Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Bai 17 Chien tranh the gioi thu hai 1939 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1001.04 KB, 26 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>HỌC SINH CHUẨN BỊ BÀI CHIẾN TRANH THẾ GIỚI 2- TIẾT 1 1. Nêu những hoạt động ngoại giao và quân sự của các nước phát xít trong những năm 30 của thế kỉ XX? Mục đích những hoạt động đó ? Nguy cơ của những hoạt động đó đối với thế giới ? 2. Thái độ của Liên xô, Anh, Pháp, Mĩ như thế nào trước việc phát xít tiến hành chiến tranh xâm lược ? giải thích nguyên nhân của sự khác nhau đó. 3. Hậu quả của những chính sách dung dưỡng thoả hiệp với Hítle của Anh, Pháp Mĩ 4. Hội Nghị Muy ních được triệu tập trong bối cảnh nào? Nội dung HN Muy Ních? Vì sao nói HN Muy ních là đỉnh cao của chính sách dung dưỡng thoả hiệp của các nước Anh, Pháp, Mĩ. 5. Có ý kiến cho rằng Anh Pháp Mĩ phải chịu một phần trách nhiệm trong việc để phát xít gây chiến tranh ? em có đồng ý không ? tại sao? 6. Sau khi thôn tính xong Tiệp Khắc, Liên Xô và Đức kí hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau . Hãy cho biết lí do kí (cả 2 phía LX và Đức) 7. Từ con đường dẫn tới chiến tranh hãy rút ra nguyên nhân dẫn đến chiến tranh thế giới 2? So sánh chiến tranh thế giới 1 có gì giống, khác 8 Tóm tắt diễn biến ( Đức xâm chiếm châu âu theo mẫu) Thời gian Chiến sự Kết quả Từ 01/9/1939 đến ngày 29/9/1939 Từ tháng 9/1939 đến tháng 4/1939 Từ tháng 4/1940 đến tháng 9/1940 Từ tháng 10/1940 đến tháng 6/1941 - Vì sao lịch sử gọi giai đoạn sau 3/9/1939 đến tháng 6 năm 1940 là giai đoạn chiến tranh kì quặc ? - Vì sao Đức chọn Ba lan mở màn chiến tranh thế giới 2 - Vì sao các nước châu Âu nhanh chóng bị Đức chiếm đóng.? - Cho biết nội dung kênh hình 44 trang 93. 1. Kiến thức: Sau khi học xong bài học, yêu cầu HS cần: – Hiểu được con đường, nguyên nhân dẫn đến chiến tranh thế giới thứ hai, tính chất của cuộc chiến tranh qua các giai đoạn khác nhau. – Nắm được những nét lớn về diễn biến chiến tranh: Các giai đoạn, các mặt trận chính, các trận đánh lớn. Qua đó, giúp HS nhận thức, đánh giá một cách khách quan và khoa học về vai trò của Liên Xô, của các nước đồng minh Mỹ, Anh, của cuộc đấu tranh của nhân dân các nước bị chủ nghĩa phát xít thống trị, và nhân dân thế giới trong việc đánh lại chủ nghĩa phát xít, bảo vệ hoà bình nhân loại..

<span class='text_page_counter'>(2)</span> – Thấy được kết cục của chiến tranh, ý nghĩa và hệ quả của nó đối với sự phát triển của tình hình thế giới. – Từ cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, HS cần nhận thức và rút ra bài học cho cuộc đấu tranh bảo vệ hoà bình thế giới hiện nay. 2. Tư tưởng: – Giúp HS thấy được tính chất phi nghĩa của chiến tranh đế quốc và bản chất hiếu chiến, tàn bạo của chủ nghĩa phát xít. Từ đó, bồi dưỡng ý thức cảnh giác, thái độ căm ghét và quyết tâm ngăn chặn chiến tranh, bảo vệ hoà bình cho Tổ quốc và nhân loại. – Biết quý trọng, đánh giá đúng vai trò của Liên Xô, các nước đồng minh Mĩ, Anh, của nhân dân tiến bộ thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít. 3. Kỹ năng – Kỹ năng quan sát, khai thác tranh ảnh lịch sử. – Kỹ năng quan sát, khai thác, sử dụng lược đồ, bản đồ chiến tranh. – Kỹ năng phân tích, đánh giá, rút ra bản chất của các sự kiện lịch sử. Để lại phản hồi. NHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG 29/03/2009 lúc 9:32 chiều (Những bài viết...). I. Con đường dẫn đến chiến tranh. Giai đoạn đầu cuộc chiến tranh ở châu Âu (9/1939 đến 6/1941) 1. Con đường dẫn đến chiến tranh (1931 – 1939) – Đầu những năm 30, các nước Đức, I-ta-li-a, Nhật Bản liên kết với nhau thành lập khối liên minh phát xít. – Năm 1931 – 1937, khối phát xít đẩy mạnh chính sách bành trướng xâm lược: + Nhật chiếm vùng Đông Bắc rồi mở rộng chiến tranh xâm lược trên toàn lãnh thổ Trung Quốc. + I-ta-li-a xâm lược Ê-ti-ô-pi-a (1935) cùng với nước Đức tham chiến ở Tây Ban Nha (1936 – 1939). + Đức công khai xóa bỏ Hòa ước Véc-xai, âm mưu thành lập một Đại Đức ở châu Âu… – Thái độ của các nước lớn: + Liên Xô: kiên quyết chống chủ nghĩa phát xít, chủ trương liên kết với các nước Anh, Pháp để chống phát xít và nguy cơ chiến tranh. + Mĩ, Anh, Pháp: không liên kết chặt chẽ với Liên Xô để chống phát xít, trái lại còn thực hiện chính sách nhượng bộ phát xít hòng đẩy phát xít tấn công Liên Xô. * Hội nghị Muy-ních: – Hoàn cảnh triệu tập: + Tháng 3/1938, Đức thôn tính Áo. Sau đó Hít-le gây ra vụ Xuy-đét nhằm thôn tính Tiệp Khắc. + Liên Xô kiên quyết giúp Tiệp Khắc chống xâm lược. + Anh – Pháp tiếp tục thoả hiệp, yêu cầu chính phủ Tiệp Khắc nhượng bộ Đức. -> Do đó, ngày 29/9/1938, Hội nghị Muy-ních được triệu tập gồm đại diện 4 nước Anh, Pháp, Đức , I-ta-li-a. – Nội dung Anh – Pháp – kí hiệp định trao vùng Xuy-đét của Tiệp Khắc cho Đức. Đổi lại, Đức cam kết chấm.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> dứt mọi cuộc thôn tính ở châu Âu. – Ý nghĩa: + Hội nghị Muy-ních là đỉnh cao của chính sách dung túng nhượng bộ phát-xít của Mĩ- Anh – Pháp. + Thể hiện âm mưu thống nhất của chủ nghĩa đế quốc (kể cả Anh – Pháp – Mĩ và Đức – I-ta-li-a – Nhật Bản) trong việc tiêu diệt Liên Xô. *Sau Hội nghị Muy-ních: – Đức đưa quân thôn tính tòan bộ Tiệp Khắc (3/1939) – Tiếp đó, Đức gây hấn và chuẩn bị tấn công Ba Lan. -23/8/1939 Đức kí với Liên Xô “ Hiệp ước Xô- Đức không xâm lược nhau” Như vậy, Đức đã phản bội lại hiệp định Muy-nich, thực hiện mưu đồ thôn tính Châu Âu trước rồi mới dốc tòan lực đánh Liên Xô. 2. Chiến tranh thế giới bắt đầu giữa Đức với Ba Lan và Anh- Pháp (từ 9/1939-4/1940) -1/9->28/9/1939:Đức tấn công Ba Lan, Ba Lan bị Đức thôn tính – 9/1939-> 4/1940:“ Chiến tranh kì quặc”,Anh và Pháp tạo điều kiện để phát xít Đức phát triển mạnh lực lượng. – 4/1940->9/1940:Đức chuyển hướng tấn công từ phía Đông sang Tây.Đan Mạch, Na – uy, Bỉ, Hà Lan, Lucxam-bua bị Đức thôn tính. Pháp đầu hàng Đức. Kế hoạch tấn công nước Anh không thực hiện được. -10/1940->6/1941Đức tấn công Đông và Nam Âu.Ru-ma-ni, Hung-ga-ri, Bun-ga-ri, Nam Tư, Hi Lạp bị thôn tính. II. Chiến tranh lan rộng khắp thế giới ( từ tháng 6/1941 đến tháng 6/1944) 1.Đức tấn công Liên Xô (6/1941 đến tháng 11/ 1942). Chiến sự ở Bắc Phi. * Mặt trận Xô – Đức: – Ngày 22/6/1941 phát xít Đức tấn công Liên Xô theo kế hoạch đã định. Thời gian đầu nhờ ưu thế về vũ khí và kinh nghiệm tác chiến nên quân Đức tiến sâu vào lãnh thổ Liên Xô. – Tháng 12/1941, Hồng quân Liên Xô Phản công quyết liệt, đẩy lùi quân Đức ra khỏi ngõ Mát-xcơ-va, làm phá sản kế hoạch “Chiến tranh chớp nhoáng của Đức”. – Cuối năm 1942, Đức chuyển mũi nhọn tấn công xuống phía Nam nhằm chiếm Xta-lin-grat song không thể chiếm được thành phố này. *Mặt trận Bắc Phi – Tháng 9/1940 quân đội I-ta-li-a tấn công Ai Cập. -Tháng 10/1942 liên quân Mỹ Anh dành thắng lợi lớn trong trận En-Alamen (Ai Cập) và chuyển sang phản công trên toàn mặt trận. 2. Nhật khai chiến với Anh Mỹ Chiến Tranh Thái Bình Dương bắt đầu ( 12/1941 đến 11/1942) -Ngày 7/12/1941, quân Nhật bất ngờ tấn công hạm đội Mỹ ở Trân Châu Cảng.Bị thất bại nặng nề , Mỹ tuyên chiến với Đức , I-ta-li-a , Nhật Bản. Chiến tranh Thái bình Dương bùng nổ – Từ tháng 12/1941 đến tang 5/1942. Nhật Bản mở một loạt cuộc tấn công và chiếm được một vùng rộng lớn ở Đông Nam Á, Đông Á và Thái Bình Dương. 3. Khối Đồng minh chống phát xít hình thành.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> – Nguyên nhân: + Hành động xâm lược của phe phát xít trên tòan thế giới đã thúc đẩy các quốc gia cùng phối hợp với nhau trong một liên minh chống phát xít. + Việc Liên Xô tham chiến đã cổ vũ mạnh mẽ cuộc kháng chiến của nhân dân các nước bị phát xít chiếm đóng, và khiến cho Mĩ- Anh thay đổi thái độ, bắt tay cùng Liên Xô chống chủ nghĩa phát xít. – Sự thành lập: 1/1/1942 tại Oa-sinh-tơn, 26 nước ( đứng đầu là Liên Xô, Mĩ, Anh) ra tuyên ngôn cam kết cùng nhau tiến hành cuộc chiến đấu chống phát xít. Khối Đồng minh chống phát xít được thành lập. – Ý nghĩa: Việc Liên Xô tham chiến và sự ra đời của khối Đồng minh chống phát xít làm cho tính chất của CTTG II thay đổi, trở thành một cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ hòa bình nhân lọai. 4. Quân Đồng minh chuyển sang phản công (từ tháng 11/1942 đến tháng 6/1944) * Ở mặt trận Xô – Đức : – Từ 11/1942 đến 2/1943 Hồng quân Liên Xô phản công , tiêu diệt và bắt sống toàn bộ đạo quân tinh nhuệ gồm 33 vạn người của phát xít Đức ở Xta-lin-grat. Ý nghĩa: Đánh dấu bước ngoặt của chiến tranh thế giới, buộc quân Đức phải chuyển từ tấn công sang phòng ngự mở ra thời kỳ Liên Xô và phe đồng minh chuyển sang tổng tấn công trên các mặt trận. – Cuối tháng 8/1943 Hồng quân bẻ gãy cuộc phản công của Đức tại vòng cung Cuốc-Xcơ, đánh tan 50 vạn quân Đức. – Tháng 6/1944, phần lớn lãnh thổ Liên Xô được giải phóng. * Ở mặt trận Bắc Phi: Từ tháng 3 đến tháng 5/1943, liên quân Mỹ – Anh phản công quét sạch quân Đức – Ita-li-a ra khỏi châu Phi. Chiến sự châu Phi chấm dứt. * Ở I-ta-li-a : 7/1943 đến 5/1945 liên quân Mỹ – Anh tấn công truy kích quân phát xít làm cho chủ nghĩa phát xít I-ta-li-a sụp đổ, Phát xít Đức khuất phục. *Ở Thái Bình Dương : Sau chiến thắng quân Nhật trong trận Gua-dan-ca-nan (1/1943) Mỹ chuyển sang phản công đánh chiếm các đảo ở Thái Bình Dương. III. Giai đoạn kết thúc (6/1944 đến tháng 8/1945). Kết cục và ảnh hưởng của chiến tranh. 1. Tiêu diệt phát xít Đức Sau khi giải phóng các nước Trung và Đông Âu (1944), tháng1/1945, hồng quân Liên Xô mở cuộc tấn công Đức ở mặt trận phía Đông. – Tháng 2/1945, Liên Xô tổ chức hội nghị Ianta gồm 3 nước Liên Xô, Mỹ, Anh bàn về việc tổ chức lại thế giới sau chiến tranh. – Năm 1944, Mĩ, Anh mở mặt trận thứ hai ở Tây Âu và bắt đầu mở cuộc tấn công quân Đức ở mặt trận phía Tây từ tháng 2/1945. – Ngày 16/4 đến 30/4 1945, Hồng quân Liên Xô tấn công đánh bại hơn 1 triệu quân Đức tai Béc-lin. Chủ nghĩa phát xít Đức bị tiêu diệt. – Tháng 9/1945, nước Đức đầu hàng không điều kiện. Chiến tranh chấm dứt ở châu Âu. 2. Nhật Bản đầu hàng – Từ năm 1944. Mĩ – Anh triển khai tấn công quân Nhật ở Miến Điện, Phi-líp-pin, các đảo ở Thái Bình Dương. – Mĩ tăng cường đánh phá các thành phố lớn của Nhật bằng không quân. Ngày 06/8/1945 và 09/8/1945, Mĩ ném hai quả bom nguyên tử xuống hai thành phố Hi-rô-shi-ma và Na-ga-xa-ki giết hại hàng vạn người..

