Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

2021 Tiểu luận Kinh tế chính trị Hai thuộc tính của hàng hóa và sự vận dụng vào việc nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.45 KB, 16 trang )

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI
ooo000ooo

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC KY
MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÁC - LÊNIN

Đề 9:

Hai thuộc tính của hàng hóa và sự vận dụng vào việc nâng cao khả
năng cạnh tranh của hàng hóa nước ta
Họ và tên:
Lớp:
MSSV:
SBD:

Hà Nội - Tháng 7, năm 2021


MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU
Sản xuất hàng hóa ra đời là bước ngoặt căn bản trong lịch sử phát triển của
loài người, sản xuất hàng hóa đánh dấu việc xóa bỏ nền kinh tế tự nhiên, phát
triển nhanh chóng lực lượng sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội. Ngày
nay, nền sản xuất hàng hóa vẫn là nền sản xuất xã hội đang được thực hiện khắp
nơi trên thế giới. Có thể khẳng định rằng hàng hóa trong bất kì thời kì nào hay bất
kì nơi đâu đều có vai trị vơ cùng quan trọng. Nền kinh tế nước ta trong thời kì
xây dựng chủ nghĩa xã hội đang là nền sản xuất hàng hóa. Chúng ta đang từng
bước hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mục là phải


đưa nền sản xuất hàng hóa của nước ta đạt tới những trình độ cao hơn mà nhiều
quốc gia đã đạt tới. Để có thể thực hiện được mục tiêu đã đề ra, mọi người cần
nắm vững lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về hai thuộc tính của hàng hóa và
nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam. Bài tiểu luận của em xin
đề cập đến chủ đề: "Hai thuộc tính của hàng hóa và sự vận dụng vào việc nâng
cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa nước ta".


B. NỘI DUNG
I. Lý luận về hai thuộc tính của hàng hóa.
1. Khái quát về hàng hóa.
1.1. Khái niệm
Theo quan điểm của C.Mác, hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể
thỏa mãn một yêu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán. [1]
Như vậy, hàng hóa là một phạm trù lịch sử, nó chỉ xuất hiện khi có nền sản
xuất hàng hóa, chỉ khi sản phẩm của lao động được đưa ra mua bán trao đổi trên
thị trường mới được coi là hàng hóa. Hàng hóa có thể dùng cho nhu cầu cá nhân
hoặc nhu cầu sản xuất.
1.2. Phân loại
Hàng hóa có thể là vật hữu hình như: cái bàn học, cái bút, quyển vở,...
Hàng hóa cũng có thể vơ hình như những dịch vụ thương mại: ca sĩ, thợ cắt
tóc, giáo viên,...
Trong kinh tế học người ta có thể chia hàng hóa thành 3 dạng:
+ Hàng cá nhân: là loại hàng hóa mà nếu được một người tiêu dùng rồi thì
người khác khơng thể dùng được nữa. Ví dụ: que kem, bàn chải đánh răng,..
+ Hàng cơng cộng: là loại hàng hóa mà thậm chí nếu có một người dùng
rồi thì những người khác vẫn dùng được. Ví dụ: quốc phịng hoặc an tồn cơng
cộng, nếu như các lực lượng vũ trang bảo vệ đất nước khỏi nguy hiểm thì việc
bạn được hưởng an tồn khơng vì lý do gì mà người khác khơng được hưởng an
tồn như bạn.



