Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

BÀI TIỂU LUẬN PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG Chủ thể quan hệ của pháp luật thừa kế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (284.66 KB, 19 trang )

B À I T I Ể U LU Ậ N P H Á P LU Ậ T Đ Ạ I
CƯƠNG
(NHÓM 1)
ĐỀ TÀI : CHIA DI SẢN THỪA KẾ
Môn : Pháp luật đại cương

Chủ thể quan hệ của pháp luật thừa kế
1. Người để lại di sản.
- Người để lại di sản là người có tài sản sau khi chết để lại cho người cịn
sống theo ý chí của họ được thể hiện trong di chúc hay theo quy định của
pháp luật.
Người để lại di sản chỉ có thể là cá nhân, không phân biệt bất cứ điều kiện
nào (tuổi, mức độ năng lực hành vi dân sự…)
- Cơng dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà
ở… Khi cịn sống họ có có quyền đưa các loại tài sản này vào lưu thông
dân sự hoặc lập di chúc cho người khác hưởng tài sản của mình sau khi
chết. Trong trường hợp người để lại di sản lập di chúc để định đoạt tài sản
của mình thì phải đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật
(sẽ được phân tích cụ thể ở phần sau).


Trường hợp cơng dân có tài sản thuộc sở hữu riêng, không lập di chúc để
định đoạt tài sản của mình thì tài sản này sẽ chia theo quy định của pháp
luật.

* Người lập di chúc:
Điều kiện của người lập di chúc:
Theo Điều 625 và điểm a khoản 1 Điều 630 Bộ luật dân sự 2015 thì
người lập di chúc phải có điều kiện như sau:
Người lập di chúc phải là người thành niên; khi lập di chúc phải minh mẫn,
sáng suốt; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép có quyền lập di chúc để định


đoạt tài sản của mình.
Nếu người lập di chúc từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi thì
phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.

*Trường hợp đặc biệt của người lập di chúc:

Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải
được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý
về việc lập di chúc.
Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ
phải được người làm chứng lập thành văn bản và có cơng chứng hoặc
chứng thực.
Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý
chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau
khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi
chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể
từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được
cơng chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký
hoặc điểm chỉ của người làm chứng,
Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung
thì phải được sự đồng ý của bên kia; nếu một người đã chết thì người kia
chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình.

2. Người thừa kế
- Người thừa kế là người được hưởng di sản thừa kế theo di chúc hoặc
theo pháp luật. Như vậy, có 2 loại người thừa kế:
Người thừa kế theo pháp luật: Chỉ có thể là cá nhân và phải có quan hệ
hơn nhân, huyết
thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng đối với người để lại di



sản. Thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp
luật quy định.
Người thừa kế theo di chúc: Có thể là cá nhân, tổ chức hoặc Nhà nước
Điều kiện của Người thừa kế được quy định tại Điều 613 BLDS năm
2015:

Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa
kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành
thai trước khi người để lại di sản chết. Trong trường hợp người thừa kế
theo di chúc là cơ quan, tổ chức thì phải là cơ quan, tổ chức tồn tại vào
thời điểm mở thừa kế.

*Người thừa kế có những quyền, nghĩa vụ tài sản do người để
lại di sản để lại:
Người thừa kế phải thực hiện những nghĩa vụ sau:
Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản do
người để lại di sản để lại trong phạm vi di sản được nhận, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác. Tuy nhiên, pháp luật khuyến khích người thừa kế thực
hiện tồn bộ nghĩa vụ mà người để lại di sản để lại, kể cả những trường
hợp khơng cịn di sản. Đây là nghĩa vụ mang tính đạo lí của con cái đối với
cha mẹ.
Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người để lại di
sản để lại do người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những
người thừa kế.
Trong trường hợp Nhà nước, cơ quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc thì
cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người để lại di sản để lại.

*Quyền của người thừa kế:
Quyền từ chối nhận di sản:

Pháp luật quy định quyền từ chối nhận di sản tại Điều 620 BLDS
2015 như sau:
1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ
chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với
người khác.