<span class='text_page_counter'>(5)</span> – Ngày 8/8, Liên Xô tuyên chiến với Nhật và tấn công đạo quân Quan Đông gồm 70 vạn quân chủ lực của Nhật ở Mãn Châu. – Ngày 15/8/1945, Nhật đồng hàng không điều kiện. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. 3. Kết cục của chiến tranh thế giới thứ hai. – Chủ nghĩa phát-xít Đức – I-ta-li-a – Nhật Bản sụp đổ hoàn toàn. Thắng lợi vĩ đại thuộc về các dân tộc trên thế giới đã kiên cường đấu tranh chống chủ nghĩa phát – xít. Trong đó, ba cường quốc Liên Xô, Mĩ, Anh là lực lượng trụ cột, giữ vai trò quyết định trong việc tiêu diệt chủ nghĩa phát – xít. – Gây hậu quả và tổn thất nặng nề nhất trong lịch sử nhân loại, làm cho 60 triệu người chết, 90 triệu người bị thương, thiệt hại về vật chất 4.000 tỉ đô la. – Ý nghĩa: CTTG II kết thúc đã dẫn đến những biến đổi căn bản của tình hình thế giới. Để lại phản hồi. LUYỆN TẬP 29/03/2009 lúc 9:31 chiều (Những bài viết...). GỢI Ý TRẢ LỜI MỘT SỐ CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP TRONG SGK: 1./ Theo em, sự kiện Muy-nich còn được nhìn nhận đánh giá như thế nào? + Hội nghị Muy-ních là đỉnh cao của chính sách dung túng nhượng bộ phát-xít của Mĩ- Anh – Pháp. + Thể hiện âm mưu thống nhất của chủ nghĩa đế quốc (kể cả Anh – Pháp – Mĩ và Đức – I-ta-li-a – Nhật Bản) trong việc tiêu diệt Liên Xô. 2./ Nguyên nhân nào dẫn đến CTTG II? * Nguyên nhân sâu xa ( nguồn gốc): Sự phát triển không đều về kinh tế và chính trị ở các nước tư bản khiến cho mâu thuẫn ngày càng gay gắt. * Nguyên nhân trực tiếp: Khủng hoảng kinh tế 1929-1933 dẫn đến sự ra đời của chủ nghĩa phát xít –>âm mưu gây chiến tranh để chia lại thế giới 3./ Lập bảng niên biểu về quá trình xâm chiếm Châu Âu của phát xít Đức ( từ tháng 9/1939- tháng 6/1941. THỜI GIAN CHIẾN SỰ KẾT QUẢ 1/9->28/9/1939 Đức tấn công Ba Lan Ba Lan bị Đức thôn tính 9/1939->4/1940 “ Chiến tranh kì quặc” Tạo điều kiện để phát xít Đức phát triển mạnh lực lượng. 4/1940->9/1940 Đức chuyển hướng tấn công từ phía Đông sang Tây Đan Mạch, Na – uy, Bỉ, Hà Lan, Lucxam-bua bị Đức thôn tính. Pháp đầu hàng Đức. Kế hoạch tấn công nước Anh không thực hiện được. 10/1940->6/1941 Đức tấn công Đông và Nam Âu Ru-ma-ni, Hung-ga-ri, Bun-ga-ri, Nam Tư, Hi Lạp bị thôn tính. 4./ Trong việc tiêu diệt chủ nghĩa phát xít, Liên Xô có vai trò như thế nào? ->* Liên Xô là trụ cột, giữ vai trò quyết định trong việc tiêu diệt chủ nghĩa phát xít: – Tập hợp các lực lượng yêu chuộng hòa bình đấu tranh chống phát xít. – Đập tan cuộc chiến tranh xâm lược của phát xít Đức, giải phóng lãnh thổ của mình, giúp đỡ các nước.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> Đông Âu giải phóng đất nước khỏi ách phát xít. Tiến công đến tận sào huyệt của chủ nghĩa phát xít Đức tiêu diệt chúng. – Tiêu diệt phát xít Nhật, buộc Nhật phải đầu hàng không điều kiện. – Tổ chức các hội nghị quốc tế: I-an-ta, Pốt-xđam bàn việc kết thúc chiến tranh. CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM VÀ TỰ LUẬN: TRẮC NGHIỆM: -ri. MỘT SỐ CÂU HỎI TỰ LUẬN THAM KHẢO: 1./ Bằng những chiến thắng của Liên Xô trong cuộc đấu tranh chống phát xít, hãy chứng minh vai trò của Liên Xô trong CTTG II. a./ Trước chiến tranh: Chính sách của Liên Xô trước sau như một: Chống phát xít và chống chiến tranh. Liên Xô đã đề nghị hợp tác với phe Đồng minh, thành lập Mặt trận nhân dân chống phát xít, chống chiến tranh nhưng bị cự tuyệt. Anh, Phap, Mĩ dung dưỡng, thỏa hiệp với phát xít. b./ Trong chiến tranh: *Mặt trận Xô-Đức: – Chiến thắng Matxcơva – Chiến thắng Xtalingrat – Chiến thắng ở vòng cung Cuốcxơ – Giải phóng toàn bộ lãnh thổ Xô Viết – Tiến qua Đông Âu, phối hợp giải phóng các nước Đông Âu – Công phá Beclin(từ 14/4/1945), gặp quân Đồng minh ở Toócgâu( bên bờ sông Enbơ) – Đêm 8/5/1945, chính phủ mới ở Đức đã kí văn kiện đầu hàng không điều kiện * Đánh quân phiệt Nhật Bản: 8/8/1945 Liên Xô tuyên chiến với Nhật Bản và tấn công đạo quân Quan Đông, là đạo quân chủ lực của phát xít Nhật. 15/8 Nhật tuyên bố đầu hàng Như vậy, Liên Xô giữ vai trò là lực lượng đi đầu và lực lượng chủ chốt góp phần quyếtđịnh thắng lợi, đánh bại chủ nghĩa phát xít, bảo vệ nền hòa bình, văn minh nhân loại 2./ Hãy đánh giá thái độ và vai trò của nước Anh, Mĩ trong CTTG II. * Thái độ của các nước phương Tây: dung dưỡng, thỏa hiệp, đẩy phát xít Đức tấn công Liên Xô * Việc làm: -Kí hiệp ước Muynich với Hitle, bán rẻ chủ quyền của tiệp Khắc-> đỉnh cao của chính sách dung dưỡng, thỏa hiệp -1/9/1939 Đức tấn công Balan, chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu -Anh, Pháp tuyên chiến nhưng không hành động-“cuộc chiến tranh kì quặc” -Lần lữa mở mặt trận thứ hai 1944, tuy muộn nhưng có tác dụng thúc đẩy chiến tranh nhanh chóng kết thúc ở Châu Âu.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> -Chạy đua vào Beclin trước người Nga Ở mặt trận Bắc Phi và mặt trận Thái Bình Dương, quân Mĩ-Anh có thu được một số chiến thắng, làm tổn thất lực lượng phe phát xít, góp phần đưa tới thất bại của phe phát xít 3./ Phát biểu ý kiến của bản thân về việc Mĩ ném hai quả bom nguyên tử xuống Nhật Bản năm 1945.. ỊCH SỬ THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI :II-Sự sụp đổ của hệ thống Véc xai-Oasinhtơn và con đường dẫn đến c t t g II (1929-1939) Sự sụp đổ của hệ thống Véc xai-Oasinhtơn và con đường dẫn đến chiến tranh thế giới thứ hai (1929-1939) Trước hết, chúng ta cần nắm được những nét khái quát về tình hình quốc tế những năm cuối thập niên 20, đầu thập niên 30. Cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 - 1933) bùng nổ đã chấm dứt thời kì ổn định của chủ nghĩa tư bản cùng với ảo tưởng về một kỷ nguyên hoà bình của thế giới. Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ nước Mĩ ngày 24 - 10 - 1929, đã nhanh chóng tràn sang châu Âu, bao trùm toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa, để lại những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, chính trị, xã h ội. Hàng trăm triệu người (công nhân, nông dân và gia đình của họ) bị rơi vào vũng lầy đói khổ. Hàng ngàn cuộc biểu tình lôi cuốn trên 17 triệu công nhân ở các nước tư bản tham gia trong những năm 1929 - 1933, ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng bùng lên mạnh mẽ. Những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản trở nên cực kì gay gắt. Trong bối cảnh đó đã hình thành những xu hướng khác biệt nhau trong việc tìm kiếm con đường phát triển giữa các nước tư bản chủ nghĩa. Các nước không có hoặc có ít thuộc địa gặp nhiều khó khăn về vốn, nguyên liệu và thị trường đã đi theo con đường phát xít hoá chế độ chính trị, thiết lập nền chuyên chính khủng bố công khai nhằm cứu vãn tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng của mình. Các nước Italia, Đức, Nhật Bản là điển hình cho xu hướng này. Trong những năm 1929 - 1936, giới cầm quyền các nước nói trên đã từng bước phá vỡ những điều khoản chính yếu của hệ thống Vécxai - Oasinhtơn và tích cực chuẩn bị cuộc chiến tranh để phân chia lại thế giới. Trong khi đó các nước Mỹ, Anh, Pháp... đã tìm cách thoát ra khỏi khủng hoảng bằng những cải cách kinh tế - xã hội , duy trì nền dân chủ tư sản đại nghị, đồng thời chủ trương duy trì nguyên trạng hệ thống Vécxai Oasinhtơn. Quan hệ giữa các cường quốc tư bản trong thập niên 30 chuyển biến ngày càng phức tạp. Sự hình thành hai khối đối lập - một bên là Đức, Italia, Nhật Bản với một bên là Mĩ, Anh, Pháp và cuộc chạy đua vũ trang giữa hai khối đã phá vỡ hệ thống thoả hiệp tạm thời Vecxai - Oasinhtơn dẫn tới sự hình thành các lò lửa chiến tranh, báo hiệu một cuộc chiến tranh thế giới mới.. 1. Sự hình thành ba lò lửa chiến tranh thế giới . a) Lò lửa chiến tranh ở Viễn Đông Nhật Bản là nước đầu tiên có tham vọng phá vỡ hệ thống Vecxai - Oasinhtơn bằng sức mạnh quân sự. Từ năm 1927 Thủ tướng Nhật Tanaca đã vạch một kế hoạch chiến tranh toàn cầu đệ trình lên Thiên hoàng dưới hình thức bản “tấu thỉnh”', trong đó khẳng định phải dùng chiến tranh để xoá bỏ những “bất công mà Nhật phải chấp nhận” trong các Hiệp ước Oasinhtơn (1921 - 1922) và đề ra kế hoạch cụ thể xâm lược Trung Quốc, từ đó mở rộng xâm lược toàn thế giới. Sau hai lần thất bại trong việc xâm lược vùng Sơn Đông (Trung Quốc), ngày 18 - 9 - 1931 Nhật Bản tạo ra “Sự kiện đường sắt Nam Mãn Châu” để lấy cớ đánh chiếm vùng Đông Bắc Trung Quốc, nơi tập trung 77% tổng số vốn của Nhật ở Trung Quốc. Đây là bước đầu tiên trong kế hoạch xâm lược đại qui mô của Nhật. Sau khi chiếm vùng này, quân Nhật dựng lên cái gọi là “Nhà nước Mãn Châu độc lập” với chính phủ bù nhìn do Phổ Nghi đứng đầu, biến vùng Đông Bắc Trung Quốc thành thuộc địa và bàn đạp cho những cuộc phiêu lưu quân sự mới..