+ Hàng khuyến dụng: là loại hàng hóa mà xã hội nghĩ rằng người dân nên
tiêu dùng hoặc tiếp nhận, cho dù thu nhập của học ở mức nào đi chăng nữa. Ví
dụ: y tế, giáo dục, nhà ở, thực phẩm,... [2]
2. Hai thuộc tính của hàng hóa
Dù khác nhau về trạng thái tồn tại nhưng mọi thứ hàng hóa đều có hai
thuộc tính cơ bản là giá trị sử dụng và giá trị. Giữa hai thuộc tính này có mối
quan hệ ràng buộc, nếu thiếu một trong hai thuộc tính sẽ khơng được coi là hàng
hóa.
2.1 Giá trị sử dụng
- Khái niệm
Giá trị sử dụng của hàng hóa là cơng dụng của vật phẩm, có thể thoả mãn
một nhu cầu nào đó của con người; nhu cầu đó có thể là nhu cầu vật chất hoặc
nhu cầu tinh thần; cũng có thể là nhu cầu cho tiêu dùng cá nhân, có thể là nhu cầu
tiêu dùng cho sản xuất. [1]
- Đặc điểm
+ Bất kể hàng hóa nào cũng có một, một số cơng dụng nhất định. Chính
cơng dụng (tính cơng dụng) đó làm cho hàng hóa có giá trị sử dụng. Ví dụ: gạo
để ăn, áo để mặc, xe máy để đi lại,...
+ Giá trị sử dụng của hàng hóa do thuộc tính tự nhiên của yếu tố tham gia
cấu thành nên hàng hóa đó quy định. Do đó giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn.
+ Số lượng giá trị sử dụng của một hàng hóa khơng phải ngay từ đầu đã
phát hiện ra hết mà nó được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển của khoa
học kĩ thuật. Nền sản xuất càng phát triển, khoa học, công nghệ càng tiên tiến
càng giúp cho con người phát hiện ra nhiều và phong phú các giá trị sử dụng của
hàng hóa khác nhau.


+ Giá trị sử dụng chỉ thể hiện khi con người sử dụng hay tiêu dùng, nó là

nội dung vật chất của của cải, khơng kể hình thức xã hội của củ cải đó như thế
nào. Điều này nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của tiêu dùng với sản xuất.
+ Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu
của người mua. Cho nên, nếu là người bán, người sản xuất, tất yếu phải chú ý
chăm lo giá trị sử dụng của hàng hóa mà mình sản xuất phải phù hợp với thị hiếu,
những yêu cầu ngày càng khắt khe và tinh tế của người mua. [1]
+ Một khi đã là hàng hóa thì nhất định phải có giá trị sử dụng. Nhưng điều
ngược lại thì khơng đúng. Có một số thứ có giá trị sử dụng nhưng khơng phải là
hàng hóa, ví dụ như khơng khí, rất cần thiết cho cuộc sống nhưng khơng có giá trị
trao đổi vì khơng do lao động cụ thể làm ra.
2.2. Giá trị
- Khái niệm
Theo C.Mác, giá trị của hàng hóa là lao động của người sản xuất ra hàng
hóa và kết tinh trong hàng hóa ấy. [1]
Muốn hiểu được giá trị của hàng hóa phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao
đổi là quan hệ về lượng, là tỷ lệ trao đổi giữa các giá trị sử dụng khác nhau.
Ví dụ: 10kg gạo có giá trị trao đổi bằng 1kg thịt lợn.
- Đặc điểm
+ Giá trị hàng hóa là biểu hiện cho quan hệ giữa những người sản xuất
hàng hóa.
+ Giá trị là một phạm trù lịch sử gắn liền với nền sản xuất hàng hóa. Giá trị
là nội dung cơ sở của giá trị trao đổi, còn giá trị trao đổi chỉ là hình thức biểu hiện


của giá trị. Nếu giá trị sử dụng là thuộc tính tự nhiên thì giá trị là thuộc tính xã
hội của hàng hóa.
+ C.Mác cho rằng, sở dĩ các hàng hóa trao đổi được với nhau là vì chúng
nó một điểm chung. Điểm chung đó ở chỗ, chúng đều là kết quả của sự hao phí
sức lao động. Tức là hàng hóa có giá trị. Khi là hàng hóa, dù khác nhau về giá trị
sử dụng, chúng đều là kết quả của sự hao phí sức lao động của người sản xuất ra