2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến
người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ
phân chia di sản để biết.
3. Việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân
chia di sản.
Quyền được từ chối nhận di sản:
Quyền từ chối là quyền định đoạt của người hưởng di sản thừa kế (từ chối
việc xác lập quyền sở hữu đối với phần di sản mà mình được hưởng). Việc
từ chối này được pháp luật “ra điều kiện”, việc từ chối nhận di sản không
nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người
khác. Hạn chế này nhằm đảm bảo lợi ích hợp pháp cho người có quyền mà
bản thân người từ chối đó đang có nghĩa vụ phải thực hiện cho họ một số
nghĩa vụ: trả nợ, bồi thường thiệt hại, trả tiền công lao động, tiền thù lao
trong hợp đồng dịch vụ… Trong trường hợp này, pháp luật buộc họ phải
nhận di sản để thanh toán các khoản nợ mà người đó phải thực hiện đối
với người mang quyền.

*Hình thức từ chối nhận di sản:
Việc từ chối nhận di sản cũng liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của
người khác. Vì vậy, ý chí về việc từ chối nhận di sản của một người thừa kế
cần phải được thể hiện một cách rạch ròi và minh bạch. Người từ chối
nhận di sản phải lập văn bản thể hiện ý chí của mình và gửi đến các chủ
thể khác liên quan đến quan hệ thừa kế mà bản thân người từ chối là một

bên chủ thể.
Mặt khác, việc báo cho những người quản lý di sản, những người thừa kế
khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản biết về việc người thừa
kế từ chối nhận di sản để họ bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình trong
trường hợp người từ chối quyền nhận di sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ đối
với những người khác.

*Thời điểm từ chối nhận di sản:
Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế đã biết về những quyền
và nghĩa vụ của mình liên quan đến di sản thừa kế do người chết để lại.
Sau khi thanh tốn những nghĩa vụ và chi phí liên quan đến khối tài sản
mà người chết để lại, những người thừa kế mới tiến hành việc phân chia
thừa kế. Việc từ chối hưởng quyền thừa kế của người thừa kế thực hiện
trước thời điểm phân chia di sản thừa kế nhằm đảm bảo việc phân chia di
sản thừa kế được diễn ra nhanh chóng, tránh phải chia di sản thêm một
lần nữa cho những người thừa kế khác.

*Khái niệm di sản thừa kế:


Di sản là tồn bộ tài sản có giá trị vật chất hoặc giá trị tinh thần cùng với
các nghĩa vụ về tài sản được lưu truyền, tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ
khác, từ đời này sang đời khác, được bảo hộ về mặt pháp lí.
Trên lĩnh vực pháp luât, thuật ngữ “di sản” được các nhà làm luật sử dụng
để chỉ di sản thừa kế trong pháp luật dân sự. Nó được hiểu là phần tài sản
thuộc sở hữu hợp pháp của người chết để lại cho người sống.
Theo quy định tại Điều 612 BLDS 2015 di sản bao gồm: “ Tài sản riêng
của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người
khác”. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản bao gồm
bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện

có và tài sản hình thành trong tương lai. (Điều 105). Như vậy di sản thừa
kế là toàn bộ những tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết bao gồm
tài sản riêng, phần tài sản trong khối tài sản chung, cũng như các quyền
về tài sản mà người đó được các cơ quan thẩm quyền giao khi còn sống.
Di sản còn bao gồm cả các quyền tài sản như: quyền đòi bồi thường thiệt
hại, quyền đòi nợ, quyền thừa kế giá trị, quyền sử dụng nhà thuê của nhà
nước. Mặt khác, di sản thừa kế không bao gồm nghĩa vụ của người chết.
Do vậy, trong trường hợp người có tài sản để lại cịn có cả nghĩa vụ về tài
sản, thì thơng thường phần nghĩa vụ này sẽ được thanh tóan bằng tài sản
của người chết. Phần còn lại sẽ được xác định là di sản thừa kế và được
chia theo di chúc hay quy định của pháp luật. Theo đó, nghĩa vụ của người
chết được thực hiện như sau: Nếu di sản đã được chia thì mỗi người thừa
kế sẽ có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại
tương ứng với phần tài sản mà mình đã nhận. Trong trường hợp di sản
chưa được chia, thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản
lý di sản thực hiện theo đúng thỏa thuận của những người thừa kế.
Trong trường hợp Nhà nước, cơ quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc,
thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người
thừa kế là cá nhân.

