Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Tiểu luận So sánh giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây (9 điểm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.89 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
----------

TIỂU LUẬN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Đề tài:
So sánh giữa triết học phương Đơng
và triết học phương Tây
Họ và tên: Nguyễn Quốc Hùng
Lớp: Anh 12 – KTKT –K59
Chuyên ngành: Kế toán – Kiểm toán
GVHD: Nguyễn Thị Tùng Lâm

1


HÀ NỘI – THÁNG 6/2021

2


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU............................................................................................................... 1
Chương I:

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRIẾT HỌC.................................................2

1.1. Tổng quan về triết học....................................................................................2
1.2. Đối tượng nghiên cứu của Triết học................................................................2


1.3. Nội dung của vấn đề cơ bản của triết học.......................................................3
1.4. Các trường phái triết học trong lịch sử............................................................3
1.5. Vai trò của Triết học........................................................................................4
1.5.1. Vai trò thế giới quan và phương pháp luận của Triết học....................4
1.5.2. Vai trò của Triết học trong giai đoạn tồn cầu hóa hiện nay................4
Chương II:

SỰ GIỐNG VÀ KHÁC NHAU GIỮA TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG
VÀ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY............................................................5

2.1. Sự giống nhau giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây.............5
2.2. Sự khác nhau giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây...............6
2.2.1. Bối cảnh, nơi ra đời, phát triển............................................................6
2.2.2. Mối quan hệ giữa con người và vũ trụ................................................6
2.2.3. Mặt xã hội và mặt sinh vật của con người...........................................6
2.2.4. Về tư tưởng nhận thức luận................................................................7
2.2.5. Cuộc đấu tranh giữa duy tâm và duy vật.............................................7
2.2.6. Sự đấu tranh giữa biện chứng và siêu hình.........................................8
2.2.7. Các bước phát triển nhảy vọt về chất..................................................8
2.2.8. Việc được nhìn nhận như một khoa học độc lập.................................9
2.2.9. Việc sử dụng hệ thống thuật ngữ của triết học....................................9
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................12

1


LỜI NĨI ĐẦU
Trong q trình vận động và phát triển của lịch sử văn hóa nhân loại nói chung và
tư tưởng triết học nói riêng, triết học phương Đơng và triết học phương Tây có nhiều

nội dung phong phú, đa dạng. Những giá trị của nó đã để lại dấu ấn đậm nét và có ảnh
hưởng lớn đối với lịch sử lồi người. Triết học phương Đơng và triết học phương Tây
khơng thể thốt ly những vấn đề chung của lịch sử triết học. Mặc dù vậy giữa triết học
phương Đơng và triết học phương Tây vẫn có những đặc điểm đặc thù của nó. Nghiên
cứu về triết học phương Đông và triết học phương Tây, đặc biệt là so sánh sự khác
nhau của nó là một vấn đề phức tạp nhưng cũng rất bổ ích, vì qua đó ta có thể hiểu biết
sâu sắc thêm những giá trị về tư tưởng văn hóa của nhân loại. Mặt khác bản sắc văn
hóa Việt Nam ảnh hưởng khá sâu sắc bởi nền triết học phương Đơng, do đó nghiên
cứu những đặc điểm của triết học phương Đông trong mối quan hệ với triết học
phương Tây, đặc biệt là những tư tưởng nhân văn cao đẹp sẽ giúp chúng ta hiểu biết
sâu sắc văn hóa Việt Nam. Vì vậy, em lựa chọn vấn đề “Sự giống nhau và khác nhau
giữa triết học phương Đông cổ đại và triết học phương Tây cổ đại” làm đề tài nghiên
cứu trong tiểu luận của mình.
Việc nghiên cứu đề tài thúc đẩy sự tìm tịi, học hỏi và nâng cao khả năng tư duy
của em – một sinh viên đang học môn Triết học Marx-Lenin. Nhưng bởi kiến thức còn
hạn hẹp và thời gian còn hạn chế để em có thể nghiên cứu chuyên sâu về đề tài, vì vậy
trong q trình thực hiện khơng thể tránh khỏi các thiếu sót, em mong giảng viên
hướng dẫn và bạn đọc có thể chú ý để hồn thiện tốt đề tài hơn nữa. Xin cảm ơn.