hàng hóa đấy, nên hàng hóa có giá trị. Vì vậy, người ta trao đổi hàng hóa cho
nhau chẳng qua là trao đổi hao phí lao động của mình ẩn trong hàng hóa đó. Trên
cơ sở đó, C.Mác quan niệm đầy đủ hơn: "Giá trị của hàng hóa là lao động xã hội
của người sản xuất đã hao phí để sản xuất ra hàng hóa kết tinh trong hàng hóa
ấy".
+ Lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa là cơ sở chung cho việc trao
đổi và nó tạo thành giá trị của hàng hóa. Chất của giá trị là lao động, vì vậy sản
phẩm nào khơng có lao động của người sản xuất trong đó thì nó khơng có giá trị.
Sản phẩm nào hao phi lao động để làm ra nó càng nhiều thì giá trị càng cao.
3. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa.
Hai thuộc tính của hàng hóa có quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa thống nhất
vừa mâu thuẫn nhau.
3.1. Mặt thống nhất
Hai thuộc tính này cùng đồng thời tồn tại trong một hàng hóa. Nếu một vật
có giá trị sử dụng nghĩa là có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người, xã hội
nhưng khơng có giá trị tức là không do lao động tạo ra, không có kết tinh lao
động thì sẽ khơng phải hàng hóa. Ngược lại, một vật có giá trị tức là có lao động
kết tinh, nhưng khơng có giá trị sử dụng, không thể thỏa mãn nhu cầu nào của
con người, xã hội thì cũng khơng phải hàng hóa.


3.2. Mặt đối lập
- Xét về mặt giá trị sử dụng thì các hàng hóa khác nhau về chất. Ví dụ: cái
áo để mặc còn cái bánh lại dùng để ăn. Xét về mặt giá trị thì các hàng hóa lại
cùng giống nhau về chất vì đều được kết tinh sức lao động. Ví dụ: gạo, chiếc
búa, cái áo đều là do hao phí sức lao động của con người tạo lên.
- Quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng có sự tách rời nhau cả về mặt
không gian và thời gian:
+ Giá trị được thực hiện trong lĩnh vực lưu thông và thực hiện trước.
+ Giá trị sử dụng được thực hiện sau, trong lĩnh vực tiêu dùng.

Ví dụ: Người bán sẽ quan tâm đến giá trị của hàng hóa, họ có thể tìm hiểu
giá trị sử dụng của hàng hóa để có thể sản xuất ra những hàng hóa tốt nhất, mục
đích cuối cùng là bán được nhiều nhất, thu về nhiều giá trị nhất. Ngược lại,
người mua thì quan tâm đến giá trị sử dụng của hàng hóa, họ phải trả tiền trước
cho người bán để có thể mua và sử dụng hàng hóa. Việc lưu thơng bn bán
hàng hóa sẽ diễn ra trước việc tiêu dùng.
II. Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt
Nam
1. Thực trạng hàng hóa Việt Nam hiện nay
Sau khi Mỹ dỡ bỏ cấm vận đối với Việt Nam vào tháng 2/1995 chúng ta đã
lần lượt gia nhập những tổ chức kinh tế lớn trong khu vực và trên thế giới.
Tháng 7/1995 Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN (Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á).
Tháng 3/1996 Việt Nam gia nhập ASEM (diễn đàn kinh tế Á - Âu).


Tháng 11/1998 chúng ta gia nhập APEC (diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á Thái Bình Dương).
Tháng 11/2006 Việt Nam gia nhập WTO (tổ chức thương mại thế giới)
Gần đây nhất, tháng 10/2015 Việt Nam kí kết hiệp định TPP (hiệp định đối
tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương).
Phát biểu tại Diễn đàn nâng cao sức cạnh tranh của hàng Việt trước thời cơ,
thách thức từ các Hiệp định thương mại thế hệ mới ngày 29/10/2020 tại Hà Nội,
Thứ trưởng Bộ Công thương Đỗ Thắng Hải cho biết, việc tham gia các FTA (hiệp
định thương mại tự do) đã giúp thị trường xuất nhập khẩu được mở rộng và đa
dạng hóa; thị trường dịch vụ tài chính phát triển hơn với sự tham gia của nhiều
nhà đầu tư nước ngồi; hệ thống thể chế, chính sách cũng từng bước được hoàn
thiện nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập và thực thi cam kết trong các FTA... Cùng
với việc gia nhập WTO từ năm 2007, việc tham gia các FTA đã góp phần thúc
đẩy GDP (tổng sản phẩm nội địa) của Việt Nam tăng hơn 300%, kim ngạch xuất
nhập khẩu tăng 350%.[3]