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Việc Nhật Bản xâm lược Đông Bắc Trung Quốc đã động chạm đến quyền lợi của các nước tư bản phương Tây, nhất là Mĩ. Tuy nhiên Mĩ cũng như Anh, Pháp đã nhân nhượng, dung túng cho hành động xâm lược của Nhật với tính toán rằng Nhật sẽ tiêu diệt phong trào cách mạng ở Trung Quốc và tiến hành chiến tranh xâm lược Liên Xô. Điều đó đã làm cho Nhật bỏ qua mọi phản đối của phái đoàn điều tra Líttơn (Lytton) do Hội Quốc liên cử đến Trung Quốc. Ngày 24 - 2 - 1933 Hội Quốc liên đã thông qua Báo cáo công nhận chủ quyền của Trung Quốc ở Mãn Châu, không công nhận “nước Mãn Châu” do Bộ tham mưu Nhật dựng lên nhưng mặt khác lại đề nghị duy trì “những quyền lợi đặc biệt của Nhật” ở Trung Quốc. Như vậy, Hội Quốc liên đã không công khai tuyên bố “hành động của Nhật là xâm lược và không quyết định một hình phạt nào đối với Nhật. Trước sức mạnh quân sự, Hội Quốc liên đã sử dụng sức mạnh tinh thần. Phương pháp đó không đem lại kết quả nào”. Nhật Bản tiếp tục mở rộng xâm lược Trung Quốc, chiếm đóng hai tỉnh Nhiệt Hà và Hà Bắc. Để có thể tự do hành động, ngày 24 - 3 - 1933 Nhật Bản tuyên bố rút khỏi Hội Quốc liên. Hành động của Nhật đã phá tan nguyên trạng ở Đông Á do Hiệp ước Oasinhtơn năm 1922 qui định, đánh dấu sự tan vỡ bước đầu của Hệ thống Vecxai Oasinhtơn. Không dừng lại ở đó, năm 1937 Nhật bắt đầu mở rộng chiến tranh trên toàn lãnh thổ Trung Quốc.. b) Sự hình thành lò lửa chiến tranh nguy hiểm nhất ở châu Âu Trong lúc đó, lò lửa chiến tranh thế giới nguy hiểm nhất đã xuất hiện ở châu Âu với việc Hitle lên cầm quyền ở Đức tháng 1 - 1933. Có thể nói, lực lượng quân phiệt Đức đã nuôi chí phục thù ngay từ sau khi nước Đức bại trận và phải chấp nhận hoà ước Vécxai. Bước vào thập niên 30, sự sụp đổ của chính phủ Muylơ (Muler) - chính phủ cuối cùng của nền Cộng hoà Vaima (Weimar) - và việc Bơruyninh (Bruning) lên nắm chính quyền đầu năm 1930 đánh dấu một thời kì chuyển biến mới trong chính sách đối nội cũng như đối ngoại của Đức. Xu hướng thành lập một chính quyền ''mạnh'', một nền chuyên chính dân tộc chủ nghĩa cực đoan đã trở thành nhu cầu cấp thiết của giới quân phiệt ở Đức. Đảng Quốc xã được coi là lực lượng thực tế có thể đáp ứng được nhu cầu đó và Hítle được coi là “người hùng” có thể ngăn chặn được “tình trạng hỗn loạn và chủ nghĩa bônsêvích”. Ngày 30-1-1933 Tổng thống Hinđenbua (Hindenburg) đã cử Hitle, lãnh tụ của Đảng Quốc xã làm Thủ tướng, mở đầu một thời kỳ đen tối trong lịch sử nước Đức..

