Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

29070820

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (44.68 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Nguyễn Trãi đã sống một cuộc đời mà cả hạnh phúc lẫn thương đau đều được đẩy đến tột cùng. Tập thơ
"Quốc âm thi tập" của ông đã giúp người đọc khai mở nhiều phần sâu kín trong tâm hồn người thi sĩ bất hạnh
vào loại bậc nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam.Trong những lời thơ của Bảo kính cảnh giới, bài 43 có
phần luyến láy du dương, có chút vui điểm vào cuộc đời đầy u uất của thi nhân Nguyễn Trãi. Bài thơ là bức
tranh phong cảnh mùa hè độc đáo nhưng thấp thoáng là niềm tâm sự của tác giả.


Đặt cho bài Bảo kính cảnh giới số 43, trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, cái tựa Cảnh ngày hè kể
cũng phải. Phần lớn thơ thuộc chùm Bảo kính cảnh giới vẫn nghiêng về những gương báu tự răn mình, đúng
như chủ đề chung của cả chùm. Trong khi đó, bài 43 này, dù khơng phải khơng có cái ý răn mình, nhưng lại
nghiêng nhiều về tức cảnh. Tồn thi phẩm là tâm tình nồng hậu của ức Trai trước cảnh tượng hưng thịnh của
ngày hè. Dù được viết cách nay đã hơn sáu thế kỉ, nhiều ngôn từ đã trở nên xưa xa đối với người hiện đại,
thậm chí kèm theo ln phải có cả một bản chú thích lê thê đến gần 20 mục, nhưng Cảnh ngày hè vẫn dư sức
vượt qua khoảng cách thời gian dằng dặc, vượt qua rào cản ngôn ngữ rậm rịt để đến được với người đọc bây
giờ. Điều gì đã khiến cho bài thơ có được sức sống này? Sự tài hoa của ngòi bút chăng? vẻ tinh tế của tâm
hồn chăng? Tầm vóc lớn lao của một tâm lịng chàng? Có lẽ khơng riêng một yếu tố nào, mà là sự kết tinh của
tất cả thành một chỉnh thể thi ca sống động, một kiến trúc ngôn từ cô đúc dư van


Bài thơ lại mở đầu bằng một câu thơ thất luật, ngắt nhịp tự do với vẻ an nhàn, êm đềm đến bắt ngờ :
Rồi hóng mát thưở ngày trường


Khởi hứng bằng tâm thế ung dung , tự tại của vị hiền triết , lời thơ không chỉ phá cách trong hình thức mà cịn
là phần đề độc đáo. Nguyễn Trãi đã vào đề chỉ với một câu lục ngôn được ngắt nhịp 1/2/3 chậm rãi, tạo cảm
giác thư thái ngân nga theo một ngày dài.Từ "rồi" được ngắt thành một nhịp riêng biệt như nốt nhấn cho vẻ
nhàn nhã , thư thái của bậc trung thần. Nhưng trong một xã hội đã bị suy yếu, trở về ở ẩn với cuộc sống "rồi",
nhà thơ phải dành “hóng mát” cả 'ngày trường" để vơi đi một tâm sự, một gánh nặng đang đè lên vai mình. Cả
câu thơ thấp thống một tâm sự thầm kín, một nụ cười chua chát, bất đắc chí.Việc đặt thanh bằng ở cuối câu
khiến lời thơ như một tiếng thở dài nhưng khơng hề sầu thảm, mà có gì đó ln sẵn sàng rộng mở , đón nhận
thiên nhiên, cuộc sống.Bởi cũng như Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông cũng hiểu được giá trị sâu ẩn của " nơi vắng
vẻ", cũng tìm được cái "phong lưu" cho mình giữa thiên nhiên thơ mộng:


Hòe lục đùn đùn tán rợp giương


Thạch lựu hiên cịn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương


Trong con mắt của thi nhân,thiên nhiên như một liều thuốc diệu kì xua đi nhưng muộn phiền vương vấn trong
tâm hồn. Để rồi khi mở lịng mình đón nhận là cả một bức tranh q tươi khỏe , hài hòa và tràn đấy sức sống
ngay trong giây phút cuối hạ.Với việc sử dụng các tính từ chỉ màu sắc, kết hợp cùng cá động từ mạnh đã tạo
nên một sữ thay đổi lớn trong cảm xúc của tác giả.Từ tiếng lòng " bất đắc chí " , tâm hồn nhà thơ trở nên yêu
đời với những phút giây giao hòa với thên nhiên , với nhũng màu sức , hương thơm đầy sức sống.Việc lựa
chọn thời gian nghệ thuật cũng như cách thức miêu tả thiên nhiên hẳn không phải là chuyện ngẫu nhiên. Lá
hoè ngả sang màu lục, um tùm dồn lại thành từng khối lá xanh, toả rộng, che rợp cả mặt sân. Hoa lựu khơng
cịn nhạt mà rực rỡ như những chùm lửa đỏ. Cả sen hồng trong ao cũng ngào ngạt tỏa hương , dâng lên cho
đời. Sau này, Nguyễn Du cũng dùng hoa lựu để nói cái oi bức, rực nóng của mùa hè :


Dưới trăng quyên đã gọi hè,


Đầu tường lửa lựu lập loè đơm bông


Mùa hè đã đi những bước cùng buổi chiều tịch dương nắng tắt nhưng sự sống thì có sức nội năng có cái gì
thơi thúc bên trong dường như không kiềm lại được cứ "đùn đùn" "phun trương" ra tất cả. Cảnh vật được nhân
hóa một cách đầy thú vị đã gửi kèm theo bao cảm xúc , lúc dịu nhẹ , lúc bừng bừng trào dâng , đã gợi lên một
tâm hồn tinh tế , yêu thiên nhiên , cuộc sống của nhà thơ. Chính tâm hồn ấy đã giúp Nguyễn Trãi ghi lại một
bức tranh thiên nhiên vừa có hình , vừa có hồn lại ngợp sắc hương.Hài hoà cùng thiên nhiên là cuộc sống sinh
hoạt thường nhật của người lao động :


Lao xao chợ cá làng ngư phủ


Nhà thơ lắng nghe nhịp sống đời thường ấy với bao niềm vui. Hàm ý của câu thơ dồn cả vào cái âm thanh của
chợ cá. “Lao xao” là từ láy tượng thanh gợi tả sự ồn ào, nhộn nhịp.Sự náo nhiệt của chợ cá gợi lên sự liên
tưởng về cuộc sống no ấm thanh bình của người dân. Bởi chợ cá ở đây rất có thể chỉ là một góc chợ quê, mà
âm thanh vẫn rộn ràng náo nhiệt vô cùng.Điểm vào cái không gian ấy là tiếng ve kêu ồn ã , là tiếng chợ cá


nhộn nhịp như đang trút hết mình cho phút chiều tà:


Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

:" Bui một tấc lòng ưu ái cũ / Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông'' của ông vaanc hưa lúc nào phai mờ. Ngay
cả khi tình u thiên nhiên đang bung trào thì tấm lịng ấy vẫn rộn nhịp , vẫn khiến ông cánh cánh , khơng n :


Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp địi phương


Một tấc lịng ái ưu ln chỉ chực dâng lên cùng sóng nước. Câu thơ gắn với một điển tích. Ở Trung Quốc thời
cổ đại có một triều đại lí tưởng (thực chất là một cộng đồng người nguyên thuỷ sống theo bộ tộc) được đời đời
truyền tụng như là một hình mẫu đẹp - thời vua Nghiêu Thuấn. Vua Thuấn có cây đàn (gọi là Ngu cầm). Vua
thường hay dạo khúc Nam phong trong đó có câu "Nam phong chi thì hề khả dĩ phụ ngơ dân chi tài hề" nghĩa
là "gió nam thuận thì có thể làm cho dân ta thêm nhiều của". Mượn một điển tích, Nguyễn Trãi đã khơng giấu
được sự vui mừng khi thấy dân chúng khắp nơi đang được đủ đầy no ấm. Câu thơ cuối cùng tương ứng với
câu đầu, vượt ra khỏi luật Đường. Nhịp thơ 3/3 ngắn gọn, dứt khoát, thể hiện ước vọng chân thành của
Nguyễn Trãi, mong sao ở mọi nơi, cuộc sống thanh bình no ấm sẽ đến với mọi người. Câu nói của người xưa
"Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc" (lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên
hạ) thật hợp với cuộc đời Nguyễn Trãi.Lao xao chợ cá dội lên từ một làng chài hay chính tác giả đang rộn rã
niềm vui trước cảnh "dân giàu đủ " và cả tiếng ve dắng dỏi có phải chăng là tấm lịng Nguyễn Trãi đang tấu
nhạc ? Quả là một cuộc đời trọn tình, vẹn nghĩa với nước với dân. .


