Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

MUA XUAN NHO NHO VIENG LANG BAC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (54.96 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ - </b>


<b>Thanh Hải.</b>



<b>Mùa xuân là đề tài truyền thống trong thơ ca dân tộc. Thanh Hải đã góp</b>
<b>cho thơ ca dân tộc một bài thơ xuân đẹp, đậm đà tình nghĩa.Tình yêu mùa</b>
<b>xuân gắn liền với tình yêu đất nước, quê hương được Thanh Hải diễn tả</b>
<b>một cách sâu sắc, cảm động</b>


Núi Ngự sông Hương là quê hương thân yêu của nhà thơ Thanh Hải. Ông là nhà
thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Mồ anh hoa nở, Những đồng chí
trung kiên, Mùa xuân nho nhỏ... là những bài thơ đặc sắc nhất của Thanh Hải.


Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ được ông viết vào năm 1980, trong khung cảnh hịa
bình, xây dựng đất nước. Một hồn thơ trong trẻo. Một điệu thơ ngân vang. Đất nước
vào xuân vui tươi rộn ràng.


Sáu câu thơ đầu như tiếng hát reo vui đón chào một mùa xn đẹp đã về. Trên
dịng sơng xanh của q hương mọc lên "một bơng hoa tím biếc”. Động từ “mọc”
nằm ở vị trí đầu câu thơ gợi tả sự ngạc nhiên vui thú, một niềm vui hân hoan đón
chào tín hiệu mùa xn:


Mọc giữa dịng sơng xanh,
Một bơng hoa tím biếc.


"Bơng hoa tím biếc" ấy chỉ có thể là hoa lục bình, hoặc hoa súng mà ta thường gặp
trên ao hồ, sồng nước làng quê:


Con sông nhỏ tuổi thơ ta tắm
Vẫn cịn đây nước chẳng đổi dịng


Hoa lục bình tím cả bờ sơng...



(Trở về quê nội - Lê Anh Xuân)


Màu xanh của nước hịa hợp với màu "tím biếc"của hoa đã tạo nên bức tranh xuân
chấm phá mà đằm thắm.


Ngẩng nhìn bầu trời, nhà thơ vui sướng lắng tai nghe chim chiền chiện hót Chim
chiền chiện cịn gọi là chim sơn ca, bạn thân của nhà nông. Từ "ơi" cảm thán biểu
lộ niềm vui ngây ngất khi nghe chim hót:


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Hai tiếng "hót chi" là giọng điệu thân thương của người dân Huế được tác giả đưa
vào diễn tả cảm xúc thiết tha giữa người với tạo vật. Chim chiền chiện hót gọi xuân
về. Tiếng chim ngân vang, rung động đất trời đem đến bao niềm vui. Ngắm dịng
sơng, nhìn bơng hoa đẹp, nghe chim hót, nhà thơ bồi hồi sung sướng:


Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tơi hứng


"Đưa tay... hứng" là một cử chỉ bình dị trân trọng, thể hiện sự xúc động sâu xa.
"Giọt long lanh" là sự liên tưởng đầy chất thơ. Là giọt sương mai, hay giọt âm
thanh tiếng chim chiền chiện? Sự chuyển đổi cảm giác (thính giác - thị giác) đã tạo
nên hình khối thẩm mĩ của âm thanh.


Tóm lại, chỉ bằng ba nét vẽ: dịng sơng xanh, bơng hoa tím biếc, tiếng chim chiền
chiện hót..., Thanh Hải đã vẽ nên một bức tranh xuân đẹp tươi và đáng u vơ
cùng. Đó là vẻ đẹp và sức sống măn mà của đất nước vào xuân.


Bốn câu thơ tiếp theo nói về mùa xuân sản xuất và chiến đấu của nhân dân ta. Cấu
trúc thơ song hành để chỉ rõ hai nhiệm vụ chiến lược ấy:



Mùa xuân người cầm súng,
Lộc giắt đầy quanh lưng.


Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ.