<span class='text_page_counter'>(9)</span> Ngày 30-1-1933 Tổng thống Hinđenbua (Hindenburg) đã cử Hitle, lãnh tụ của Đảng Quốc xã làm Thủ tướng Việc Hitle lên cầm quyền không chỉ là một sự kiện thuần tuý của nước Đức, mà còn “đánh dấu một bước ngoặt quyết định trong lịch sử quan hệ quốc tế”. Bởi lẽ, “đối mặt với Hítle, chủ nghĩa “xoa dịu” của Anh, sự trì trệ của Pháp và chủ nghĩa trung lập của Mỹ là những hiện tượng tiêu biểu nhất của thời kỳ tiếp theo”. Từ đây Hítle thực hiện dần từng bước việc thanh toán hệ thống Véc-xai và chuẩn bị chiến tranh thế giới mới nhằm thiết lập quyền thống trị thế giới.. Bước đầu tiên trong kế hoạch của Hítle là chinh phục châu Âu, trong đó chủ yếu là chiếm đoạt các vùng lãnh thổ ở phía đông châu Âu, trước hết là Nga và các vùng phụ cận Nga. Tuy nhiên, Hítle cũng không loại trừ một cuộc chiến tranh với phương Tây để xâm chiếm lãnh thổ phía tây mà trong đó nước Pháp được coi là “kẻ thù truyền thống”. Hítle còn đề ra kế hoạch Âu - Á(Eurasia) và Âu - Phi (Eurafrica) nhằm xâm chiếm lãnh thổ của các nước châu Phi, châu Á và châu Mĩ. Việc làm đầu tiên của Hítle sau khi lên nắm quyền là tái vũ trang nước Đức và thoát khỏi những ràng buộc quốc tế để chuẩn bị cho những hành động xâm lược. Tháng 10 - 1933 Chính phủ Đức quốc xã đã rời bỏ Hội nghị giải trừ quân bị ở Giơnevơ và sau đó tuyên bố rút khỏi Hội Quốc liên. Ngày 16 - 3 - 1935, Hítle công khai vi phạm Hoà ước Véc-xai, công bố đạo luật cưỡng bức tòng quân, thành lập 36 sư đoàn (trong lúc đó Pháp chỉ có 30 sư đoàn). Ba tháng sau, ngày 18 - 6 - 1935 Đức kí với Anh Hiệp định về hải qu ân, theo đó Đức được phép xây dựng hạm đội tàu nổi bằng 35% và Hạm đội tàu ngầm bằng 45% sức mạnh hải quân của Anh. Hiệp định này trực tiếp vi phạm Hiệp ước Vec-xai và tăng cường sức mạnh quân sự của nước Đức. Đồng thời, Hitle tìm cách bí mật thủ tiêu các chính khách phương Tây cản trở kế hoạch xâm lược của mình, như Thủ tướng Rumani Đuca, Ngoại trưởng Pháp Bác tu, nhà vua Nam Tư Alếchxanđrơ và thủ tướng Áo Đônphút. Không dừng lại ở đó, ngày 7 - 3 - 1936 Hitle ra lệnh tái chiếm vùng Rênani, công khai xé bỏ Hoà ước Vecxai, Hiệp ước Lôcácnô và tiến sát biên giới nước Pháp. Lò lửa chiến tranh nguy hiểm nhất đã xuất hiện ở châu Âu.. c) Lò lửa chiến tranh thứ hai ở châu Âu Mặc dù là nước thắng trận nhưng Italia không thoả mãn với việc phân chia thế giới theo Hoà ước Vecxai. Tham vọng của nước này là muốn mở rộng ảnh hưởng ở vùng Ban căng, chiếm đoạt các thuộc địa ở châu Phi, làm chủ vùng biển Địa Trung Hải... Để thoát ra khỏi cuộc đại khủng hoảng kinh tế 1929-1933 và xem xét lại Hệ thống Vecxai - Oasinhtơn có.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> lợi cho mình, giới cầm quyền phát xít ở Italia chủ trương quân sự hoá nền kinh tế, tăng cường chạy đua vũ trang và thực hiện chính sách bành trướng xâm lược ra bên n goài. Thất bại trong việc ký kết Hiệp ước tay tư (Italia - Anh - Đức Pháp) nhằm xem xét lại đường biên giới đã qui định ở châu Âu trong khuôn khổ Hệ thống hoà ước Vecxai tháng 6 1933, từ năm 1934 Mutxôlini ráo riết chuẩn bị kế hoạch xâm lược, thi hành đạo luật quân sự hoá đất nước. Lúc này quan hệ giữa Italia với Đức còn căng thẳng do mâu thuẫn về quyền lợi ở vùng Ban căng. Khi Đức đưa ra đạo luật cưỡng bách tòng quân (3 - 1935), Italia đã kí kết với Anh, Pháp Hiệp ước Xtrêxa (Stresa) tháng 4 - 1935 nhằm thiết lập liên minh chống Đức. Nhưng liên minh này đã nhanh chóng tan vỡ bằng việc Anh kí với Đức một hiệp ước riêng rẽ về hạn chế lực lượng hải quân (6 - 1935) và sự kiện Italia chính thức xâm lược Êtiôpia ngày 3 - 10 - 1935. Bốn ngày sau sự kiện này, ngày 7 - 10 - 1935 Hội Quốc Liên ra tuyên bố lên án Italia và thông qua nghị quyết trừng phạt bằng những biện pháp kinh tế - tài chính. Tuy nhiên, “lệnh trừng phạt chỉ làm Italia bực mình chứ không thực sự ngăn cản họ tiếp tục các chiến dịch”. Những sự kiện trên đây đã khiến Mútxôlini rời bỏ liên minh Anh, Pháp, xích lại gần hơn với nước Đức phát xít. Trong khi đó, sự bất lực của Hội Quốc liên cùng với thái độ và hành động thoả hiệp của các nước Anh, Pháp, Mỹ đã khuyến khích hành động xâm lược của phát xít Italia. Sau khi chiếm được Êtiôpia, Italia đã ký với Đức Nghị định thư tháng 10 - 1936, đánh dấu sự hình thành trục Beclin - Rôma. Bắt đầu từ đây, Đức và Italia tìm cách phối hợp và củng cố liên minh trong cuộc đối đầu với Liên Xô cũng như các đối thủ khác ở châu Âu. Cả hai nước đều đưa quân đội can thiệp trực tiếp và công nhận chính quyền phát xít Phrancô trong cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha (1936 - 1939).. Hai lò lửa chiến tranh hình thành ở châu Âu bắt đầu có mối liên hệ với lò lửa chiến tranh ở Viễn Đông. Ngày 25 - 11 1936, Đức và Nhật đã kí kết Hiệp ước chống Quốc tế cộng sản với những cam kết phối hợp các hoạt động chính trị đối ngoại và các biện pháp cần thiết để chống Liên Xô và Quốc tế cộng sản, đồng thời còn nhằm chống cả Anh, Pháp và Mĩ. Italia tham gia Hiệp ước này ngày 6 - 11 - 1937. Sự kiện đó đánh dấu Trục phát xít Béclin - Rôma - Tôkiô chính thức hình thành. Việc Italia rút ra khỏi Hội Quố c Liên ngày 3 - 12 - 1937 đã hoàn tất quá trình chuẩn bị để các nước khối Trục được tự do hành động, thực hiện kế hoạch gây chiến tranh bành trướng lãnh thổ của mình.. Lễ ký kết hiệp ước chống Quốc tế cộng sản giữa Đức, Ý và Nhật Bản (hiệp ước phe Trục)Saburo Kurusu (đại sứ Nhật tại Đức), Galeazzo Ciano (Ngoại trưởng Ý) và Adolf Hitler (Quốc trưởng Đức) 2. Con đường dẫn đến chiến tranh thế giới thứ hai . Vào cuối những năm 30 quan hệ quốc tế trở nên vô cùng phức tạp và căng thẳng. Sự chuyển hoá mâu thuẫn giữa các cường quốc tư bản chủ nghĩa đã dẫn tới sự hình thành hai khối đế quốc đối địch nhau: một là, khối Trục phát xít do Đức, Italia, Nhật Bản cầm đầu ; hai là, khối đế quốc do Anh, Pháp, Mĩ cầm đầu..

<span class='text_page_counter'>(11)</span> Trong khi khối Trục phát xít đã ráo riết chuẩn bị cho kế hoạch chiến tranh từ đầu những năm 30 thì khối đế quốc Anh, Pháp, Mĩ bắt đầu quá trình này vào những năm cuối của thập ni ên 30. Hai khối đế quốc mâu thuẫn gay gắt với nhau về vấn đề thị trường và quyền lợi nhưng đều thống nhất với nhau trong mục đích chống Liên Xô, tiêu diệt Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Điều đó được thể hiện trong chính sách thoả hiệp, dung túng của các cường quốc tư bản với chủ nghĩa phát xít nhằm chống Liên Xô và đè bẹp phong trào cách mạng thế giới. Như vậy trong quan hệ quốc tế đã diễn ra cuộc đấu tranh ngày càng căng thẳng và chằng chéo giữa ba lực lượng: Liên Xô, Khối Trục phát xít và Khối đế quốc Anh, Pháp, Mĩ. Các cuộc chiến tranh cục bộ đã lan tràn khắp từ Âu sang Á, từ Thượng Hải đến Gibranta. Chiến tranh thế giới ngày càng trở nên khó tránh khỏi. a) Cuộc chiến tranh Tây Ban Nha Cuộc chiến tranh Tây Ban Nha, bùng nổ ngày 17 - 7 - 1936, về hình thức là cuộc nội chiến giữa Chính phủ cộng hoà Tây Ban Nha với lực lượng phát xít Phrancô, nhưng về thực chất là một cuộc khủng hoảng mang tính quốc tế. Vấn đề không chỉ giới hạn trong nội bộ nền chính trị Tây Ban Nha. Đức và Italia đã trực tiếp can thiệp, đứng về phía phát xít Phrancô chống lại Chính phủ Cộng hoà với mưu đồ biến Tây Ban Nha thành một bàn đạp chiến lược cho kế hoạch bành trướng của mình ở châu Âu, châu Phi, châu Á và Đại Tây Dương. Trong bối cảnh đó, các chính phủ Anh, Pháp đã thi hành chính sách “không can thiệp” tuyên bố cấm xuất khẩu vũ khí và vật liệu chiến tranh sang Tây Ban Nha. Ngày 9 - 9 1936, “Uỷ ban về vấn đề không can thiệp” được thành lập. Mĩ không chính thức tham gia vào Uỷ ban này nhưng trên thực tế cũng duy trì lệnh cấm vận vũ khí đối với Tây Ban Nha. Trong khi không áp dụng một biện pháp cần thiết nào để ngăn chặn sự can thiệp trực tiếp của Đức và Italia ở Tây Ban Nha, chính sách “không can thiệp” của Anh, Pháp, Mĩ về thực chất là hành động thoả hiệp với các lực lượng phát xít chống nước Cộng hoà Tây Ban Nha. Hơn nữa, các công ti độc quyền của Anh, Pháp, Mĩ vẫn tiếp tục có quan hệ thương mại và tài chính với lực lượng phát xít Phrancô. Cuối cùng, các chính phủ Anh, Pháp đã công khai ủng hộ quân phiến loạn Phrancô, lực lượng đã chiếm ưu thế rõ rệt ở Tây Ban Nha vào năm 1939.. Ngày 10 - 2 - 1939, hải quân Anh đã hỗ trợ cho lực lượng phiến loạn chiếm đảo Minôca (Minorca) nằm trong quần đảo Balêric (Balearic). Ngay sau đó, chính phủ Pháp đã gửi tối hậu thư cho Chính phủ Cộng hoà Tây Ban Nha với yêu cầu giao nộp Mađrít và các vùng lãnh thổ khác cho lực lượng Phrancô. Ngày 27 - 2 - 1939, Anh và Pháp đồng thời cắt đứt quan hệ ngoại giao với Chính phủ cộng hoà Tây Ban Nha và tuyên bố công nhận chính quyền Phrancô. Liên Xô là nước đứng về phía nước Cộng hoà Tây Ban Nha trong cuộc đấu tranh chống phát xít. Mặc dù lúc đầu Liên Xô đã tham gia Uỷ ban về các vấn đề không can thiệp, nhưng sự can thiệp quân sự của Đức và Italia đã khiến Liên Xô phải hành động. Cả đất nước Xô viết tham gia phong trào ủng hộ nước Cộng hoà Tây Ban Nha: số tiền quyên góp đã lên tới 47 triệu rúp. Đồng thời, Liên Xô còn tham gia trong lực lượng tình nguyện quốc tế chiến đấu bảo vệ nước Cộng hoà đến từ 53 nước trên thế giới. Tuy vậy, do so s ánh lực lượng quá chênh lệch, cuộc chiến tranh Tây Ban Nha kết thúc với thất bại của Chính phủ Cộng hoà. Ngày 28 - 3 - 1939, lực lượng Phrancô với sự hỗ trợ của quân đội Italia đã chiếm thủ đô Mađrít. Sự sụp đổ của nền Cộng hoà Tây Ban Nha cho thấy mối đe doạ đối với nền hoà bình ở châu Âu ngày càng trở nên trầm trọng hơn. b) Hội nghị Muyních (9 - 1938).