1


Chương I:
1.1.

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRIẾT HỌC

Tổng quan về triết học

1.1.1. Triết học là gì?

Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về vị
trí, vai trị của con người trong thế giới ấy. Triết học nghiên cứu về các câu hỏi chung
và cơ bản về sự tồn tại, kiến thức, giá trị, lý trí, tâm trí và ngơn ngữ. Những câu hỏi
như vậy thường được đặt ra là vấn đề cần nghiên cứu hoặc giải quyết. Phương pháp
triết học bao gồm đặt câu hỏi, thảo luận phê bình, lập luận hợp lý và trình bày có hệ
thống.
1.1.2. Triết học ra đời khi nào?
Về nguồn gốc, triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây từ khoảng thế kỷ
VIII đến thế kỷ VI TCN, tại các quốc gia văn minh cổ đại như: Hy Lạp, Ấn Độ, Trung
Quốc. Ở phương Tây, khái niệm triết học lần đầu tiên xuất hiện tại Hy Lạp với tên gọi
φιλοσοφία (philosophia) có nghĩa là “love of wisdom” - “tình u đối với sự thơng
thái” bởi nhà tư tưởng Hy Lạp cổ đại mang tên Pythagoras. Với người Hy Lạp, triết
học mang tính định hướng đồng thời cũng nhấn mạnh khát vọng tìm kiếm chân lý của
con người. Ở Trung Quốc, thuật ngữ triết học được bắt nguồn từ chữ triết và được hiểu
là sự truy tìm bản chất của đối tượng, là trí tuệ, sự hiểu biết sâu sắc của con người.
Còn tại Ấn Độ, darshanas (triết học) lại mang hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con
đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải.
Nói tóm lại, ngay từ đầu, dù cho ở phương Đông hay phương Tây, triết học cũng
đều là hoạt động tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con người, tồn
tại với tư cách là một hình thái ý thức xã hội.

1.2.

Đối tượng nghiên cứu của Triết học

Khái niệm đối tượng của triết học: Là những mối liên hệ chung nhất của sự vật,
hiện thực khách quan, mối liên hệ giữa thế giới vật chất với những sự vật hiện tượng
do con người tưởng tượng ra và được phản ánh trong các khái niệm, phạm trù, của triết
học. Chẳng hạn như: đối tượng nghiên cứu của toán học được Ăngghen nhận định là
những quan hệ về hình học khơng gian, về số lượng của sự vật, hiện tượng trong thực

tế khách quan hay đối tượng nghiên cứu của hóa học là sự phân giải, hóa hợp các hợp
chất vơ cơ, hữu cơ, là các hình thức vận động hóa học… Đối tượng của triết học sẽ có
2


nội dung khác nhau dựa theo những thay đổi của tình hình thực tiễn xã hội qua từng
giai đoạn phát triển.

1.3.

Nội dung của vấn đề cơ bản của triết học

Triết học giải quyết rất nhiều vấn đề có liên quan với nhau. Trong đó, vấn đề quan
trọng nhất được gọi là vấn đề cơ bản của triết học. Gọi là vấn đề cơ bản bởi dựa trên
việc giải quyết các vấn đề này sẽ làm cơ sở để giải quyết các vấn đề cịn lại của triết
học. Nó bao gồm các vấn đề về mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy, giữa vật chất và ý
thức.
Vấn đề cơ bản của triết học trả lời hai câu hỏi lớn (hai mặt). Mặt thứ nhất: Vật
chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau? Cái nào quyết định đến cái nào? Mặt
thứ hai: Con người có khả năng nhận thức thế giới xung quanh mình hay khơng?

1.4.