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh
thu dịch vụ tiêu dùng q III/2020 ước tính đạt 1.305,8 nghìn tỷ đồng, tăng
14,4% so với quý II/2020 và tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước. Xét theo
ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa 9 tháng năm 2020 đạt 2.907,1 nghìn
tỷ đồng, chiếm 79,1% tổng mức và tăng 4,8% so với cùng kỳ năm trước.[3]
Cũng theo số liệu của Tổng cục Thống kê, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa
năm 2020 đạt 281,5 tỷ USD, tăng 6,5%; nhập khẩu hàng hóa đạt 262,4 tỷ USD,
tăng 3,6%. Cán cân thương mại hàng hóa năm 2020 ước tính xuất siêu 19,1 tỷ
USD, giá trị xuất siêu lớn nhất từ trước đến nay.


Điều đáng nói là trong năm 2020 Việt Nam là một trong số rất ít các nước
có tỉ lệ GDP tăng trưởng dương. Cụ thể trong năm 2020 GDP Việt Nam tăng
trưởng 2,91%.[3]
Thơng cáo báo chí về tình hình kinh tế - xã hội quý II và 6 tháng đầu năm
2021 tổng sản phẩm trong nước (GDP) 6 tháng đầu năm 2021 tăng 5,64% mặc dù
dịch Covid-19 bùng phát tại một số địa phương trên cả nước từ cuối tháng 4.
Theo đó, cán cân thương mại hàng hóa 6 tháng/2021 nhập siêu 1,47 tỷ USD
(cùng kỳ năm trước xuất siêu 5,86 tỷ USD).[3]
Việt Nam trong các năm qua luôn là nước xuất siêu nhưng kể từ khi đại
dịch Covid-19 bùng phát trở lại từ cuối tháng tư đã khiến cho xuất khẩu trở lên
khó khăn. Tuy nhiên tính chung 6 tháng đầu năm 2021, kim ngạch xuất khẩu
hàng hóa ước tính đạt 157,63 tỷ USD, tăng 28,4% so với cùng kỳ năm trước.
Điều này chứng tỏ hàng hóa Việt Nam đang có sức cạnh tranh cao trên thị trường
thế giới.[3]
Trong các năm qua, hàng hóa Việt Nam được xuất khẩu đi rất nhiều nước
trên thế giới, đặc biệt thông qua những hiệp định thương mại thế hệ mới những
năm gần đây, những mặt hàng nông sản, thủy hải sản của Việt Nam đã xuất hiện
tại các thị trường khó tính như EU, Nhật Bản, Úc,...
Về thị trường trong nước, sau hơn chục năm thực hiện cuộc vận động

"Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam", nhiều thương hiệu đã ăn sâu vào
tâm trí người tiêu dùng trong nhiều năm như Vinamilk, Trung Nguyên, TH True
Milk, Vinacafe, Vietnam Airlines, gần đây nhất là Vinfast. Trong các hệ thống
bán lẻ, các siêu thị thì hàng Việt ln chiếm tỷ trọng lớn trên 90%. Đặc biệt, đầu
năm 2020, dịch COVID-19 lan rộng trên toàn cầu, nhiều doanh nghiệp bị đứt gãy
thị trường xuất khẩu và nguồn nguyên liệu, các đơn hàng bị ngưng trệ. Song với
quy mô gần 100 triệu dân, thị trường nội địa đã trở thành bệ đỡ cho doanh nghiệp
khai thác, vượt qua khó khăn, đưa kinh tế tăng trưởng.