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Hội nghị Munich. Đến năm 1938 nước Đức phát xít về căn bản đã hoàn tất việc chuẩn bị chiến tranh. Lúc này nước Đức không chỉ phục hồi mà đã trở thành một cường quốc công nghiệp đứng đầu châu Âu, đồng thời còn là một cường quốc quân sự. Tháng 3-1938, Đức tiến hành thôn tính Áo và thông qua đạo luật sáp nhập Áo vào Đức, vi phạm trắng trợn Hệ thống Hoà ước Vecxai. Hành động ngang ngược của Hitle đã không gặp phải trở ngại nào đáng kể từ phía các cường quốc tư bản phương Tây. Chính phủ Anh chỉ thị kh ông được khuyến khích Áo kháng cự, trong khi Pháp chỉ có những phản ứng yếu ớt. Sau khi chiếm Áo, Đức chuẩn bị thôn tính Tiệp Khắc, một vị trí đặc biệt quan trọng trong kế hoạch giành quyền thống trị lục địa châu Âu. Để thôn tính Tiệp Khắc, Hitle đưa ra “vấn đề người Đức ở vùng Xuyđét” (Sudete) - vùng đất ở Tây Bắc Tiệp Khắc, có khoảng 3,2 triệu người Đức cư trú. Sau những diễn biến phức tạp và căng thẳng, Hitle đưa ra yêu sách về việc cắt vùng Xuyđét ra khỏi Tiệp Khắc và khẳng định đây là yêu sách cuối cùng về lãnh thổ của y ở châu Âu. Tiếp tục chính sách thoả hiệp, các cường quốc tư bản phương Tây đã gây áp lực thúc ép Tiệp Khắc chấp nhận những yêu sách của Hítle. Điều này đã gây nên một làn sóng phản đối trong dư luận quốc tế, kể cả ở Anh, Pháp, Tiệp Khắc và Liên Xô. Liên Xô đã nhiều lần khẳng định sẵn sàng giúp đỡ Tiệp Khắc và đưa ra những biện pháp cụ thể trong Hội nghị liên tịch giữa Bộ tổng tham mưu Liên Xô, Pháp và Tiệp Khắc. Đồng thời, Liên Xô đã tập trung quân ở biên giới phía Tây và đặt quân đội trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu. Liên Xô cũng đề nghị Hội Quốc Liên th ảo luận những biện pháp để bảo vệ Tiệp Khắc, nhưng tất cả những đề nghị đó đều bị các chính phủ Anh, Pháp gạt bỏ. Ngày 29 - 9 - 1938, những người đứng đầu các chính phủ Anh, Pháp, Đức và Italia đã tham dự Hội nghị Muyních (Đức) để quyết định số phận của Tiệp Khắc. Đại biểu Tiệp Khắc không được mời tham dự, chỉ được triệu tập đến để nghe kết quả. Hiệp ước Muyních qui định Tiệp Khắc phải cắt toàn bộ vùng Xuyđét (trong vòng 10 ngày) cho Đức và phải cắt cho Ba Lan, Hunggari những vùng lãnh thổ đã được xác định trước đó (trong thời hạn 3 tháng). Trước áp lực của Anh và Pháp, chính phủ Tiệp Khắc chấp nhận Hiệp ước Muyních, theo đó, Tiệp Khắc mất đi khoảng 1/4 dân số, 1/5 lãnh thổ với nhiều công trình quân sự quan trọng. Để đổi lại, Hítle đã kí với Anh bản Tuyên bố không xâm lược lẫn nhau giữa Đức và Anh. Sau đó, ngày 6 - 12 - 1938, Hiệp định không xâm lược Pháp - Đức cũng được kí kết tại Pari. Hiệp ước Muyních là đỉnh cao nhất của chính sách thoả hiệp mà các cường quốc tư bản phương Tây thi hành trong nhiều năm nhằm tránh một cuộc chiến tranh với nước Đức phát xít và chĩa mũi nhọn chiến tranh về phía Liên Xô. “Chính sách Muyních” đã dẫn đến những hậu quả rất nặng nề đối với chính bản thân hai nước Anh và Pháp. Sự thoả hiệp đầu hàng của các nước này chỉ càng làm cho nước Đức phát xít đi xa hơn nữa trong chính sách mở rộng chiến tranh. Ngày 15 - 3 - 1939, Hítle công khai xé bỏ Hiệp ước Muyních chiếm đóng toàn bộ lãnh thổ Tiệp Khắc. Sau đó một tuần, ngày 21 - 3 Hítle đưa ra yêu.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> sách đòi Ba Lan phải trao thành phố cảng Đăng dích cho Đức. Một ngày sau quân đội Đức tràn vào chiếm vùng lãnh thổ Mêmen của Litva. Đồng thời, kế hoạch xâm lược Ba Lan cũng được chuẩn bị ráo riết.. Trong lúc này phát xít Italia cũng tăng cường hành động. Tháng 4 - 1939 Mutxôlini cho quân xâm lược Anbani. Liên minh phát xít Đức - Italia được mở rộng tới mức tối đa với việc kí kết hiệp ước mới Đức - Italia (thường được gọi là Hiệp ước Thép) theo đó nếu một bên có chiến tranh với một nước hoặc một nhóm nước khác thì bên kia sẽ tiến hành giúp đỡ ngay lập tức bằng các lực lượng hải, lục và không quân. Nguy cơ bùng nổ chiến tranh thế giới chỉ còn là gang tấc, tuy nhiên các cường quốc phương Tây vẫn tìm mọi cách để hướng cuộc chiến tranh về phía Liên Xô.. 3. Quan hệ quốc tế của Liên Xô trong thập niên 30..

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Bước vào thập niên 30 Liên Xô tiếp tục cuộc đấu tranh trong quan hệ quốc tế nhằm củng cố vị trí quốc tế của mình, đồng thời kiên trì lập trường thiết lập nền an ninh tập thể ở châu Âu và bảo vệ hoà bình thế giới. a) Cuộc đấu tranh củng cố vị trí quốc tế và nền an ninh tập thể Trong những năm 1929-1932, một chiến dịch chống Liên Xô được phát động trong các nước tư bản phương Tây. Âm mưu đánh bom cơ quan Tổng đại diện Liên Xô tại Vácxava (1930), chiến dịch chống Liên Xô ở Phần Lan (1931) kế hoạch mưu sát Đại sứ Nhật Bản tại Mátxcơva (1931), việc tên bạch vệ Goócnulốp mưu sát Tổng thống Pháp Pôn Đume (1932)... Tất cả những vụ khiêu khích đó nhằm tạo ra quan hệ quốc tế căng thẳng dẫn tới việc các nước cắt đứt quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Tháng 2 - 1930 , Giáo hoàng Pie XI đã kêu gọi tổ chức một cuộc “thập tự chinh” chống chủ nghĩa cộng sản, tập hợp các tín đồ trên thế giới “hành động tập thể” chống Liên Xô. Đồng thời các nước tư bản phương Tây khởi xướng việc bao vây kinh tế chống Liên Xô. Đặc biệt là dự án thành lập Liên bang châu Âu do ngoại trưởng Pháp Briăng (Briand) đề xướng (5 - 1930) mang tính bài Xô rõ rệt. Dự án đề xuất việc thành lập một Liên minh châu Âu bao gồm đại diện của tất cả các quốc gia châu Âu thành viên của Hội Quốc liên, loại trừ Liên Xô - quốc gia lớn nhất ở châu Âu. Bằng chính sách ngoại giao kiên quyết và khéo léo, Liên Xô đã kiên trì đấu tranh để vượt qua được tình trạng căng thẳng và phức tạp trong quan hệ quốc tế. Thời gian này, Liên Xô thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1928 1933) với những thành tựu quan trọng, tăng cường sức mạnh kinh tế và quốc phòng của đất nước. Đồng thời, các âm mưu thù địch chống Liên Xô đều bị phá vỡ. Liên Xô đã kí kết những hiệp ước không xâm lược với phần đông các nước láng giềng và một số nước tư bản châu Âu: Phần L an, Latvia, Extônia, Ba Lan (1932), Italia (1933) ; đồng thời đạt được thoả thuận gia hạn các Hiệp ước không xâm lược đã kí với Thổ Nhĩ Kì, Đức, Iran, Lítva, Apganixtan. Tham gia vào Hội nghị giải trừ quân bị ở Giênôvơ khai mạc ngày 2 - 2 - 1932 (với sự có mặt của đại diện 63 quốc gia), Liên Xô đã đưa ra một chương trình giải trừ quân bị và nêu rõ quan điểm của mình về định nghĩa khái niệm xâm lược trong quan hệ quốc tế. Hội nghị Giênôvơ không đi đến một kết quả đáng kể nào do mâu thuẫn giữa các cường q uốc tư bản phương Tây, đồng thời những đề nghị của Liên Xô cũng không được thông qua. Tuy vậy, năm 1933, Liên Xô đã tiến hành đàm phán và kí kết ba công ước về xác định khái niệm xâm lược với các nước Extônia, Látvia, Ba Lan, Rumani, Thổ Nhĩ Kì, Iran, Apganixtan, Rumani, Tiệp Khắc, Nam Tư và Lítva. Tháng 9 - 1934 Liên Xô tham gia Hội Quốc Liên và trở thành Uỷ viên thường trực Hội đồng Hội Quốc Liên. Điều đó cho thấy vị thế ngày càng được khẳng định của Liên Xô trong các vấn đề quốc tế. Tuy nhiên khi gia nhập tổ chức này Liên Xô nêu rõ quan điểm của mình trong việc không đồng ý với những quyết định trước đây cũng như một số điều khoản vi phạm chủ quyền các dân tộc của Hội Quốc Liên. Đồng thời Liên Xô đã tranh thủ điều kiện để đấu tranh cho hoà bình và nền an ninh toàn thể, ngăn ngừa nguy cơ chi ến tranh thế giới. Tháng 5 - 1935, Hiệp ước tương trợ song phương Xô - Pháp và Xô-Tiệp đã được kí kết, thể hiện những cố gắng quan trọng của Liên Xô trong việc xây nền an ninh toàn thể ở châu Âu. ở khu vực châu Á, Hiệp ước tương trợ lẫn nhau với Mông cổ (1936) và Hiệp ước không xâm lược với Trung Quốc (1937) cũng được Liên Xô kí kết nhằm tạo dựng mối quan hệ cùng tồn tại hoà bình giữa các quốc gia, đảm bảo an ninh cho vùng Viễn Đông. Khi Nhật mở rộng chiến tranh ra toàn lãnh thổ Trung Quốc (1937), Liên Xô đứng về phía Đảng cộng sản và nhân dân Trung Quốc, giúp đỡ về tinh thần và vật chất cho Trung Quốc trong cuộc kháng chiến chống Nhật (cho Trung Quốc vay 100 triệu USD năm 1938, 150 triệu USD năm 1939, nhiều phi công Liên Xô tình nguyện tham gia chiến đấu chống Nhật ở Trung Quốc). Trong thập niên 30, Liên Xô cũng giành được thắng lợi trong việc bình thường hoá quan hệ Xô - Mĩ. Gần một thập kỉ sau khi bình thường hoá quan hệ với hầu hết các nước tư bản chủ yếu, tháng 11 - 1933 Liên Xô đã đạt được thoả thuận về việc bình thường hoá quan hệ với Mĩ. Mặc dù quan hệ Xô - Mĩ còn gặp nhiều trở ngại, nhưng việc bình thường hoá quan hệ với Mĩ đánh dấu một thắng lợi lớn của nền ngoại giao Xô viết. Từ chỗ là một đế quốc tích cực và ngoan cố trong liên minh chống phá nước Nga Xô viết, cuối cùng Mĩ đã phải thoả thuận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô. b) Hiệp ước Xô - Đức không xâm lược nhau..