Các trường phái triết học trong lịch sử

Xuất phát điểm của các trường phái triết học trong lịch sử chính là đến từ các vấn
đề cơ bản của triết học.
Để giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học, trong lịch sử triết học
đã chia thành các trường phái lớn, trong đó nổi bật:
-


Trường phái 1: Những người cho rằng vật chất có trước và giữ vai trò quyết
định. Những người này được gọi là các nhà duy vật và các học thuyết của họ

-

hợp thành chủ nghĩa duy vật.
Trường phái 2: Những nhà triết học cho rằng ý thức là cái có trường và giữ vai
trị quyết định. Họ được gọi là nhà triết học duy tâm và tập hợp các học thuyết

-

của họ hợp thành chủ nghĩa duy tâm.
Trường phái 3: Bao gồm những nhà triết học cho rằng vật chất và ý thức tồn tại
song song với nhau, không cái nào quyết định cái nào cả hai cùng là nguồn gốc
tạo ra thế giới được gọi là các nhà nhị nguyên. Các học thuyết của họ hợp thành
học thuyết nhị nguyên luận (Decacton).
Căn cứ vào việc giải quyết mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của triết học: “Con

người có khả năng nhận thức được Thế giới hay không?”
-

Chủ nghĩa duy vật cho rằng ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, con người
có khả năng nhận thức thế giới. Đồng thời chủ nghĩa này còn khẳng định

3


nguyên tắc trong thế giới khách quan là chỉ có cái chưa biết chứ khơng có cái gì
là khơng thể biết.

Còn đối với chủ nghĩa duy tâm, họ cũng thừa nhận khả năng nhận thức thế giới.

-

Tuy nhiên chủ nghĩa này lại thần bí hóa, duy tâm hóa q trình nhận thức của
con người. Họ cho rằng nhận thức là sự tự nhận thức, tự hồi tưởng của linh hồn
bất tử của ý niệm tuyệt đối mà thơi.
Ngồi ra, để giải đáp mặt thứ hai trong vấn đề cơ bản của triết học ngồi chủ nghĩa
duy tâm, duy vật cịn tồn tại một trường phái phủ nhận khả năng nhận thức thế giới của
con người mang tên “thuyết không thể biết”. Những người thuộc trường phái này cho
rằng con người không thể nhận thức thế giới xung quanh hoặc chỉ biết được vẻ bên
ngồi của thế giới.

1.5.

Vai trị của Triết học

1.5.1. Vai trò thế giới quan và phương pháp luận của Triết học
Thế giới quan: Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm về thế giới và về vai trị
của con người trong thế giới. Nó đóng vai trị là nhân tố định hướng cho quá trình hoạt
động sống của con người. Từ thế giới quan đúng đắn, con người sẽ có khả năng nhận
thức, quan sát, nhìn nhận mọi vấn đề trong thế giới xung quanh. Từ đó giúp con người
định hướng thái độ và cách thức hoạt động sinh sống của mình.
Phương pháp luận: Phương pháp luận (lý luận về phương pháp) là hệ thống những
quan điểm chung nhất đóng vai trị xây dựng, lựa chọn vận dụng các phương pháp.
Phương pháp luận chia thành nhiều cấp độ: phương pháp luận ngành, phương pháp
luận chung và phương pháp luận chung nhất (phương pháp luận triết học). Phương
pháp luận triết học đóng vai trị chỉ đạo, định hướng trong quá trình tìm kiếm, lựa chọn
và vận dụng các phương pháp hợp lý, có hiệu quả tối đa để thực hiện hoạt động nhận
thức và thực tiễn.

1.5.2. Vai trò của Triết học trong giai đoạn tồn cầu hóa hiện nay
Trong nền kinh tế tồn cầu hóa, bên cạnh giải quyết những vấn đề “mn thuở”,
triết học cịn giúp cho con người tìm ra lời giải đối với những vấn đề hồn tồn mới,
phát sinh trong q trình tồn cầu hóa. Khơng chỉ giúp con người nhìn nhận đúng đắn
về thế giới quan, nhờ vào triết học, con người còn có khả năng đánh giá những biến
động đang diễn ra, gợi mở hướng giải quyết, “lối thoát” cho vấn đề mà con người đang
gặp phải trong bối cảnh toàn cầu hóa. Nói tóm lại, dù là trong quá khứ hay ở kỷ
4


ngun tồn cầu hóa, triết học vẫn giữ ngun vị thế của mình ở phạm vi một dân tộc
và cả nhân loại.

Chương II:

SỰ GIỐNG VÀ KHÁC NHAU GIỮA TRIẾT

HỌC PHƯƠNG ĐÔNG VÀ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY
2.1.

