2021, Việt Nam đặt mục tiêu
tăng trưởng GDP đạt khoảng 6% và trong giai đoạn 2021-2025, tốc độ tăng trưởng
GDP bình quân đạt khoảng 6,5%-7%. Tuy nhiên, để đạt được mức tăng trưởng kỳ
vọng này, Việt Nam sẽ phải đối diện với khơng ít khó khăn, thách thức. Những con
số trên đã cho thấy tốc độ tăng trương ngoạn mục và đáng tự hào của VN kể từ khi
nước ta chuyển sang nền kinh tế hàng hóa.
2.3. Các giải pháp phát triển nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam
2.3.1.Đa dạng hố các hình thức tư liệu sản xuất
Như đã biết, cơ sở tồn tại và phát triển kinh tế hàng hóa, KTTT là sự tách
biệt về kinh tế do chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất quy định. Vì vậy, để
phát triển KTTT, trước hết phải đa dạng hóa các hình thức sở hữu trong nền kinh
tế. Chủ trương đa dạng hóa sở hữu được Đảng ta đề ra từ lâu, nhưng cho đến nay,
việc thực hiện chủ trương này còn chưa triệt để, chủ yếu do có sự khác nhau rất
nhiều trong nhận thức về vị trí, vai trị các thành phần kinh tế, các loại hình doanh
nghiệp. Trong những năm qua, nhở đổi mới tưduy từnền kinh tếkếhoạch hóa tập
trung sang KTTT mà nền kinh tế nước ta có bước phát triển vượt bậc. Chính vì vậy,
việc đổi mới tư duy về vị trí, vai trị các thành phần kinh tế, cácloại hình doanh
nghiệp sẽ tạo đà cho sự phát triển kinh tế nước ta trong những năm tới. Tuy nhiên,
mỗi thành phần kinh tế, mỗi loại hình sở hữu đóng vai trị nhất định. Các doanh



nghiệp Nhà nước giữ vai trò tạo ra hiệu quả KT- XH cho tồn nền kinh tế thơng
qua cung cấp hàng hóa cơng cộng và mở đường cho các doanh nghiệp khác phát
triển. Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác có vai trị trực tiếp sinh lợi
cho nền kinh tế quốc dân. Trên cơ sở này, để bố trí hợp lý phạm vi hoạt động của
các doanh nghiệp, xây dựng và thực hiện cơ chế chính sách kinh tế theo hướng tạo
mơi trường kinh doanh bình đẳng cho các loại hình doanh nghiệp của nền kinh tế
quốc dân.
2.3.2. Tiến hành phân công lao động xã hội chú ý đến các nghành nghề truyền
thống
Phân công lao động xã hội là của sản xuất hàng hóa, của phát triển KTTT .
Vì vậy, quá trình phát triển KTTT ở nước ta địi hỏi phải đẩy mạnh phân cơng lại
lao động xã hội.
Trước hết, phải đẩy mạnh phân công lao động ở các vùng của đất nước. Hiện
nay, ở các thành thị, vùng đồng bằng, phân công lao động, phát triển ngành nghề đã
có bước phát triển khá. Song ở miền núi, hải đảo vẫn còn mang nặng sắc thái của
nền kinh tế tự nhiên. Đầu tư vào các vùng xa xôi, hẻo lánh như vậy rất khó sinh lời
nên tư nhân không muốn đầu tư mà chủ yếu là đầu tư của Nà nước. Cần có biên
pháp để đẩy mạnh phân công lại lao động ở các vùng này. Hiện tại, ngân sách Nhà
nước đang có nhiều khó khăn song với việc đa dạng hóa các doanh nghiệp sinh lợi,
Nhà nước có thêm một nguồn ngân sách để đầu tư phát triển miền núi, hải đảo.
2.3.3. Hình thành đồng bộ các loại thị trường
Sự cân bằng chung giữa các loại thị trường là yêu cầu tất yếu trong quá trình
phát triển thịtrường. Nó cho phép xác lập mối quan hệcânđối giữa sản xuất và
tiêu dùng, giữa cung và cầu, giữa hàng và tiền.
Hàng hóa đầu ra về cơ bản đã được chi phối bởi quy luật thị trường, song
hàng hóa đầu vào như đất đai, sức lao động và vốn, thực chất chưa có thị trường.