"Lộc" là chồi non, cành biếc mơn mởn. Khi mùa xuân về cây cối đâm chỗi nảy lộc.
"Lộc"trong vãn cảnh này tượng trưng cho vẻ đẹp mùa xuân và sức sống mãnh liệt
của đất nước. Người lính khốc trên lưng vành lá ngụy trang xanh biếc, mang theo
sức sống mùa xuân, sức mạnh của dân tộc để bảo vệ Tổ quốc. Người nông dân
đem mồ hôi và sức lao động cần cù làm nên màu xanh cho ruộng đồng, "trải dài
nương mạ " bát ngát quê hương. Ý thơ vô cùng sâu sắc: máu và mồ hôi của nhân
dân đã góp phần tơ điểm mùa xn và để giữ lấy mùa xuân mãi mãi.


Cả dân tộc bước vào mùa xuân với khí thế khẩn trương và náo nhiệt:
Tất cả như hối hả


Tất cả như xôn xao.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Đoạn thơ tiếp theo nói lên những suy tư của nhà thơ về đất nước và nhân dân:
Đất nước bốn nghìn năm


Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.


Chặng đường lịch sử của đất nước với bốn nghìn năm trường tồn, lúc suy vong, lúc
hưng thịnh với bao thử thách "vất vả và gian lao". Thời gian đằng đẵng ấy, nhân
dân ta từ thế hệ này qua thế hệ khác đã đem xương máu và mồ hơi, lịng u nước
và tinh thần quả cảm để xây dựng và bào vệ đất nước. Dân ta tài trí và nhân nghĩa.


Bốn nghìn năm lập quốc tỏa sáng nền văn hiến Đại Việt đã khẳng định sức mạnh
Việt Nam. Câu thơ "Đất nước như vì sao" là một hình ảnh so sánh đẹp và đầy ý
nghĩa. Sao là nguồn sáng lấp lánh, là vẻ đẹp bầu trời, vĩnh hằng trong không gian,
và thời gian. So sánh đất nước với vì sao là biểu lộ niềm tự hào đối với đất nước
Việt Nam anh hùng, giàu đẹp. Hành trang đi tới tương lai của dân tộc ta khơng một
thế lực nào có thể ngăn cản được: "Cứ đi lên phía trước". Ba tiếng "cứ đi lên" thể
hiện chí khí, quyết tâm và niềm tin sắt đá của dân tộc để xây dựng một Việt Nam
"dân giàu, nước mạnh


Sau lời suy tư là điều tâm niệm của Thanh Hải. Trước hết là lời nguyện cầu được
hóa thân:


Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa


Ta nhập vào hịa ca
Một nốt trầm xao xuyến.


"Con chim hót" dể gọi xuân về, đem đến niềm vui cho con người. "Một cành hoa"
để tô điểm cuộc sống, làm đẹp thiên nhiên sông núi. "Một nốt trầm" củ a bản "hòa
ca” êm ái để làm xao xuyến lòng người, cổ vũ nhân dân. "Con chim hót", "một
cành hoa ", "một nốt trầm...” là ba hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho cái đẹp, niềm
vui, cho tài trí của đất nước và con người Viêt Nam.


Với Thanh Hải, hóa thân là để hiến dâng, để phục vụ cho một mục đích cao cả:
Một mùa xuân nho nhỏ


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Dù là khi tóc bạc.


Lời thơ tâm tình thiết tha. Mỗi con người hãy trờ thành "một mùa xuân nho nhỏ" để


làm nên mùa xuân bất diệt của đất nước. Ai cũng phải có ích cho đời. "Mùa xuân
nho nhỏ" là một ẩn dụ đầy sáng tạo khắc sâu ý tưởng: "Mỗi cuộc đời đã hóa núi
sơng ta" (Nguyễn Khoa Điềm). "Nho nhỏ" và "lăng lẽ" là cách nói khiêm tốn, chân
thành. "Dâng cho đời" là lẽ sống đẹp, cao cả. Bởi lẽ "Sống là cho, đâu chỉ nhận
riêng mình " (Tố Hữu). Sống hết mình thủy chung cho đất nước, đem cả cuộc đời
mình phục vụ đất nước, cả từ lúc "tuổi hai mươi" trai tráng cho đến khi về già "tóc
bạc". Thơ hay là ở cảm xúc chân thành. Thanh Hải đã nói lên những lời gan ruột
của mình. Ơng đã sống như lời thơ ơng tâm tình. Khi đất nước bị Mỹ - Diệm và bè lũ
tay sai âm mưu chia cắt làm hai miền, ơng hoạt động bí mật trong vùng giặc, gây
dựng phong trào cách mạng, coi thường cảnh máu chảy đầu rơi. Cảm động hơn
nữa là bài thơ Mùa xuân nho nhỏ được ông viết ra trên giường bệnh, một tháng
trước lúc ông qua đời.