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Sau khi Hítle xé bỏ hiệp ước Muyních, thôn tính toàn bộ Tiệp Khắc, Liên Xô đã đề nghị triệu tập một hội nghị để bàn về vấn đề bảo vệ an ninh châu Âu, ngăn chặn chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa phát xít. Trước áp lực mạnh mẽ của dư luận trong và ngoài nước, chính phủ Anh, Pháp đã bắt đầu các cuộc đàm phán với Liên Xô từ giữa tháng 4 -1939 tại Matxcơva. Do thái độ thiếu thiện chí và chủ trương "bắt cá hai tay'' của Anh, Pháp, cuộc đàm phán không đạt được kết quả và hoàn toàn bế tắc. Trong khi đó, từ tháng 6 - 1939, cuộc đàm phán bí mật Anh - Đức đã được tiến hành ở Luân Đôn để thảo luận về việc hợp tác Anh - Đức chống Liên Xô, Trung Quốc và phân chia khu vực ảnh hưởng ở đây. Lúc này ở Viễn Đông, sau khi gây ra cuộc xung đột quân sự chống Liên Xô ở khu vực hồ Khaxan bị thất bại, ngày 12 5 - 1939 phát xít Nhật mở cuộc tấn công vào khu vực sông Khankhin - Gôn (Khalkhin-Gol) thuộc địa phận Mông Cổ, nhằm uy hiếp con đường huyết mạch của Liên Xô ở Viễn Đông và chuẩn bị cho việc mở rộng cuộc chiến chống Liên Xô sau này. Mặc dù kế hoạch của Nhật ở Khankhin - Gôn thất bại nhưng toàn bộ những sự kiện diễn ra ở Viễn Đông làm cho giới cầm quyền Anh và Pháp vẫn hy vọng về một cuộc chiến tranh chống Liên xô từ phía Nhật. Chính trong lúc này Đại sứ Anh ở Tôkiô Craigi (Craigie) đã kí với Ngoại trưởng Nhật Arita một hiệp ước (7 - 1939), theo đó Anh thừa nhận cuộc chiến tranh của Nhật ở Trung Quốc và tuyên bố không can thiệp vào công việc của Nhật ở đây. Tình hình phức tạp nói trên ở cả phương Tây và phương Đông khiến cho mọi cố gắng kiên trì của Liên Xô nhằm đạt tới một thoả thuận với Anh và Pháp trong cuộc đấu tranh chống sự xâm lược của chủ nghĩa phát xít đều thất bại. Trong bối cảnh đó, Liên Xô buộc phải có những giải pháp kiên quyết để tự bảo vệ nền an ninh quốc gia. Ngay từ tháng 5 - 1939 với ý đồ kéo dài thời gian để xâm lược châu Âu trước, Chính quyền Đức đã thăm dò Liên Xô về khả năng kí kết một hiệp ước không xâm lược nhau Xô - Đức. Lúc đầu Liên Xô đã bác bỏ đề nghị đó, nhưng sự tan vỡ không thể cứu vãn nổi của cuộc đàm phán Xô - Anh - Pháp đã khiến Liên Xô thay đổi ý định và tiếp nhận đề nghị của Đức. Ngày 23 - 8 - 1939, Hiệp ước không xâm lược nhau Xô - Đức đã được kí kết, theo đó Liên Xô và Đức cam kết không tấn công nhau, không gia nhập một liên minh nào thù địch với một trong hai nước kí hiệp ước, không giúp đỡ một nước thứ ba nào chống lại nước kia... Sau đó một ngày, Liên Xô và Đức còn kí thêm một Nghị định thư bí mật phân chia phạm vi ảnh hưởng ở Đông Âu.. Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô Molotov ký Hiệp ước, với Stalin và Ribbentrop đứng sau lưng..

<span class='text_page_counter'>(16)</span> Việc kí kết Hiệp ước Xô - Đức không xâm lược nhau đã làm thất bại chính sách hai mặt của các nước phương Tây, phá tan âm mưu thành lập mặt trận thống nhất chống Liên Xô do các nước đế quốc dựng lên ở Muyních. Đồng thời sự kiện này cũng phá vỡ âm mưu của Nhật muốn dựa vào sự ủng hộ của Đức để xâm lược Liên Xô. Một tuần sau đó, đêm 30 rạng ngày 31 - 8 - 1939, Đức gửi tới Ba Lan một bản tối hậu thư về vấn đề Đăng dích và hành lang Ba Lan. Chính phủ Ba Lan bác bỏ những yêu sách của Đức. Rạng sáng ngày 1 - 9 - 1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Từ những sự kiện đã nêu ở trên, có thể đi đến những tổng kết sau đây: - Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ trước hết là do những mâu thuẫn về quyền lợi, về lãnh thổ hết sức gay gắt giữa các nước đế quốc với nhau. Sự phân chia thế giới theo Hệ thống Vécxai - Oasinhtơn chứa đựng những mâu thuẫn không thể dung hoà được giữa các nước đế quốc. Những mâu thuẫn đó đã dẫn tới một cuộc chiến tranh mới giữa các nước đế quốc để phân chia lại thế giới. - Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933 đã làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn của chủ nghĩa đế quốc, dẫn tới việc lên cầm quyền của các thế lực phát xít ở Đức, Italia và Nhật Bản. Chủ nghĩa phát xít ở ba nước nêu trên là thủ phạm gây ra Chiến tranh thế giới thứ hai. - Tuy nhiên, chính sách hai mặt của các cường quốc phương Tây đã tạo điều kiện cho phe phát xít gây chiến. Do vậy, khác với Chiến tranh thế giới thứ nhất, Chiến tranh thế giới thứ hai còn gắn liền với mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc với chủ nghĩa xã hội và âm mưu tiêu diệt nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Khối các nước đế quốc mặc dù có mâu thuẫn với khối phát xít nhưng đều thống nhất với nhau trong âm mưu chống Liên Xô và phong trào cách mạng thế giới. Chiến tranh được bắt đầu từ cuộc chiến giữa hai khối đế quốc nhằm tranh giành lãnh thổ và quyền thống trị thế giới. Tuy vậy, từ tháng 6 - 1941, khi phát xít Đức tập trung lực lượng tấn công Liên Xô, nhằm tiêu diệt chế độ xã hội chủ nghĩa, thực hiện tham vọng chinh phục toàn cầu, tính chất của cuộc chiến tranh đã thay đổi căn bản. Đó là cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của Liên Xô và các dân tộc yêu chuộng hoà bình trên thế giới nhằm tiêu diệt chủ nghĩa phát xít, giải phóng nhân loại khỏi những thảm hoạ của chế độ phát xít man rợ.. . Hoàn cảnh : -Tháng 3/1938 : Đức thôn tính Áo -Tiếp đó Hít-le gây ra vụ Xuyđét nhằm thôn tính Tiệp Khắc. -Liên Xô kiên quyết giúp Tiệp Khắc. -Anh, Pháp yêu cầu chính phủ Tiệp Khắc nhượng bộ Đức. =>29/9/1938: Hội nghị Muy-ních được triệu tập gồm 4 nước: Anh, Pháp, Đức, I-ta-li-a. * Nội dung: -Anh, Pháp lí hiệp định trao vùng Xuydet cho Đức -Đức cam kết chấm dứt thôn tính ở Châu Âu * Đánh giá: - Hội nghị Muy-ních là đỉnh cao của chính sách nhượng bộ phát xít của Anh, Pháp, Mĩ . Thể hiện âm mưu thống nhất của chủ nghĩa đế quốc trong việc tiêu diệt Liên Xô. 2..Ngày 1-9-1939, không tuyên chiến, quân Đức tràn vào Ba Lan. . Nước Ba Lan bị Đức thôn tính. Trong khi đó, một cuộc “chiến tranh kì quặc” đã diễn ra ở phía Tây nước Đức, .Gọi là chiến tranh kì quặc là vì Anh, pháp tuyên chiến với Đức, nhưng không "chiến", cụ thể: Liên quân Pháp, Anh dàn trận ở Bắc Pháp dọc theo biên giới Đức, nhưng không tấn công Đức và cũng không có một hành động quân sự nào để đỡ đòn cho Ba Lan. Hiện tượng ''tuyên'' mà không ''chiến'' (được các nhà báo Mĩ gọi là ''cuộc chiến tranh kì quặc'', người Pháp gọi là cuộc chiến tranh “buồn cười”, còn người Đức gọi là chiến tranh ''ngồi'') kéo dài suốt trong 8 tháng (từ 9-1939 đến 41940). Trong suốt thời gian này, quân đội hai bên hầu như chỉ ngồi trong chiến lũy nhìn sang nhau, thỉnh thoảng quân Pháp mở những cuộc tiến công nhỏ có tính chất “tượng trưng” rồi lại trở về vị trí cũ. 3.+Thứ nhất Sở dĩ Pháp nhanh chóng bại trận là vì Pháp vẫn còn ảo tưởng về một sự thỏa hiệp với Hítle. Đồng thời cũng do Bộ tổng tư lệnh liên quân Anh-Pháp, đứng đầu là tướng Pháp Gamơlanh, đã quyết định áp dụng chiến thuật phòng ngự, mong dựa vào phòng tuyến Maginô kiên cố để đánh bại quân địch.Cuộc ''Chiến tranh kì quặc'' đã giúp cho nước Đức phát xít mạnh lên. Lợi dụng thời gian hưu chiến suốt mùa đông 1939 – 1940, Đức phát triển bộ binh lên tới 136 sư đoàn, xe tăng - 10.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> sư đoàn, máy bay - 4 vạn chiếc. Thực lực của Đức khi đó tăng lên chừng gấp đôi thời kì trước khi đánh Ba Lan. Trong khi đó thì các chính phủ Anh, Pháp do theo đuổi những âm mưu chống Liên Xô đã không nghĩ đến củng cố sự phòng của đất nước. Trong những tháng ấy, sản xuất vật liệu chiến tranh của Anh và Pháp không tăng; một phần vũ khí và quân trang làm ra lại gửi sang Phần Lan. Lập trường mù quáng chống Liên Xô làm cho giới thống trị các nước Anh và Pháp trở nên thiển cận. Mặc dầu nguy cơ tấn công của Đức vào các nước phương Tây ngày càng rõ và họ biết điều đó nhưng giới thống trị Anh, Pháp vẫn không thay đổi chính sách; họ vẫn tiếp tục hi vọng rằng “Hítle sẽ quyết định hướng đội quân về phía Đông chống Nga”. Tướng Đờ Gôn đã viết trong hồi kí: ''Phải nói rằng một số giới muốn nhìn kẻ thù ở Xtalin hơn là Hítle. Họ lo lắng đến những biện pháp để đánh nước Nga – hoặc giúp Phần Lan, hoặc ném bom Bacu hoặc đổ bộ ở Xtambun nhiều hơn cách làm sao để thắng đế chế Đức''. Mùa xuân năm 1940, Quốc hội Pháp và Anh đã nhận ra sai lầm trong đường lối mềm yếu này. Họ quyết định đưa ra những nhân vật cứng rắn lên cầm đầu chính phủ: Râynô lập chính phủ mới ở Pháp (tháng 3) và Sơcsin trở thành Thủ tướng Anh (tháng 5), nhưng đó là sự thay đổi quá muộn. + Lí do thứ hai để Pháp nhanh chóng thất bại là do nội bộ chính phủ Pháp không thống nhất và bất đồng. Chính phủ Pháp chia làm 2 nhóm: một nhóm do Râynô cầm đầu sẵn sàng giao nước Pháp cho đế quốc Anh, một nhóm do Pêtanh cầm đầu muốn đầu hàng phát xít Đức và cho rằng ''thà làm một tỉnh quốc xã còn hơn là một xứ tự trị của Anh''. Không có một nhân vật nào trong Chính phủ chấp nhận một chương trình đấu tranh cho tự do và độc lập của nước Pháp như đề nghị của Đảng Cộng sản Pháp. Đa số thành viên trong chính phủ Pháp chấp nhận sự đầu hàng. Ngày 17-6, Râynô từ chức, Pêtanh lên cầm đầu chính phủ xin hàng Đức, Italia với những điều kiện nhục nhã. Bài 17: CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI (1939 – 1945) I. CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI 1. Các nước phát xít đẩy mạnh chính sách xâm lược (1931 – 1937) - Đầu những năm 30, các nước phát xít Đức, I-ta-li-a và Nhật Bản liên kết thành liên minh phát xít (Trục Béc-lin Rô-ma - Tô-ki-ô), tăng cường các hoạt động quân sự và gây chiến tranh xâm lược ở nhiều khu vực khác nhau trên thế giới: + Nhật xâm lược Trung Quốc; + I-ta-li-a xâm lược Ê-ti-ô-pi-a (1935), cùng với Đức tham chiến ở Tây Ban Nha (1936 – 1939), hỗ trợ lực lượng phát xít Phran-cô đánh bại chính phủ Cộng hoà. +Đức xé bỏ hoà ước Vec-xai, hướng tới mục tiêu lập một nước “Đại Đức” bao gồm tất cả các lãnh thổ có dân Đức sinh sống ở Châu Âu. - Liên Xô chủ trương liên kết với Anh, Pháp để chống phát xít và nguy cơ chiến tranh nhưng bị từ chối. - Anh, Pháp, Mỹ đều muốn giữ nguyên trật tự thế giới có lợi cho mình. Anh, Pháp thực hiện chính sách nhượng bộ phát xít để đẩy chiến tranh về phía Liên Xô. Mĩ với “Đạo luật trung lập (1935) không can thiệp vào các sự kiện bên ngoài châu Mĩ. - Các nước phát xít đã lợi dụng tình hình đó để thực hiện mục tiêu gây chiến tranh xâm lược của mình..