Sự giống nhau giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây

C.Mác đã viết: Để hiểu rõ tư tưởng của một thời đại nào đó thì chúng ta phải hiểu
được điều kiện sinh hoạt vật chất của thời đại đó. Bởi vì, theo C. Mác, tồn tại xã hội
luôn quyết định ý thức xã hội, do đó nó phản ánh tồn tại xã hội – những điều kiện sinh
hoạt vật chất của xã hội. Chính vì thế, các trào lưu triết học Phương Đơng và Phương
Tây đều được nảy sinh trên những điều kiện kinh tế - xã hội trong giai đoạn lịch sử
nhất định. Xét trong mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, thì triết
học là một yếu tố của kiến trúc thượng tầng, do đó các học thuyết triết học Đông – Tây
đều chịu sự quyết định của cơ sở hạ tầng và đến lượt nó cũng có vai trị hết sức to lớn

đối với cơ sở hạ tầng.
Triết học Phương Đông và Phương Tây đều được hình thành, phát triển trong cuộc
đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật, giữa phương pháp siêu hình và
phương pháp biện chứng. Thực chất cuộc đấu tranh này là một phần cuộc đấu tranh tư
tưởng của những giai cấp đối kháng trong xã hội. Những quan niệm duy vật thường
gần gũi và gắn liền với những lực lượng tiến bộ trong xã hội và ngược lại những quan
niệm duy tâm thường gần gũi và gắn liền với lực lượng lạc hậu, bảo thủ trong xã hội.
Triết học Phương Đơng và Phương Tây có thể sử dụng những khái niệm, phạm trù
khác nhau nhưng đều phải bàn đến vấn đề cơ bản của triết học, đồng thời đều tuân
theo những phương pháp chung trong nhận thức thế giới: Phương pháp biện chứng
hoặc Phương pháp siêu hình.
Triết học Phương Đông và Phương Tây đều bàn đến vấn đề con người ở những
khía cạnh khác nhau, mức độ đậm nhạt khác nhau và qua những thời kỳ lịch sử khác
nhau đều có cách đánh giá khác nhau về con người.
Các học thuyết triết học ở Phương Đông hay Phương Tây đều có khuynh hướng
chung là xâm nhập lẫn nhau, vừa có sự kế thừa giữa các học thuyết, hoặc trong sự phát
5


triển của học thuyết đó, vừa có sự đào thải, lọc bỏ những quan niệm lạc hậu, hoặc
những quan niệm không phù hợp với nhãn quan của giai cấp thống trị.
Mỗi học thuyết trong triết học ở Phương Đông hay Phương Tây cũng vậy, đều có
những mặt tích cực và hạn chế của nó nhưng đã góp phần tạo nên những giá trị văn
minh nhân loại.

2.2.

Sự khác nhau giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây

2.2.1. Bối cảnh, nơi ra đời, phát triển

Phương Đông: để chỉ các nước châu Á các nên văn minh trên ba lưu vực sơng lớn:
sơng Nin, sơng Hằng, sơng Hồng Hà, chủ yếu là Ai Cập, ả rập, ấn độ và Trung Hoa.
Hầu hết các nền tôn giáo lớn của thế giới đều xuất hiện ở đây. Phương Tây: chủ yếu là
các nước Tây âu như Anh, Pháp, Đức, Ý, Áo, Tây Ban Nha… Ngày nay chúng ta gộp
cả Mỹ vào.
Đặc điểm hai loại hình cơ sở xã hội Đơng – Tây là tĩnh, ổn định đối nghịch với
động, biến động nhanh. Triết học lỏng lẻo, mềm dẻo của Đông đối lại là triết học chặt
chẽ, thống nhất thành hệ thống của Tây. Triết học phương Tây đi từ gốc lên ngọn (từ
thế giới quan, vũ trụ quan, bản thể luận… từ đó xây dựng nhân sinh quan con người)
trong khi triết học phương Đông đi từ ngọn xuống gốc (từ nhân sinh quan, vấn đề cách
sống, lối sống sau đó mới là vũ trụ quan, bản thể luận…). Đó là 2 nét chính của hai
nền triết học Đơng – Tây. Nếu như ở phương Tây, triết học được xây dựng bởi chủ yếu
là các nhà khoa học, gắn liền với các thành tựu khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên
thì ở phương Đông, triết học gắn với những hiền triết – nhà tơn giáo, nhà giáo dục đạo
đức, chính trị-xã hội. Vậy nên đặc điểm chủ đạo là các nhà Triết học phương Tây thiên
về giải thích thế giới theo nhiều cách cịn mục đích chính của phương Đơng là cải tạo
thế giới gồm có: ổn định xã hội, giải thốt cho con người và làm sao cho con người
hồ đồng với thiên nhiên. Nguồn gốc là do ở phương Đông, thượng tầng kiến trúc ra
đời trước và thúc đẩy dự phát triển của hạ tầng cơ sở, còn ở phương Tây hạ tầng cơ sở
quyết định đến thượng tầng kiến trúc.
2.2.2. Mối quan hệ giữa con người và vũ trụ
Nếu như triết học phương Tây cổ đại tách con người ra khỏi vũ trụ, coi con người
là chủ thể còn thế giới quan là khách thể mà con người cần nghiên cứu, chinh phục thì
triết học phương Đơng thời cổ đại lại nhấn mạnh mặt thống nhất trong mối quan hệ
giưũa con người và vũ trụ.
6