*Thực hiện như sau:
Nếu di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế sẽ có trách nhiệm thực
hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại tương ứng với phần tài sản
mà mình đã nhận. Trong trường hợp di sản chưa được chia, thì nghĩa vụ tài
sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo đúng
thỏa thuận của những người thừa kế.
Trong trường hợp Nhà nước, cơ quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc,
thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người
thừa kế là cá nhân.Tóm lại, Di sản thừa kế là phần di sản còn lại sau khi đã



thanh toán nghĩa vụ của người chết để lại và các chi phí liên quan đến di
sản . Di sản này sau khi tách phần di sản dùng vào việc thờ cúng và di
tặng (nếu người để lại di sản có xác định) sẽ chia theo di chúc hoặc theo
quy định của pháp luật cho những người thừa kế.

*Khái niệm phân chia di sản thừa kế:
Thế nào là phân chia di sản thừa kế? Phân chia di sản thừa kế là tập hợp
các hoạt động nhằm xác lập quyền sở hữu đối với phần di sản cho từng
người một có quyền hưởng thừa kế trong khối di sản chung sau khi đã
thực hiện nghĩa vụ tài sản từ di sản. Chấm dứt tình trạng nhiều người cùng
có quyền được hưởng thừa kế từ một hoặc nhiều tài sản do người chết để
lại.
Khái niệm phân chia di sản chỉ đặt ra khi có ít nhất từ 2 người có quyền
thừa kế trở lên cịn nếu như chỉ có 1 người duy nhất có quyền hưởng di
sản thì chỉ có mình họ phải thực hiện các nghĩa vụ tài sản của người chết
để lại và cũng chỉ mình họ được sở hữu khối tài sản.
Xác định thời điểm mở thừa kế theo bộ luật dân sự 2015:
Thời điểm mở thừa kế là thời điểm phát sinh quan hệ thừa kế: Theo quy định của pháp luật
tại khoản 1, điều 611 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: Thời điểm mở thừa kế là thời
điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tịa án tun bố một người là đã chết thì thời
điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này.
Việc xác định thời điểm mở thừa kế là rất quan trọng. Kể từ thời điểm đó xác định được
chính sác tài sản, quyền, nghĩa vụ về tài sản của người để lại thừa kế gồm những gì và đến
khi chia di sản còn bao nhiêu. Thời điểm mở thừa kế là căn cứ xác định những người thừa kế
của người đã chết, vì người thừa kế phải là cá nhân cịn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc
sinh ra và còn sống sau thời điêm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di
sản chết.
Trong trường hợp tịa án tun bố một người là đã chết thì tùy từng trường hợp tòa án xác
định ngày chết của người đó, nếu khơng xác định được ngày chết thì ngày mà quyết định của

tịa án tun bố người đó đã chết có hiệu lực pháp luật được coi là ngày người đó chết.
Đặc biệt lần đầu tiên pháp luật nước ta quy định thời điểm có hiệu lực đối với di chúc chung
của vợ và chồng. Nếu 2 vợ chồng cùng lập di chuc chung khi cả 2 vợ chồng cùng đã chết thì
mới được chia di sản thừa kế đó. Quy định này nhằm bảo vệ quyền lợi cho người còn sống
nhằm đảm bảo cho họ sử dụng tài sản chung.
Quyền hưởng di sản và thực hiện quyền hưởng di sản được diễn ra ở hai thời điểm khác
nhau. Nếu quyền hưởng di sản và thực hiện quyền hưởng di sản diễn ra cùng một thời điểm
(thời điểm mở thừa kế) chỉ đúng trong một phạm vi rất hẹp. Đó là, di sản đang nằm trong
tay, đang nằm trong sự chiếm hữu một cách hợp pháp của người hưởng di sản (người có
quyền hưởng thừa kế) và loại tài sản này không bị phân chia và không phải đăng ký quyền sở
hữu. Chẳng hạn, người hưởng thừa kế đang giữ một khoản tiền, một số đồ trang sức hoặc
một số đồ dùng khác... mà các tài sản này là phần mà chính họ được hưởng thừa kế.