Tuy một số địa phương thực hiện giãn cách do dịch Covid-19 diễn biến
phức tạp, nhưng tính chung 6 tháng đầu năm 2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và
doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 2.463,8 nghìn tỷ đồng, tăng 4,9% so với cùng kỳ
năm trước.[3]
2. Đánh giá chung về thực trạng phát triển của yếu tố hàng hóa
trong nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay:
- Ưu điểm:
+ Nhìn chung, sự phát triển hàng hóa tạo ra sự đa dạng và phong phú về số
lượng và chủng loại của hàng hóa trên thị trường. Một mặt điều này phản ánh
những trình độ cao của năng suất lao động xã hội, mặt khác nói lên mức độ phát
triển của quan hệ trao đổi, trình độ của phân công lao động xã hội và sự phát triển
của thị trường.
+ Sự phát triển của yếu tố hàng hóa góp phần nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần. Không những đời sống kinh tế được cải thiện mà cả đời sống văn hóa,
chăm sóc ý tế cho con người được nâng cao.
+ Sức ép của cạnh tranh khi tham gia nhiều hiệp định thương mại mới sẽ
buộc những nhà sản xuất phải tìm ra cách thức, phương pháp sản xuất tốt nhất,
không ngừng đổi mới kỹ thuật.
+ GDP của Việt Nam luôn tăng trưởng ở mức cao vào năm 2017 là 6,81%,
năm 2018 là 7,08%, năm 2019 là 7,02%, năm 2020 Việt Nam là một trong số ít

quốc gia có mức tăng trưởng dương (2,91%). Việt Nam có giá nhân cơng rẻ, trình
độ dân trí khá cao, thị trường lớn với dân số đông, một đất nước ổn định về chính
trị và một quyết tâm đổi mới mạnh mẽ của chính phủ.
+ Tài ngun thiên nhiên khống sản với trữ lượng lớn phong phú phân bố
trên toàn lãnh thổ thuận tiện sản xuất sản phẩm.


+ Về vị trí địa lý thuận lợi cho giao thơng sản xuất hàng hố giảm chi phí
cho sản phẩm làm ra nâng cao sức cạnh tranh hàng hoá thu hút lượng FDI trên
tồn thế giới vào Việt Nam thì tăng từ từ qua các năm tuy không nhiều đầu tư vào
tất cả các lĩnh vực đặc biệt là kinh tế.
+Tham gia nhiều tổ chức kinh tế chính trị như WTO, EVFTA, ... giúp cho
tiêu thụ hàng hóa Việt Nam tăng cao.
- Hạn chế:
+ Phải khẳng định là nền kinh tế nước ta phải đối mặt với rất nhiều khó
khăn và thách thức lớn, đi lên từ một nền nông nghiệp nhỏ lạc hậu, nền kinh tế ta
có đặc thù là sản xuất nhỏ lẻ mang nặng tính tự cung tự cấp, sức cạnh tranh yếu.
trình độ cơng nghệ sản xuất, quản lý, cơ sở hạ tầng còn nhiều yếu kém. chất
lượng lao động được đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu ngày một khắt khe của
nền kinh tế, người dân nước ta chưa có được cách nghĩ năng động, chính sách dù
được cải thiện cịn nhiều bất cập... Bên cạnh đó, các nền kinh tế khác và đặc biệt
là, Trung Quốc, khu vực Đông Nam Á đã và đang lên mạnh mẽ và cạnh tranh gay
gắt với Việt Nam...
+ Xuất khẩu vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, nhiều ngành hàng chủ lực như
dệt may, da giày chủ yếu là gia công, trong khi các mặt hàng nông sản - thế mạnh
của Việt Nam lại xuất khẩu dưới dạng thô, giá trị gia tăng thu về không nhiều.
+ Các doanh nghiệp Việt Nam thường có quy mơ nhỏ, phân tán, công nghệ
sản xuất lạc hậu, năng lực quản lý, kinh doanh còn hạn chế; sức cạnh tranh kém
so với các đối thủ quốc tế, chưa tạo dựng được nhiều giá trị gia tăng cho sản
phẩm xuất khẩu. Bên cạnh đó, càng hội nhập sâu, hàng rào thuế quan ngày càng

được dỡ bỏ, dần dần về 0-5% nhưng ngược lại hàng rào phi thuế quan như biện
pháp phòng vệ thương mại, quy định về giữ gìn mơi trường, vệ sinh an tồn thực
phẩm… sẽ được dựng lên gây khơng ít khó khăn cho doanh nghiệp.