Như vậy qua bài thơ “Cảnh ngày hè” Nguyễn Trãi đã vẽ lên một bức tranh ngày hè sôi động, nhiều màu
sắc, đồng thời qua đó thấp thống bóng dáng một người luôn nghĩ cho nước cho dân. Bài thơ để lại cho người
đọc những ấn tượng sâu lắng nhất về cuộc sống và tâm tư đáng trân trọng của ông.


Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có học vấn uyên thâm, từng làm quan nhưng vì cảnh quan trường nhiều bất
cơng nên ơng đã cáo quan về ở ấn; sống cuộc sống an nhàn, thanh thơi. Ơng cịn được biết đến là nhà thơ nổi
tiếng với hai tập thơ tiếng Hán “Bạch Vân am thi tập” và tập thơ tiếng Nôm “Bạch Vân quốc ngữ thi”. Bài thơ


“Nhàn “được rút trong tập thơ “ Bạch Vân quốc ngữ thi”. Bài thơ đựợc viết bằng thể thất ngôn bát cú đường
luật, là tiếng lòng của Nguyễn Bỉnh Khiêm về một cuộc sống nhiều niềm vui , an nhàn và thanh thản nơi đồng
quê.


Xuyên suốt bài thơ “Nhàn” là tâm hồn tràn ngập niềm vui và sự thanh tịnh trong tâm hồn tác giả. Có thể
xem đây là điểm nhấn, là tinh thần chủ đạo của bài thơ. Chỉ vơi 8 câu thơ đường luật nhưng Nguyễn Bỉnh
Khiêm đã mang đến cho người đọc một cuộc sống an nhàn nơi đồng quê êm ả.


Với những câu từ hết sức giản dị đời thường cùng với hình ảnh mộc mạc, gắn với cuộc sống của người
dân lao động, nhưng nguyễn Bỉnh Khiêm đã lột tả hết vẻ đẹp chân chất dân giã ấy. Mở đầu bài thơ, phần nào
khắc họa được một cuộc sống nhàn rỗi. Ngay chính cái nhan đề của bài thơ cũng phần nào đề cập tới nội dung
và khơng khí tốt lên tồn bài thơ. Thường người ta được hưởng cảnh an nhàn, vui sống với cảnh thôn quê,
chiều chiều ngắm cảnh, ngồi tựa cây để vui thú quê hương.


Một mai một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào


Với phép lăp “một”-“một” đã vẽ lên trước mắt người đọc một khung cảnh bình dị, đơn sơ nơi quê nghèo, dù một
mình nhưng khơng hề đơn độc. Hai câu thơ toát lên sự thanh tịnh của tâm hồn và êm đềm của thiên nhiên ở
vùng quê Bắc Bộ. “Một mai", "một cuốc”, “một cần câu” gợi lên sự bình dị, mộc mạc của một người nơng dân
chất phác. cùng với nhịp thơ 2/2/3 chậm rãi , câu thơ toát lên vẻ thanh thản , nhàn nhã giữa chốn thơn q.
Hình ảnh Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện lên là một lão nông an nhàn, thảnh thơi với thú vui tao nhã là câu cá và làm
vườn. Đây có thể nói là cuộc sống đáng mơ ước của rất nhiều người ở thời kỳ phòng kiến ngày xưa nhưng
khơng phải ai cũng có thể dứt bỏ được chốn quan trường về với đồng quê như thế này. Động từ “thơ thẩn” ở
câu thơ thứ hai đã tạo nên nhịp điệu khoan thai, êm ái cho người đọc. Dù ngòai kia người ta vui vẻ nơi chốn
đơng người thì Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn mặc kệ, vẫn bỏ mặc để “an phận” với cuộc sống của mình hiện tạị,
không vướng bận những hào hoa danh lợi ngồi kia.Đó chính là triết lí nhàn đầy sâu sắc của Nguyễn Bỉnh
Khiêm cũng như nhiều nhà nho xưa.Triết lí ấy chính là cơ sở để ơng khẳng định thái độ sống đầy bản lĩnh của
mình với cách nói ẩn ý , hóm hỉnh:



Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ


Người khôn người đến chốn lao xao


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

"ta"-"người" ,“vắng vẻ” – “lao xao” nhưng lại tạo nên sự thống nhất trong thái độ sống và triết lí sống của nhà
thơ. Cách nói này cũng từng được Nguyễn Bỉnh Khiêm đưa vào bài thơ "Dại khơn" của mình :


Khơn mà hiểm độc là khôn dại,
Dại vốn hiền lành ấy dại khôn.