Thanh Hải sử dụng biện pháp nghệ thuật điệp ngữ rất tài tình: "Ta làm... ta làm... ta
nhập...", "dù là tuổi... dù là khi... "đã làm cho âm điệu thơ, giọng thơ tha thiết, sâu
lắng, ý thơ được khắc sâu và nhấn mạnh. Người đọc xúc động biết bao trước một
giọng điệu thơ trữ tình, ấm áp tình đời như vậy. Có thể xem đoạn thơ này là những
lời trăng trối cùa ông.


Khổ thơ cuối là tiếng hát yêu thương:


Mùa xuân ta xin hát Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình


Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

yêu đất nước, quê hương được Thanh Hải diễn tả một cách sâu sắc, cảm động. Mỗi
một cuộc đời hãy là một mùa xuân. Đất nước ta mãi mãi sẽ là những mùa xuân
tươi đẹp.



<b>Ngữ văn lớp 9</b>


<b>Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác - Viễn </b>


<b>Phương.</b>



<b>Viếng lăng Bác, bài thơ ngắn mà ý thơ, hình tượng thơ, cảm xúc thơ sâu</b>
<b>lắng, hàm súc và đẹp. Viễn Phương đã chọn thể thơ mỗi câu tám từ, mỗi</b>
<b>khổ bốn câu, toàn bài bốn khổ - một sự cân đối hài hịa để biểu hiện một</b>
<b>giọng điệu thơ nghiêm trang, kính cẩn. Bài thơ là tấm lịng u thương,</b>
<b>kính trọng và biết ơn Bác. Tâm tình của nhà thơ, của mỗi người Việt Nam</b>
<b>và của cả dân tộc.</b>


Sau ngày Bác Hồ "đi xa ", bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương là một trong
những bài thơ viết về Bác đặc sắc nhất. Bài thơ diễn tả niềm kính u, sự xót
thương và lịng biết ơn vô hạn của nhà thơ đối với lãnh tụ bằng một ngơn ngữ tinh
tế, giàu cảm xúc sâu lắng. Nó đã được phổ nhạc, lưu truyền sâu rộng trong nhân
dân. Câu thơ mở đầu cho thấy xuất xứ của bài thơ:


Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác


Từ chiến trường miền Nam, nhà thơ Viễn Phương mang theo bao tình cảm thắm
thiết của đồng bào và chiến ra viếng lăng Bác Hồ kính yêu. Đây là cuộc hành
hương của người chiến sĩ. Từ xa, nhà thơ đã nhìn thấy hàng tre ẩn hiện trong sương
khói trên quảng trường Ba Đình lịch sử. Màn sương trong câu thơ gợi lên một khơng
khí thiêng liêng, huyền thoại. Cây tre, hàng tre "đứng thẳng hàng" trong làn sương
mỏng, ẩn hiện thấp thoáng, mang màu sắc xanh xanh. "Hàng tre xanh xanh" vô
cùng thân thuộc được nhân hóa, trải qua "bão táp mưa sa "vẫn "đứng thẳng hàng"
như dáng đứng của con người Việt Nam kiên cường, bất khuất trong bốn nghìn năm
lịch sử:



Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác,


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

"Ôi!" là từ cảm, biểu thị niềm xúc động tự hào. Hình ảnh hàng tre xanh mang tính
chất tượng trưng, giàu ý nghĩa liên tưởng sâu sắc. Tre mang phẩm chất cao quý
của con người Việt Nam: "mộc mạc, thanh cao, ngay thẳng, bất khuất..." (Thép
Mới). Có nhà thơ đã viết:


... Bão bùng thân bọc lấy thân,
Tay ơm, tay níu, tre gần nhau thêm


Thương nhau tre chẳng ở riêng
Lũy thành từ đó mà nên hỡi người...