+ Những khó khăn mà ngành bán lẻ của Việt Nam đang gặp phải – những
điều này ảnh hưởng rất lớn đến công việc kinh doanh của các nhà bán lẻ: nhân
viên thiếu đào tạo chuyên sâu, cạnh tranh không lành mạnh từ đối thủ.
3. Đề xuất giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa
Việt Nam hiện nay.
Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam đang thực hiện "mục tiêu kép" vừa
phòng, chống dịch bệnh vừa phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội trong trạng
thái bình thường mới. Chúng ta cần thực hiện một số giải pháp để hoàn thành
mục tiêu đề ra như sau:
- Đẩy mạnh phát triển sản xuất hàng hoá:
Phối hợp chặt chẽ giữa sản xuất và lưu thông. Chuyển dịch cơ cấu sản xuất
hàng hố theo hướng tập trung chun mơn hố cao vào các ngành có lợi thế so
sánh. Áp dụng các dây chuyền cơng nghệ tự động hóa hiện đại hóa vào khâu sản
xuất. Nghiên cứu lựa chọn sản phẩm có lợi thế so sánh của quốc gia, của từng địa
phương và từng ngành để xây dựng chiến lược phát triển. Nghiên cứu các thông
tin về thị trường đầu ra, khả năng cạnh tranh. Chủ động điều tiết khối lượng cung
phù hợp với nhu cầu của thị trường.
- Phát triển đa dạng hóa kênh phân phối
Kết hợp hài hịa giữa thương mại truyền thống và hiện đại, việc đa dạng
hóa các kênh phân phối là vơ cùng cần thiết. Xây dựng và củng cố hệ thống phân
phối trên phạm vi cả nước và phát triển mạng lưới phân phối nhỏ của địa phương.
Tạo mối liên kết chặt chẽ, ổn định và ràng buộc trách nhiệm từ quá trình sản xuất,
xuất nhập khẩu đến buôn bán nhỏ lẻ. Phát triển hệ thống trung tâm Logistics để
tiếp nhận hàng hóa từ các cơ sở sản xuất, nhập khẩu và cung ứng hàng hóa trên
địa bàn.

- Đầu tư kết cấu hạ tầng vật chất, pháp lý và tri thức khoa học công nghệ:


Đầu tư hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc và xây dựng chợ,
trung tâm thương mại. Có chính sách hợp lý để thu hút đầu tư cả trong nước và
ngồi nước.
-Nâng cao cơng tác thơng tin, dự báo thị trường và hoạt động xúc tiến
thương mại:
Phối hợp liên kết truyền thông giữa Nhà nước với các doanh nghiệp, nhà
kinh doanh trong công tác thị trường (cả thị trường trong nước và thị trường quốc
tế). Nâng cao chất lượng dự báo thị trường và phát triển thương mại để giúp các
doanh nghiệp định hướng kinh doanh và cảnh bảo thị trường.
- Hoàn chỉnh cơ sở pháp lý cho tự do hoá kinh doanh, thương mại:
Tuân thủ nguyên tắc thương nhân được kinh doanh mà luật pháp cho phép
và luật pháp khơng cấm. Rà sốt hệ thống luật pháp hiện hành để bảo đảm tính hệ
thống tính pháp lý và mơi trường thơng thống cho các chủ thể kinh
doanh. Nghiêm trị các hành vi vi phạm luật thương mại nhất là buôn lậu, hàng
rởm và hàng giả.
- Chủ động và đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế, thương mại khu vực
và quốc tế.
Đàm phán để ký kết các hiệp định thương mại đa phương và song phương
với các nước và tổ chức kinh tế quốc tế. Thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế
của Việt Nam khi gia nhập các tổ chức thương mại. Hỗ trợ doanh nghiệp chuẩn bị
điều kiện về thông tin, hiểu biết về pháp lý… để đối mặt với những xung đột
pháp lý trong quá trình sản xuất kinh doanh trên thị trường. Tận dụng việc tham
gia các tổ chức lớn để xuất khẩu hàng hóa đem lại giá trị cao.
- Nâng cao hiệu lực và hiệu quả của hệ thống quản lý Nhà nước