Cần tạo môi trường pháp lý, môi trường kinh tế, các chủ trương chinh sách và tổ
chức cho các loại thị trường này phát triển.
Vấn đề vướng mắc hàng đầu hiện nay là thị trường đất đai. Theo quy định
của Hiến pháp, ruộng đất thuộc quyền sở hữu toàn dân nên đất đai khơng được mua
bán như hàng hóa thơng thường trên thị trường. Tuy nhiên, người sử dụng đất đai
lại có quyền chuyển nhượng đất đai. Về thực chất, chuyển nhượng đất đai là bản
quyền sử dụng đất đai. Nói cách khac, yếu tố đất đai chưa được tự do dịch chuyển
trên thị trường.
Thị trường vốn đang từng bước được hình thành. Tuy nhiên, các điều kiện
pháp lý bảo đảm cho thị trường vốn cũng như cấu trúc thị trường vốn cịn nhiều bất
cập. Vì vây, cần sớm hồn thiện môi trường pháp lý và xây dựng các cấu trúc, các
trung gian tài chính tạo kiều kiện cho thị trường vốn phát triển đa dạng trong nền
kinh tế.
Đồng thời, cũng cần tạo môi trường cho sức lao động được tự do dịch
chuyển trên thị trường sức lao động vận động theo đúng quy luật cung cầu về sức
lao động.
2.3.4. Tiếp tục đổi mới và nâng cao vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước
Để nền kinh tế phât triển theo định hướng XHCN, nhất thiết phải coi trọng
vai trị quản lý vĩ mơ của Nhà nước.
Trong những năm đổi mới kinh tế vừa qua, ta đã đổi mới một bước vai trị
quản lý vĩ mơ của Nhà nước đối với nền kinh tế, chuyển từ quản lý theo kế hoạch
hóa tập trung sang sử dụng các cơng cụ chinh sách kinh tế vĩ mô để quản lý nền
kinh tế. Những thành tựu trong mười năm đổi mới vừa qua về lĩnh vực này mới là
bướcđầu. Trong những năm tới,đặc biệt trong xu thếhội nhập với nền kinh tếthế
giứi và khu vực, cần thiết phải tiếp tục đổi mới các cơng cụ chính sách vĩ mơ, đặc
biệt là hệ thống tài chính, tín dụng, lưu thơng tiền tệ, chính sách phân phối thu nhập
và kế hoạch hóa phát triển KT- XH. Việc đổi mới này vừa phải theo nguyên tắc