(Tre Việt Nam - Nguyễn Duy)


Miêu tả cảnh quan (phía ngồi) lăng Bác, nhà thơ tạo nên những suy nghĩ sâu sắc
về phẩm chất tốt đẹp của nhân dân ta. Khổ thơ tiếp theo nói về Bác. Bác là người
con ưu tú của dân tộc, là "tinh hoa và khí phách của nhân dân Việt Nam (Phạm Văn
Đồng).


Hai câu thơ sóng nhau, hơ ứng nhau với hai hình ảnh mặt trời. Một mặt trời thiên
nhiên, rực rỡ, vĩnh hằng "Ngày ngày... đi qua trên lăng", và "Một mặt trời trong lăng
rất đỏ"- hình ảnh Bác Hồ vĩ đại. Màu sắc "rất đỏ" làm cho câu thơ có hình ảnh đẹp
gây ấn tượng sâu xa hơn, nói lên tư tưởng cách mạng và lịng yêu nước nồng nàn
của Bác:


Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.



Hòa nhập vào "dòng người" đến lăng viếng Bác, nhà thơ xúc động bồi hồi...Thành
kính và nghiêm trang. Dịng người đơng đúc, chẳng khác nào một "tràng hoa"
muôn sắc ngàn hương từ mọi miền đất nước đến Ba Đình lịch sử viếng lăng Bác.
Hình ảnh ẩn dụ "tràng hoa" diễn tả tấm lịng biết ơn, sự thành kính của nhân dân
đối với Bác Hồ vĩ đại:


Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.


Chữ "dâng" chứa đựng bao tình cảm, bao tình nghĩa. Nhà thơ khơng nói "bảy chín
tuổi" mà nói: bảy mươi chín mùa xn, một cách nói rất thơ: cuộc đời Bác đẹp như
những mùa xuân. Qua đó, ta thấy nghệ thuật lựa chọn ngôn từ của Viễn Phương rất
tinh tế, biểu cảm và hình tượng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

kháng chiến, giữa núi rừng chiến khu Việt Bắc, Bác đã từng có những khoảnh khắc
sống rất thần tiên:


Việc quân, việc nước bàn xong,


Gối khuya ngon giấc bên song trăng nhòm.


Giờ đây, nhà thơ cảm thấy "Bác yên ngủ" một cách thanh thản "giữa một vầng
trăng dịu hiền ”. Nhìn "Bác ngủ ", nhà thơ đau đớn, xúc động. Câu thơ "mà sao
nghe nhói ở trong tim "diễn tả sự đau đớn, tiếc thương đến cực độ. Viễn Phương có
một lối viết hàm súc, đầy thi vị; câu chữ để lại nhiều ám ảnh trong lịng người đọc.
Khổ thơ cuối nói lên cảm xúc của nhà thơ khi ra về. Biết bao lưu luyến, buồn
thương. Nhà thơ muốn hóa thân làm "con chim hót", làm "đóa hoa tỏa hương",
làm "cây tre trung hiếu" để được đền ơn đáp nghĩa Người. Ý thơ sâu lắng, hình ảnh
thơ đẹp và độc đáo, cách biểu hiện cảm xúc "rất Nam Bộ". Đây là những câu thơ


trội nhất trong bài Viếng lăng Bác.


Mai về miền Nam thương trào nước mắt Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này. Điệp
ngữ "muốn làm... "được láy lại ba lần gợi tả cảm xúc thiết tha, nồng hậu của nhà
thơ miền Nam đối với lãnh tụ.


Viếng lăng Bác, bài thơ ngắn mà ý thơ, hình tượng thơ, cảm xúc thơ sâu lắng, hàm
súc và đẹp. Viễn Phương đã chọn thể thơ mỗi câu tám từ, mỗi khổ bốn câu, toàn
bài bốn khổ - một sự cân đối hài hòa để biểu hiện một giọng điệu thơ nghiêm
trang, kính cẩn.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×