2.2.3. Mặt xã hội và mặt sinh vật của con người
Trong khi triết học phương Đông chú trọng vào việc giải thích mối quan hệ giữa

người với người và đời sống tâm linh của con người, hầu như rất ít quan tâm tới mặt
sinh vật. Trái lại, triết học phương Tây cổ đại lại chủ yếu quan tâm tới khía cạnh sinh
vật, về nguồn gốc xuất hiện của sinh vật, hầu như ít quan tâm tới mặt xã hội của con
người. Những mặt hạn chế của hai nền triết học cổ đại này sau đã được khắc phục bởi
triết học Mac-Lênin. Triết học Trung Quốc cổ đại khi nghiên cứu đã lấy con người làm
gốc, lấy triết lí nhân sinh làm nội dung. Trong khi đó, triết học phương Tây cổ đại lại ít
quan tâm đến sức mạnh đạo đức, mà chủ yếu quan tâm nghiên cứu khía cạnh sinh vật,
nguồn gốc xuất hiện của con người. Như vậy, các nhà triết học phương Đông cổ đại
nghiêng về nghiên cứu nội tâm, hướng nội thì các nhà triết học phương Tây cổ đại lại
đi sâu vào phương diện lí trí. Do vậy phải thường xuyên trau dồi lí trí, tiép thu những
quy luật của tự nhiên và quy luật của con người.
2.2.4. Về tư tưởng nhận thức luận
Trong khi các nhà triết học phương Đơng cổ đại có những phương thức tư duy
triết học là nhận thức trực quan, trực giác, thì các nhà triết học phương Tây cổ đại lại
đề cao vai trị của nhận thức lí tính, phát triển các tư tưởng thành lí thuyết với các
chứng minh rõ ràng, mạch lạc. Ở Ấn Độ cổ đại, các trường phái triết học đề cao nhận
thức trực giác, thực nghiệm tâm linh khi nghiên cứu thế giới, nhhư phái Vaisesika,
Lokayata, kinh Uparishop… Ở Trung Quốc cổ đại, Lão Tử và Trang tử đề cao tư duy
trừu tượng và coi
khinh nghiên cứu sự vật hhiện tượng cụ thể. Cho dù các nhà triết học phương Đơng cổ
đại đã có sự sang tạo phương thức tư duy trực quan, nhưng do thiếu luận chứng và
phân tích, lại dùng phương pháp tư duy giácc ngộ bằng trực giác nên đã làm cho các
khái niệm thiếu logic, khoa học. Trái lại, các nhà triết học phương Tây cổ đại lại khơng
đặt mình vào giữa đối tượng để suy nghiệm, mà tách con người ra khỏi đối tượng nhận
thức
để đảm bảo được tính khách quan. Mặc dù vẫn có quan điểm như Epiquga nhưng ông
đã thừa nhận tác động của vật chất vào các giác quan của con người. Hầu hết các triết
gia Hy Lạp đã đưa ra quan điểm về nhận thức luận đúng đắn, đó là nhận thức một q
trình kinh nghiệm đến nhận thức lí tính. Vì thế, logic học đã được phát triển ở phương
Tây cổ đại.