Nguyễn Bỉnh Khiêm tìm về nơi vắng vẻ để ở có phải là trốn tránh trách nhiệm với nước hay không? Với thời
thế như vậy giờ và với cốt cách của ông thì “nơi vắng vẻ” mới thực sự là nơi để ông sống đến suốt cuộc đời.
Một cốt cách thanh cao, một tâm hồn đáng ngưỡng mộ. Ông chỉ trở về với thiên nhiên, thốt khỏi vịng ganh
đua của thói tục, nhận cái "dại" để giữ tâm hồn được an nhiên , khoáng đạt. Cái "dại" ấy đã đưa nhà thơ về
cuộc sống nhàn tả , thanh cao chốn thôn dã:


Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao


Một cặp câu đã lột tả hết tất cả cuộc sống sinh hoạt và thức ăn hằng ngày của “lão nông nghèo”. Mùa nào đều
tương ứng với thức ăn đấy, tuy không có sơn hào hải vị nhưng những thức ăn có sẵn này lại đậm đà hương vị
quê nhà, khiến tác giả an phận và hài lịng. Mùa thu có măng trúc ở trên rừng, mùa đông ăn giá. Chỉ với vài nét
chấm phá Nguyễn Bỉnh Khiêm đã “khéo” khen thiên nhiên đất Bắc rất hào phòng, đầy đủ thức ăn. Đặc biệt câu
thơ “Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao” phác họa vài đường nét nhẹ nhàng, đơn giản nhưng tốt lên sự thanh tao
khơng ai sánh được. Một cuộc sống dường như chỉ có tác giả và thiên nhiên, mối quan hệ tâm giao hòa hợp
nhau, không hề bị chia cắt. Cuộc sống ấy tuy đạm bạc nhưng lại không hề khắc khổ, mà ngược lại rất thanh
cao, bình n. Đó chính là cuộc sống hòa hợp với thiên nhiên, gột rửa tâm hồn mà bao nhà nho xưa hướng
đến.Cuộc sống ấy đã tô sáng thêm vẻ đẹp tinh thần, cốt cách cũng như suy nghĩ của Nguyễn Bình Khiêm:
Rượu đến cội cây ta sẽ uống



Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao


Nhãn quan tỏ tường và cái nhìn thơng tuệ của nhà thơ thể hiện tập trung nhất ở hai câu thơ cuối. Nhà thơ tìm
đến cái “say” là để “tỉnh” và ơng tỉnh táo hơn bao giờ hết.Ơng nhận ra những tối tăm , những nhũng nhiễu trên
con đường công danh, nhận ra phú quý trên đời chỉ là một giấc mộng dài, chỉ có vẻ đẹp nhân cách và tâm hồn
con người mới là sự thật , tồn tại mãi mãi .Có thể xem đây chính là cách nhìn nhận sâu sắc, đầy triết lý nhất.
Với một con người thanh tao và ưa sống an nhàn thì phú q chỉ như hư vơ mà thôi, ông yêu nước nhưng yêu
theo một cách thầm lặng nhất. Mượn điển tích để nói lên quan điểm sống của mình, Nguyễn Bỉnh Khiêm càng
khiến người đọc khâm phục hơn trước tài năng cũng như nhân cách của ông. Cuộc sống nhàn mà ông chọn là
kết quả của một nhân cách, một trí tuệ khác thường. Trí tuệ sáng suốt nhận ra rằng cơng danh, của cải, quyền
quý chỉ tựa chiêm bao. Trí tuệ nâng cao nhân cách, làm cho lập trường thêm kiên định để nhà thơ có đủ quyết
tâm từ bỏ chốn quan trường lao xao danh lợi, tìm đến nơi thiên nhiên vắng vẻ mà trong sạch, thanh cao để di
dưỡng tinh thần, giữ vững hai chữ thiện lương.Việc đưa điển tích Vu Thuấn vào pháp so sánh trong câu thơ
cuối chính là một lựa chọn sáng suốt của nhà thơ , tạo kết thúc hoàn hảo cho bài thơ , đồng thời lại mở ra
những tình cảm lớn trong người đọc.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×