<span class='text_page_counter'>(18)</span> Hội nghị Munich 2. Từ Hội nghị Muy-ních đến chiến tranh thế giới . - Tháng 03/1938, Đức thôn tính Áo, sau đó gây ra vụ Xuy-đét nhằm thôn tính Tiệp Khắc - Liên Xô sẵn sàng giúp Tiệp Khắc chống xâm lược. Anh, Pháp tiếp tục chính sách thoả hiệp, yêu cầu chính phủ Tiệp Khắc nhượng bộ Đức. - Ngày 29/09/1938, Hội nghị Muy-ních được triệu tập với sự tham gia của Anh, Pháp, Đức và I-ta-li-a. Anh, Pháp trao vùng Xuy-đét của Tiệp Khắc cho Đức để đổi lấy việc Hít-le hứa chấm dứt mọi cuộc thôn tính ở Châu Âu. * Ý nghĩa: -Hội nghị Muy-ních là đỉnh cao của chính sách nhượng bộ phát xít nhằm tiêu diệt Liên Xô của Mĩ – Anh. -Thể hiện âm mưu thống nhất của chủ nghĩa đế quốc (kể cả Anh - Pháp - Mĩ và Đức - Italia - Nhật Bản) trong việc tiêu diệt Liên Xô. * Sau hội nghị Muy-ních: -Đức đưa quân thôn tính toàn bộ Tiệp Khắc (3/1939) - Tiếp đó, Đức gây hấn và chuẩn bị tấn công Ba Lan. - Ngày 23/8/1939 Đức ký với Liên Xô “Hiệp ước Xô - Đức không xâm lược nhau” -Như vậy, Đức đã phản bội lại hiệp định Muy-ních, thực hiện mưu đồ thôn tính châu Âu trước rồi mới dốc toàn lực đánh Liên Xô..

<span class='text_page_counter'>(19)</span> Chiến trường Châu Âu và Bắc Phi II. CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI BÙNG NỔ VÀ LAN RỘNG Ở CHÂU ÂU (Từ tháng 09/1939 đến tháng 06/1941). 1. Phát xít Đức tấn công Ba Lan và xâm chiếm Châu Âu (từ tháng 09/1939 đến tháng 09/1940) - Ngày 01/09/1939, Đức tấn công Ba Lan. Anh, Pháp tuyên chiến với Đức. Chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu. - Tháng 04/1940, Đức tấn công sang phía Tây, chiếm Đan Mạch, Na-uy, Bỉ, Phần Lan, Lúc-xăm-bua và Pháp. Tấn “thảm kịch” nước Pháp “Quân Đức tiến vào Pari”: Sau khi chọc thủng phòng tuyến Maginô ở miền Bắc nước Pháp, ngày 05/6/1940, quân Đức tiến về phía Pari như bão táp. Chính phủ Pháp tuyên bố “bỏ ngỏ” thủ đô và chạy về Boóc-đo, một bộ phận do tướng Đờ Gôn cầm đầu bỏ đất Pháp ra nước ngoài, dựa vào Anh, Mĩ tiến hành cuộc kháng chiến chống Đức. Bộ phận còn lại do Pêtanh đứng ra lập chính phủ mới, ngày 22/6/1940 kí với Đức hiệp ước đầu hàng nhục nhã (Pháp bị tước vũ trang, hơn 3/4 lãnh thổ Pháp bị Đức chiếm đóng và Pháp phải nuôi toàn bộ quân đội chiếm đóng Đức). - Tháng 7- 1940 kế hoạch tấn công nước Anh không thực hiện được 2. Phe phát xít bành trướng ở Đông Nam Âu (từ tháng 09/1940 đến tháng 06/1941)..

<span class='text_page_counter'>(20)</span> - Tháng 9-1940, Hiệp ước Tam cường Đức –Ý – Nhật ký tại Béc –lin qui định trợ giúp lẫn nhau và công khai phân chia thế giới . - Tháng 10-1940, Hít-le thôn tính các nước Đông và Nam Âu: Ru-ma-ni, Hung-ga-ri, Bun-ga-ri... bằng vũ lực; Đức và Ý thôn tính Nam Tư và Hy Lạp. - Hè 1941 Đức thống trị phần lớn Châu Âu .. Thời gian. Chiến sự. Từ 01/9/1939 29/9/1939. đến. ngày Đức tấn công Ba Lan. Từ tháng 9/1939 đến tháng “Chiến tranh kỳ quặc” 4/1939. Kết quả Ba Lan bị Đức thôn tính.. Tạo điều kiện để phát xít Đức phát triển mạnh lực lượng -Đan Mạch, Nauy, Bỉ, Hà Lan, Lúcxăm-bua bị Đức thôn tính.. Từ tháng 4/1940 đến tháng Đức tấn công Bắc Âu và Tây -Pháp-đầu hàng Đức. Kế hoạch tấn 9/1940 Âu công nước Anh không thực hiện được Từ tháng 10/1940 đến tháng Đức tấn công Đông và Nam Ru-ma-ni, Hung-ga-ri, Bun-ga-ri, 6/1941 Âu Nam Tư, Hi Lạp bị thôn tính. * Nguyên nhân : +Nguyên nhân sâu xa: -Tác động của quy luật phát triển không đều về kinh tế và chính trị giữa các nước tư bản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa,so sánh lực lượng trong thế giới tư bản thay đổi căn bản. -Việc tổ chức và phân chia thế giới theo hệ thống Véc-xai - Oa-sinh-tơn không còn phù hợp nữa. -Đưa đến một cuộc chiến tranh mới để phân chia lại thế giới. +Nguyên nhân trực tiếp: cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1932 làm những mâu thuẫn trên thêm sâu sắc dẫn tới việc lên cầm quyền của chủ nghĩa phát xít với ý đồ gây chiến tranh để phân chia lại thế giới. *Thủ phạm gây chiến là phát xít Đức, Nhật Bản Italia. Nhưng các cường quốc phương Tây lại dung túng, nhượng bộ, tạo điều kiện cho phát xít gây ra cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai tàn sát nhân loại. *Tính chất của Chiến tranh thế giới thứ hai trong giai đoạn đầu là chiến tranh để quốc, xâm lược, phi nghĩa. Sự bành trướng của phát xít Đức ở châu Âu đã chà đạp lên quyền độc lập, tự chủ thiêng liêng của các dân tộc, đã đẩy hàng triệu người dân vô tội vào sự chết chóc... cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1932 làm những mâu thuẫn trên thêm sâu sắc dẫn tới việc lên cầm quyền của chủ nghĩa phát xít ở một số nước với ý đồ gây chiến tranh để phân chia lại thế giới..