7


2.2.5. Cuộc đấu tranh giữa duy tâm và duy vật
Ở triết học phương Đông cổ đại, các trào lưư, học thuyết thường đan xen yếu tố
duy vật và duy tâm. Chính vì thế mà cuộc đấu tranh giữa duy vật và duy tâm không
gay gắt như ở phương Tây. Ở Trung Quốc cổ đại với trường phái nho giáo mà đại diện
là Khổng Tử. Trong quan niệm của ông, bên cạnh các yếu tố duy tâm là các yếu tố duy
vật. Ông đưa ra thuyết “Thiên mệnh”, và coi việc hiểu biết mệnh trời là một hiểu biết
tất yếu cần có để trở thành một con người hồn thiện. Song ông lại phê phán sùng bái,
mê tín. Trong phật giáo, sự đan xen giữa yếu tố duy vật và duy tâm cũng thể hiện rất rõ
nét. Còn ở Triết học Ấn Độ cổ đại, các quan niệm tự nhiên về các vị thần dần mờ nhạt,
thay vào đó là những nguyên lí trừu tượng, duy nhất, tối cao được coi là nguồn gốc của
vũ trụ, đó là thần sang tạo tối cao. Tuy nhiên trong thời kì này cũng xuất hiện một làn
song đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm. Không như ở phương Đông, triết học
phương Tây cổ đại lại có những cuộc đấy tranh gay gắt. Ở đây, mỗi nhà triết học, mỗi
trường phái lại có một ý kiến riêng biệt về bản nguyên của thế giới, về mầm mống ban
đầu của thế giới.
2.2.6. Sự đấu tranh giữa biện chứng và siêu hình
Trong triết học phương Đơng cổ đại, yếu tố bịên chứng và siêu hình cùng tồn tại
với nhsu, đan xen nhau, khơng có sự đấu tranh gay gắt. Điều này trái ngược với triết
học phương Tây cổ đại. Với triết học Trung Hoa cổ đại, ta xem xét đại diện là Lão Tử.
Ông cho rằng trời không phải căn cứ của đạo mà trái lại, đạo có trước thần linh, hiện
tượng trong vũ trụ ơng gọi là đạo thường. Ở đây, tư tưởng biện chứng được thể hiện rõ
nét. Ông cũng chỉ ra rằng, bất cứ sự vật nào cũng là thể thống nhất của hai mặt đối lập,
vừa xung khắc lại vừa dựa vào nhau, và lien hệ, ràng buộc bao hàm lẫn nhau. Ở
phương Tây, Hêraclit là người có đóng góp to lớn trong lịch sử phát triển biện chứng.
Đối lập với ông là phép biện chứng phủ định của trường phái Êlê với chủ nghĩa vạn
vật bất biến, không sinh thành, không diệt vong. Có nhiều quan điểm đối lập nhau
khau và khác nhau rất nhiều về thế giới. Quan điểm biện chứng về thế giới của các nhà

triết học phương Tây cổ đại có ý nghĩa to lớn đối với lịch sử triết học. tuy nhiên, nó
mới chỉ là quan điểm mang tính tự phát.
2.2.7. Các bước phát triển nhảy vọt về chất
Ở triết học phương Tây, mỗi giai đoạn lịch sử bên cạnh những tư tưởng triết học
cũ, luôn xuất hiện những trường phái triết học mới với quan điểm có tính phát triển
8