Đẩy mạnh cải cách hành chính quốc gia. Đào tạo nhân lực và bồi dưỡng

nhân tài trong kinh doanh và quản lý thị trường, thương mại. Nâng hiệu lực và
hiệu quả quản lý nhà nước đối với thương mại, dịch vụ.
- Ứng dụng thương mại điện tử và sử dụng thị trường hàng hóa Việt Nam
hiện nay hiệu quả
Trong bối cảnh dịch COVID-19 như hiện nay, việc sử dụng các phương
tiện thương mại điện tử trực tuyến giúp các doanh nghiệp giảm ngân sách thu
thập thông tin. Đặc biệt, trong hồn cảnh cách ly xã hội hiện nay, loại hình giao
hàng trực tuyến shipper đang tăng mạnh, nhà bán lẻ nên tận dụng để doanh số
bán hàng tăng cao. Ngoài ra, mạng Internet cũng cung cấp các nguồn thông tin thị
trường với tốc độ cao giúp các doanh nghiệp khai thác thơng tin thị trường có
hiệu quả trước phản ứng của thị trường.
Mong rằng các biện pháp vừa đưa ra có thể nâng cao khả năng cạnh tranh
của hàng hóa Việt Nam trong thời kì hội nhập đầy khó khăn, thách thức hiện nay.


C. KẾT LUẬN
Hàng hoá hiện hữu ở khắp mọi nơi trên thế giới. Chúng có thể ở dạng hữu
hình hoặc vơ hình. Mục đích chính của bất kể nền kinh tế nào cuối cùng cũng là
sản xuất ra hàng hoá đáp ứng nhu cầu con người, chính vì thế hàng hóa có vai trị
rất quan trọng, ngày càng được quan tâm và phát triển. Quốc gia nào muốn trở
thành một cường quốc thì khơng chỉ cần chính trị - xã hội vững mạnh mà còn
cần một nền kinh tế phát triển mạnh mẽ. Và để nền kinh tế phát triển mạnh mẽ thì
nền kinh tế đó ắt hẳn phải có năng lực cạnh tranh hàng hoá cao đủ sức thâu tóm
thị trường mang về nguồn lợi nhuận lớn. Cạnh tranh hàng hố có mặt tốt và cũng
có mặt xấu. Bất kỳ nhà nước nào hiện nay cũng cố gắng xây dựng nền kinh tế
nước mình trở nên hùng mạnh giảm thiểu dần những tiêu cực của cạnh tranh
hàng hoá mang lại bằng những chính sách khoa học thiết thực. Việt Nam cũng
vậy, với nền kinh tế đang phát triển nhanh chóng thì việc nâng cao sức cạnh tranh
cho hàng hố đẩy nền kinh tế lên những bước khởi sắc sẽ giúp Việt Nam nhanh
chóng trở thành nước phát triển sánh ngang tầm với các quốc gia đứng đầu châu

lục. Nền kinh tế Việt Nam đang được các nhà đầu tư coi như là một ngôi sao
đang lên của Châu Á. Song song với việc phát triển kinh tế chúng ta cần đảm bảo
sự hài hoà giữa các yếu tố phát triển và bền vững, đặc biệt là giải quyết các vấn
đề xã hội, khắc phục khoảng cách chênh lệch giàu nghèo, giải quyết tình trạng
lãng phí và ơ nhiễm tài ngun mơi trường… làm tốt những vấn đề đó thì chắc
chắn rằng một tương lai không xa Việt Nam sẽ đạt được nhiều bước chuyển mình
ngoạn mục.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục - Đào tạo (2019), Giáo trình Kinh tế - Chính trị Mác - Lênin
2. David Begg, Stanley Fischer, Rudiger Dornbusch, Kinh tế học, Nxb Giáo
dục Hà Nội 1992.
3. Trang thông tin điện tử Bộ Công thương Việt Nam, moit.gov.vn.



×