<span class='text_page_counter'>(21)</span> III. CHIẾN TRANH LAN RỘNG KHẮP THẾ GIỚI (Từ tháng 06/1941 đến tháng 11/1942) 1. Phát xít Đức tấn công Liên Xô. Chiến sự ở Bắc Phi. * Mặt trận Xô - Đức: - Sáng 22/06/1941, Đức tiến hành “chiến tranh chớp nhoáng” tấn công Liên Xô. Ban đầu, do có ưu thế về vũ khí và kinh nghiệm tác chiến, quân Đức tiến sâu vào lãnh thổ Liên Xô. -Rạng sáng ngày 22/6/1941, Đức tấn công Liên Xô . -Đức đã huy động 190 sư đoàn với 5,5 triệu quân, 3712 xe tăng, 4950 máy bay, -Chia làm 3 đạo quân, đồng loạt tấn công trên suốt dọc tuyến biên giới phía tây Liên Xô:đạo quân phía bắc bao vây Lê-nin-grát, đạo quân trung tâm tiến tới ngoại vi thủ đô Matxcơva, đạo quân phía nam chiếm Ki-ép và Ucraina. - Nhân dân Liên Xô kiên quyết chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Tháng 12-1941, Hồng quân Liên Xô do tướng Giu-cốp chỉ huy đã đẩy lùi quân Đức. Chiến thắng Mát-xcơ-va đã làm phá sản chiến lược “chiến tranh chớp nhoáng” của Hít-le. - Cuối năm 1942, Đức tấn công Xta-lin-grát -“nút sống” của Liên Xô- nhưng không chiếm được. Quân đội Liên xô diễu binh trong lễ kỷ niệm lần thứ 10. * Mặt trận Bắc Phi: - Tháng 09/1940, I-ta-li-a tấn công Ai Cập. - Tháng 10/1942, liên quân Anh-Mĩ giành thắng lợi trong trận En A-la-men, và chuyển sang phản công trên toàn mặt trận . 2. Chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ . - Tháng 09/1940, Nhật kéo vào Đông Dương. - Ngày 07/12/1941, Nhật bất ngờ tấn công Trân Châu Cảng – căn cứ hải quân chủ yếu của Mĩ ở Thái Bình Dương. Mĩ bị thiệt hại nặng nề. Chiến tranh lan rộng toàn thế giới. - Nhật tấn công vào Đông Nam Á và Thái Bình Dương. Ngày 7/12/1941, vào 7 giờ 55 phút giờ địa phương, các máy bay trên tầu sân bay Nhật cất cánh oanh tạc dữ dội các tầu chiến và sân bay Mĩ ở cảng Trân Châu. Tham gia trận tập kích này còn có 12 tầu ngầm của Nhật. Cuộc tập kích bất ngờ và dữ dội của hạm đội Nhật đã gây cho hạm đội Mĩ những tổn thất nặng nề chưa từng có trong lịch sử hải quân Mĩ (5 tầu chủ lực bị đánh chìm, 19 tàu chiến và 177 máy bay bị tiêu diệt, hơn 3000 binh lính và sĩ quan Mĩ bị thiệt mạng. Tới lúc đóm Mĩ đã tuyên chiến với Đức, Italia, Nhật và chiến tranh Thái Bình Dương chính thức bùng nổ. Chiến tranh thế giới thứ hai đã làn rộng khắp thế giới. 3. Khối Đồng minh chống phát xít hình thành . - Hành động xâm lược của phe phát xít trên toàn thế giới đã thúc đẩy các quốc gia cùng phối hợp với nhau trong một liên minh chống phát xít..

<span class='text_page_counter'>(22)</span> - Việc Liên Xô tham chiến làm thay đổi căn bản cục diện chính trị và quân sự của cuộc chiến, cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào kháng chiến của nhân dân các nước bị phát xít chiếm đóng. - Anh, Mĩ thay đổi thái độ, bắt tay cùng Liên Xô chống chủ nghĩa phát xít. - Ngày 01/01/1942, tại Oa-sinh-tơn , 26 quốc gia, đứng đầu là Liên Xô, Mĩ, Anh đã ra “Tuyên ngôn Liên hiệp quốc” cam kết cùng nhau chống phát xít với toàn bộ lực lượng của mình . Khối Đồng minh chống phát xít được thành lập. Ý nghĩa: Việc Liên Xô tham chiến và sự ra đời của khối Đồng minh chống phát xít làm cho tính chất của Chiến tranh thế giới thứ hai thay đổi, trở thành một cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ hòa bình nhân loại. IV. QUÂN ĐỒNG MINH CHUYỂN SANG PHẢN CÔNG. CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI KẾT THÚC (Từ tháng 11/1942 đến tháng 08/1945) 1. Quân Đồng minh phản công (từ tháng 11/1942 đến tháng 6/1944) * Mặt trận Xô – Đức : + Ở trận phản công Xta-lin-grát (từ tháng 11/1942 đến tháng 02/1943), Hồng quân Liên Xô đã tấn công tiêu diệt, bắt sống toàn bộ đội quân tinh nhuệ của Đức gồm 33 vạn người do thống chế Pao-lút chỉ huy. Từ đây, Liên Xô và phe Đồng minh chuyển sang tấn công trên các mặt trận. Chiến thắng Xtalingrát đã đánh dấu bước ngoặt căn bản của chiến tranh thế giới, buộc phát xít phải chuyển từ tấn công sang phòng ngữ. Đồng thời bắt đầu tù đây, Liên Xô và phe Đồng minh chuyển sang tấn công đồng loạt trên các Mặt trận. + Cuối tháng 08/1943, Hồng quân đã bẻ gãy cuộc phản công của quân Đức tại vòng cung Cuốc-xcơ. Tháng 06/1944. phần lớn lãnh thổ Liên Xô được giải phóng. * Ở Mặt trận Bắc Phi: Từ tháng 3 đến tháng 5/1943, liên quân Mĩ - Anh phản công quét sạch quân Đức - Italia khỏi châu Phi. Chiến sự ở châu Phi chấm dứt. * Ở Italia: Tháng 7/1943 đến tháng 5/1945, liên quân Mĩ - Anh tấn công truy kích quân phát xít, làm cho chủ nghĩa phát xít Italia bị sụp đổ, phát xít Đức phải khuất phục. * Ở Thái Bình Dương: Sau chiến thắng quân Nhật trong trận Gua-đan-ca-nan (1/1943) Mĩ phản công đánh chiếm các đảo ở Thái Bình Dương. 2. Phát xít Đức bị tiêu diệt. Nhật Bản đầu hàng. Chiến tranh kết thúc. a. Phát xít Đức bị tiêu diệt . - Sau khi giải phóng các nước Trung và Đông Âu (1944), tháng 1/1945, Hồng quân Liên Xô mở cuộc tấn công Đức ở Mặt trận phía Đông, tiến quân vào giải phóng các nước ở Trung và Đông Âu, tiến sát biên giới nước Đức. - Tháng 2/1945, Liên Xô tổ chức hội nghị Ianta gồm 3 nước Liên Xô, Mĩ, Anh bàn về việc tổ chức lại thế giới sau chiến tranh. -Hè 1944, Mĩ, Anh mở Mặt trận thứ hai ở Tây Âu bằng cuộc đổ bộ tại Noóc-măng-đi (miền Bắc Pháp) tiến vào giải phóng Pháp, Bỉ, Hà Lan, chuẩn bị tấn công Đức..

<span class='text_page_counter'>(23)</span> - Từ tháng 02 đến tháng 04/1945, Liên Xô tấn công Béc-lin, đánh bại hơn 1 triệu quân Đức. - Ngày 30/04, lá cờ đỏ búa liềm được cắm trên nóc toà nhà Quốc hội Đức. Ngày 09/05/1945, nước Đức kí văn bản đầu hàng không điều kiện. Chiến tranh chấm dứt ở Châu Âu. Hồng quân Liên Xô cắm cờ chiến thắng trên nóc tòa nhà Quốc hội Đức ngày 9/5/1945.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> Đức đầu hàng b. Nhật bị tiêu diệt - Mặt trận Thái Bình Dương, từ năm 1944, liên quân Mĩ, Anh tấn công đánh chiếm Miến Điện và quần đảo Phi-líppin. - Ngày 06/08-1945, Mĩ ném quả bom nguyên tử xuống Hi-rô-si-ma làm 8 vạn người thiệt mạng. Ngày 08/08, Liên Xô tuyên chiến với Nhật và tấn công đạo quân Quan Đông gồm 70 vạn quân Nhật ở Mãn Châu. Ngày 09/08, Mĩ ném tiếp quả bom nguyên tử thứ hai huỷ diệt thành phố Na-ga-da-ki, giết hại 2 vạn người. - Ngày 15/08, Nhật Bản chấp nhận đầu hàng không điều kiện. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Về vai trò của Liên Xô, Mĩ, Anh trong việc tiêu diệt phát xít Nhật (xét phạm vi thời gian 1944 - 1945): Liên Xô, Mĩ, Anh đều là lực lượng trụ cột, giữ vai trò quyết định trong việc tiêu diệt chủ nghĩa phát xít Nhật. Cuộc tấn công của Mĩ, Anh ở khu vực chiếm đóng của Nhật ở Đông Nam Á đã thu hẹp dần thế lực của phát xít Nhật. Việc quân Mĩ uy hiếp, đánh phá các thành phố lớn của Nhật bằng không quân, đặc biệt việc Mĩ ném 2 quả bom nguyên tử xuống Nhật Bản đã có tác dụng lớn trong việc phá hủy lực lượng phát xít Nhật cả về vật chất lẫn tinh thần. Tuy nhiên cũng không thể phủ nhận việc Mĩ ném 2 quả bom nguyên tử xuống Nhật Bản là một tội ác, reo rắc thảm họa chết chóc kinh hoàng cho nhân dân Nhật Bản..

<span class='text_page_counter'>(25)</span> Nhật đầu hàng V. KẾT CỤC CỦA CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI..

<span class='text_page_counter'>(26)</span> - Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc với sự sụp đổ hoàn toàn của phát xít Đức, I-ta-li-a, Nhật. - Thắng lợi vĩ đại thuộc về các dân tộc trên thế giới đã kiên cường chiến đấu chống chủ nghĩa phát xít. - Liên Xô, Mĩ, Anh là lực lượng trụ cột, giữ vai trò quyết định trong việc tiêu diệt chủ nghĩa phát xít. - Hơn 70 quốc gia với 1700 triệu người đã bị lôi cuốn vào vòng chiến, khoảng 60 triệu người chết, 90 triệu người bị tàn phế, thiệt hại vật chất 4000 tỉ đô-la.. - Chiến tranh kết thúc đã dẫn đến những biến đổi căn bản của tình hình thế giới.

<span class='text_page_counter'>(27)</span>

×