phù hợp với phương thức quản lý của nền KTTT , đồng thời, đảm bảo cho nền kinh

tế phát triển theo định hướng mà Đảng ta đã lựa chọn.
2.3.5.Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp và cải cách
nền hành chính quốc gia
Nền KTTT chỉ có thể hoạt động bình thường nếu có hệ thống luật pháp
tương đối hoàn chỉnh và ngày càng được hoàn thiện. Trong điều kiện nước ta, vấn
đề này đang đặt ra rất cấp bách. Những năm đổi mới, Nhà nước ta đã từng bước tập
trung xây dựng hệ thông luật pháp. Tuy nhiên, đến nay hệ thơng luật pháp vẫn cịn
thiếu và chưa đồng bộ. Trong những năm tới, việc xây dựng hệ thống luật pháp
đồng bộ và hồn chỉnh có thể được coi như là một nhiệm vụ ưu tiên mà đất nước
phải đầu tư.
Đồng thời, cần thiết phải đẩy mạnh cải cách nền hành chính quốc gia theo
hướng đoạn tuyệt với cơ chế bao cấp, thay thế bộ máy quản lý theo cơ chế tập
trung, chuyển sang quản lý theo phương thức công nghiệp và cơ chế thị trường để
đảm bảo sự phù hợp và tạo điều kiện cho việc tiếp tục đổi mới kinh tế ở nước ta.
2.3.6. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
Nhận thức đúng về sự cần thiết tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Phải thực sự giải phóng tư tưởng cho các
chủ thể các thành phần kinh tế, tạo "sân chơi" bình đẳng, lành mạnh cho các thành
phần kinh tế. Khắc phục tâm lý mặc cảm, kỳ thị, sợ chệch hướng xã hội chủ nghĩa,
mất độc lập chủ quyền, đi theo hướng tư bản chủ nghĩa… Từ đó ngại ngùng, không
dám cho các thành phần kinh tế phát triển với mọi năng lực của nó. Thực tế chúng
ta có Đảng vững mạnh; có Nhà nước với hệ thống pháp luật và các cấp quản lý chặt
chẽ; ý thứcđộc lập tựchủcủa nhân dân rất cao nên khơng dễgì chệch hướng con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội khiến ta phải băn khoăn, lo ngại khơng dám chấp
nhận nó. Phải coi đây là hình thức quá độ cần thiết, tạo sức mạnh vật chất cho nền
tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội.


Hoàn thiện hệ thống pháp luật để định hướng, điều chỉnh, quản lý kinh tế vĩ
mô đối với các thành phần kinh tế bằng pháp luật; xây dựng hệ thống cơ chế, chính

sách, thích hợp, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế bình đẳng, tự chủ, tự do
phát triển lâu dài. Đổi mới nội dung, phương thức quản lý của Nhà nước sao cho
đúng, hiệu quả, thực sự "chặt" mà khơng gị ép, cứng nhắc; "thống" mà khơng
bng. Trong quan hệ kinh tế đối ngoại, chúng ta có cơ chế "thoáng" song vẫn giữ
được độc lập tự chủ của đất nước để tăng tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước
ngoài giúp ta phát triển nhanh, mạnh, vững chắc ở một số ngành, lĩnh vực, địa bàn
trọng tâm trọng điểm như một số nước đã làm.
Chăm lo đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ các loại cho các thành phần kinh
tế. Tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ hiện đại vào quá trình sản
xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế. Mở rộng thông tin và tăng khả năng
lãnh đạo của Đảng và định hướng của Nhà nước đối với các thành phần kinh tế để
bảo đảm sản xuất, kinh doanh đúng hướng đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước
và quốc tế. Đảng và Nhà nước tạo điều kiện cho các chủ thể các thành phần kinh tế
tiếp cận với thị trường khu vực và quốc tế, giúp cho việc chủ động hội nhập với nền
kinh tế thế giới, tăng sức cạnh tranh, tiếp thu được những tiến bộ khoa học – công
nghệ và kinh nghiệm quản lý tiến bộ của thế giới.
Coi trọng bảo vệ môi trường trong sản xuất, kinh doanh của các thành phần
kinh tế nhằm bảo đảm phát triển ổn định, bền vững. Kiên quyết phát hiện, ngăn
chặn kịp thời những vi phạm làm ô nhiễm môi trường gây tổn thất cho sản xuất,
kinh doanh và gây tác hại ảnh hưởng đến sức khỏe con người.
Thực hiện nghiêm việc xử phạt những chủ thể kinh tế, các đơn vị kinh tế sản
xuất, kinh doanh hàng kém phẩm chất, làm hàng giả, gian lận trong sản xuất, kinh
doanh để tạo nên nền kinh tế lành mạnh, bền vững, khắc phục những biểu hiện sai
trái, tiêu cực của các thành phần kinh tế có thể xảy ra gây nên những biến động về
kinh tế – xã hội của đất nước.



×