nhảy vọt, tính cách mạng. Trong khi đó, triết học phương Đơng cổ đại ít có những
bước nhảy mang tính cách mạng. Triết học phương Đơng có phát triển nhưng chỉ là sự
phát triển cục bộ, đi sâu vào từng chi tiết, từng tư tưởng trên cơ sở cái cũ, có cải tiến
về phương diện nào đó. Điều đó thể hiện ở chỗ, những nhà tư tương ở giai đạon lịch sử
sau thường cho mình là học trị, là người kế tục sự nghiệp của những nhà sáng lập ở
giai đoạn trước.
Những tư tưởng mới mà họ đưa ra chỉ là để giải thích sâu hơn hoặc nhằm bảo vệ
những ý tưởng của nhũng vị tiền bối. Vì vậy ở giai đoạn sau ít thấy những trường phái
triết học mới xuất hiện, điều đó cho chúng ta thấy tính bảo thủ, trì trệ, kiệm tiến của
triết học phương Đơng cổ đại. Ngược lại, ở phương Tây lại có những trường phái triết
học mới, thể hiện sự đột phá về tư tưởng. Ở Hy Lạp, triết học đã đi sâu và bàn đến vấn
đề con người, đặc biệt về thuyết nguyên tử của Đemocrit đã tạo ra bước nhảy vọt về
chất trong lịch sử triết học cổ đại. Đặc điểm này còn được thể hiện qua quan điểm mới
của Hêraclit và nhận thức luận của Empedoclo. Chính những điều đó đã tạo ra những
bước phát triển nhảy vọt về chất của triết học phương Tây cổ đại.
2.2.8. Việc được nhìn nhận như một khoa học độc lập
Những tư tưởng triết học phương Đơng cổ đại ít khi tồn tại dưới dạng triết học
thuần tuý mà thường được trình bày xen kẽ hoặc ẩn dấu đằng sau những vấn đề chính
trị, xã hội, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật Ngược lại, triết học phương Tây cổ đại là một
hệ thống các tư tưởng được trình bày trực tiếp, rõ ràng, triết học được coi là một khoa
học độc lập. Với triết học Trung Hoa thời cổ đại, khổng Tử thể hiện tư tưởng triết học
về con người, về xã hội thong qua một số chính sách, bài học vè trị quốc. Ở Ấn Độ,

triết học mang đậm máu sắc tôn giáo, triết học và tơn giáo ln hồ nhập với nhau, rất
khó phân biệt rõ ràng. Triết học phương Tây cổ đại là một hệ thống triết học thuần tuý,
ngay
từ khi ra đời đã chứa đựng các khoa học khác. Xen lẫn trong các học thuyết Hy Lạp cổ
đại là những định luật tốn học, vệt lí, hay thiên văn học. Với các nhà triết học điển
hình như Talet, Pitago, Democrit… đều là nhũng nhà khoa học tự nhiên.
2.2.9. Việc sử dụng hệ thống thuật ngữ của triết học
Trong triết học phương Đông cổ đại, thường dung châm ngôn, ngụ ngôn, ẩn ngữ
có tính hình tượng để diễn đạt quan điểm, càng đi sâu vào suy nghĩ thì càng thấy sự
sâu sắc của triết học phương Đơng cổ đại. Cịn triết học phương Tây cổ đại thì các tư
9


tưởng triết học được diễn đạt, lập luận với ngôn ngữ và phong cách tư duy mạch lạc,
khoa học, có tính hệ. Về bản thể luận: Phương Tây dùng thuật ngữ: “giới tự nhiên”,
“bản thể”, “vật chất”; cịn phương Đơng lại cùng “thái cực”, “đạo sắc”, “hình”, “vạn
pháp”… Để nói về bản chất của vũ trụ, đặc biệt mối quan hệ giữa con người với vũ
trụ, phương Đông dùng phạm trù khách thể - chủ thể, con người - tự nhiên, vật chất –
ý thức, tồn tại – tư duy, cịn phương Đơng lại dùng Tâm vật, năng – sơ, lí – khí, hình thần”. Nói về tính chất, sự biến đổi của thế giới: Phương Tây dùng thuật ngữ biện
chứng, siêu hình, vận động, dứng im,… thì phương Đơng dùng bằng thuật ngữ động tỉnh, biến dịch, vô thường, vô ngã… Khi diễn đạt về mối liên hệ của các sự vật, hiện
tượng trên thế giới thì
phương Tây dùng thuật ngữ “liên hệ”, “quan hệ”, “quy luật”, còn phương Đơng dùng
thuật ngữ “đạo”, “lý”, “mệnh”, “thần”… Có nhịp điệu là hài hố âm dương, cịn vũ trụ
là tập hợp khổng lồ các xoắn ốc.
Tóm lược sự khác nhau giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây
Đông (Á)
Tinh thần – Đời người – Tĩnh lặng cảm
nhận các mối quan hệ

Tây (Âu)

Vật chất – Máy móc – Mạnh mẽ, quyết
liệt, Sức động, quan tâm thực thể độc lập

Thiên về tôn giáo, mỹ thuật, nghệ thuật

Thiên về khoa học công nghệ

Sử dụng tình cảm, quan tâm đạo đức — Con
người, đạo học

Sử dụng trí tuệ, tư tưởng, quan tâm sự
vật/hiện tượng — Vũ trụ, học thuyết

Dùng trực giác, tổng thể vẫn loanh quanh
những lối cũ, bề ngịai

Dùng lý trí, mất dần tổng thể, ngày càng
phong phú, cụ thể

Quan tâm phần ngọn: nhân sinh quan, cách
sống, lối sống

Quan tâm phần gốc: thế giới quan, bản
thể luận, nhận thức luận

Ảnh hưởng tới: kinh nghiệm/hoàn thiện cá
nhân, ổn định xã hội

Ảnh hưởng tới: giải thích/lý luận về thế
giới, thực hành kỹ nghệ, tự do cá nhân,

cách mạng xã hội

10


KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu và trình bày như ở trên, ta thấy rằng giữa hai nền triết học có
những đặc điểm khác xa nhau, mỗi nền triết học lại có những nét đặc sắc riêng, nhưng
chúng lại bổ sung cho nhau và đều có những đóng góp to lớn và lịch sử phát triển triết
học của nhân loại. Ở phương Đơng, ta tìm thấy sự sâu sắc, ý vị, tinh thần, đạo đức,
tính nhân đạo, màu sắc đời sống. Trong khi đó, tinh thần khoa học của triết học
phương Tây cổ đại lại làm cho triết học có tính logic và trở thành khoa học của các
ngành khoa học. Sự khác biệt này do nhiều nguyên nhân chi phối song nguyên nhân
chủ yếu chính là sự khác biệt về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội. Bởi lẽ triết học
là một hình thái ý thức xã hội va chịu sự qui định của tồn tại xã hội. Việc nghiên cứu
triết học phương Đông và triết học phương Tây cổ đại có ý nghĩa hết sức to lớn. Bởi
lẽ, thông qua hoạt động nghiên cứu triết học, chúng ta đã thấy được sự phát triển lịch
sử tư tưởng triết học của nhận loại thời cổ đại, nắm bắt được quá trình hình thành và
phát triển của những phương pháp nhận thức khoa học. Từ đó, cho ta biện pháp hữu
hiệu để nghiên cứu, đánh giá một học thuyết triết học trong triết học cổ đại nói riêng
và trong lịch sử triết học nói chung, đồng thời, góp phần hình thành và phát triển
phương thức tư duy khoa học. Việc chỉ ra sự khác nhau giữa triết học phương Đơng và
phương Tây cổ đại đã giúp ta có cách đánh giá thoả đáng vị trí hai nền triết học này
trong lịch sử. Triết học phương Đông cổ đại ra đời từ rất sớm và là cái nôi của triết học
nhân loại. Triết học phương Tây cổ đại ra đời muộn hơn nhưng “đã có mồng mống và
đang nảy nở hầu hết tất cả các loại thế giới quan sau này” (Ph. Ăngghen). Tuy nhiên,
cả hai đều tồn tại những hạn chế nhất định. Điều này được khắc phục dần trong những
học thuyết triết học sau này. Và phái khi triết học Mác-Lênin ra đời thì triết học mới
thực sự là một công cụ nhận thức và cải tạo thế giới.
Là những chủ nhân của đất nước, chúng ta phải có nhiệm vụ nghiên cứu những

giá trị của triết học Phương Đông và Phương Tây, đặc biệt là triết học Phương Đơng.
Bởi lẽ chính lịch sử tư tưởng Việt Nam ảnh hưởng khá sâu sắc những học thuyết triết
học Phương Đông như Nho giáo, Phật giáo, Đạo gia. Những học thuyết đó trong lịch
sử đã bị “Việt Nam hố” và là những thành tố tạo nên bề dày của bản sắc văn hố Việt
Nam. Để từ đó phát huy nội lực, phát huy những giá trị truyền thống trong sự nghiệp
cơng nghiệp hố và hiện đại hố đất nước.
11


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Triết học là gì? Nguồn gốc, Vai trò & Các vấn đề cơ bản của Triết học
/>2. VÀI SO SÁNH GIỮA TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG VÀ PHƯƠNG TÂY
/>3. />4. />5. />
12



×