Theo quy định tại Điều 614 Bộ luật dân sự thì kể từ thời điểm mở thừa kế, những người
thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Mặc dù về nguyên tắc, người có
quyền hưởng di sản có quyền yêu cầu chia di sản thừa kế bất cứ lúc nào, kể từ thời điểm mở
thừa kế, nhưng việc chia thừa kế không thể diễn ra ngay sau khi người có tài sản chết.
Những tài sản phát sinh sau thời điểm mở thừa kế được xác định là di sản thừa kế có ý nghĩa
trong việc xác định chính xác khối di sản mà người chết để lại, đảm bảo đúng phần di sản mà
từng người thừa kế được hưởng theo di chúc hoặc theo pháp luật. Đồng thời xác định được
ai là người thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại nếu di sản gây thiệt hại. Chẳng hạn như
nhà bị đổ, cây bị gãy... và nếu dùng tài sản để bồi thường, thì lấy tài sản đó từ đâu? Từ một
người thừa kế hay của tất cả những người thừa kế? Lấy từ khối di sản hay từ tài sản thuộc sở
hữu riêng của người thừa kế. Cũng từ đó để xác định 2/3 của một suất thừa kế theo luật thì
lấy tổng di sản từ thời điểm mở thừa kế trở về trước hay tính cả những tài sản phát sinh sau
thời điểm mở thừa kế để xác định. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến phần của từng người
thừa kế, kể cả người được di tặng và cả những người được hưởng kỷ phần bắt buộc.

Xác định địa điểm mở thừa kế

Khoản 2, điều 611 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú
cuối cùng của người để lại di sản; nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm
mở thừa kế là nơi có tồn bộ di sản hoặc nơi có phần lớn di sản. Địa điểm mở thừa kế được
xác định theo đơn vị hành chính( cấp xã, phường, thị trấn).
Bộ luật dân sự quy định địa điểm mở thừa kế vì nơi đó thường phải tiến hành những công
việc như: kiểm kê ngay tài sản của người đã chết, xác định những ai là người thừa kế theo di
chúc, theo luật, người từ chối nhận di sản...Ngồi ra nếu có người trong diện thừa kế từ chối
nhận di sản thì phải thơng báo cho cơ quan công chứng nhà nước hoặc ủy ban nhân dân xã
phường thị trấn nơi mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản. Hơn nữa trong trường hợp có
tranh chấp thì tịa án nhân dân nơi mở thừa kế có thẩm quyền giải quyết.
Trong thực tế một người trước khi chết có thể ở nhiều nơi khác nhau do đó bộ luật dân sự
quy định địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản.
3 .NGƯỜI QUẢN LÍ DI SẢN
Người quản lý di sản là người trơng coi, giữ gìn di sản thừa kế.
Người quản lí di sản phải do người lập di chúc chỉ định trong di chúc hoặc
do những người thừa kế thỏa thuận cử ra. Trong trường hợp người lập di
chúc không chỉ định và những người thừa kế chưa cử được người quản lí di
sản, thì những người đang trực tiếp chiếm hữu, sử dụng, quản lí di sản tiếp
tục quản lí cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lí di sản.
Người quản lí di sản lập danh mục tài sản, thu hồi tài sản là di sản của
người chết mà người khác đang chiếm hữu; bảo quản di sản, không được
bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt di sản dưới bất kì
hình thức nào; thơng báo về di sản cho những người thừa kế và giao lại tài


sản cho những người thừa kế. Người quản lí di sản có các quyền: đại diện
cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến di
sản thừa kế; được hưởng thù lao theo thoả thuận với những người thừa kế.
Trong trường hợp chưa xác định được người thừa kế và di sản chưa có
người quản lí thì người quản lí di sản là cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Những người khơng được hưởng di sản:

*Lý thuyết :
Trong thực tế có một số trường hợp cá biệt người thừa kế đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ
của mình,có những hành vi trái pháp luật hoặc trái hành vi đạo đức xã hội, xâm phạm đến
dạnh dự nhân phẩm ,tính mạng ,sức khỏe của bố,mẹ ,anh,em,vợ, chồng... Người có những
hành vi như vậy khơng cịn xứng đáng được quyền thừa kế,họ bị pháp luật tước đi quyền
hưởng di sản kể cả theo di chúc và pháp luật.
Điều 621,BLDS 2015 quy định về người không được quyền hưởng di sản. Đó là những
trường hợp sau đây:
-Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi
nghiêm trọng,hành hạ người để lại di sản,xâm phạm nghiêm trọng danh dự,nhân phẩm của
người đó.
-Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản.
-Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một
phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền được hưởng.
-Người có hành vi lừa dối,cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di
chúc,giả mạo di chúc ,sửa chữa di chúc,hủy di chúc,che dấu di chúc nhằm hưởng một phần
hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản;
Cần lưu ý rằng, những người rơi vào một trong bốn trường hợp nói trên vẫn được hưởng di
sản nếu người để lại di sản đã biết hành vi của người đó nhưng vẫn cho họ được hưởng di
sản theo di chúc.

*Tình huống :
Ở trong tình huống nêu trên khơng ai vi phạm về điều 16, BLDS 2015 về người không được
quyền hưởng di sản nên tất cả các con của Minh và Huệ là Ngọc(SN1998), Yến(SN2004),
Vân(SN1999) không ai không được hưởng di sản.

Thời hiệu thừa kế :
Điều 623 BLDS năm 2015 quy định “Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30

năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn
này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp khơng có người


thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:
a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ
luật này.
b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu khơng có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này
-BLDS năm 2015 đã phân biệt thời hiệu thừa kế đối với bất động sản và động sản, trong đó
thời hiệu thừa kế đối với bất động sản là 30 năm, tăng lên đáng kể so với quy định của BLDS
năm 2005 và thời hiệu thừa kế đối với động sản vẫn giữ nguyên là 10 năm. Đồng thời, BLDS
năm 2015 đã có quy định mới về xử lý di sản sau khi hết thời hiệu thừa kế, theo đó, trong
thời hạn 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế,
mà di sản chưa được chia thì di sản sẽ thuộc về những người sau đây theo thứ tự ưu tiên:
người thừa kế đang quản lý di sản đó, người đang chiếm hữu, Nhà nước.
Xác định thời điểm mở thừa kế theo bộ luật dân sự 2015:
Thời điểm mở thừa kế là thời điểm phát sinh quan hệ thừa kế. Theo quy định của pháp luật
tại khoản 1, điều 611 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: Thời điểm mở thừa kế là thời
điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tịa án tun bố một người là đã chết thì thời điểm
mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này.
Việc xác định thời điểm mở thừa kế là rất quan trọng. Kể từ thời điểm đó xác định được
chính sác tài sản, quyền, nghĩa vụ về tài sản của người để lại thừa kế gồm những gì và đến
khi chia di sản cịn bao nhiêu. Thời điểm mở thừa kế là căn cứ xác định những người thừa kế
của người đã chết, vì người thừa kế phải là cá nhân còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc
sinh ra và còn sống sau thời điêm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di
sản chết.
Trong trường hợp tòa án tuyên bố một người là đã chết thì tùy từng trường hợp tịa án xác
định ngày chết của người đó, nếu khơng xác định được ngày chết thì ngày mà quyết định của
tịa án tun bố người đó đã chết có hiệu lực pháp luật được coi là ngày người đó chết...
Đặc biệt lần đầu tiên pháp luật nước ta quy định thời điểm có hiệu lực đối với di chúc chung

của vợ và chồng. Nếu 2 vợ chồng cùng lập di chuc chung khi cả 2 vợ chồng cùng đã chết thì
mới được chia di sản thừa kế đó. Quy định này nhằm bảo vệ quyền lợi cho người còn sống
nhằm đảm bảo cho họ sử dụng tài sản chung.
Quyền hưởng di sản và thực hiện quyền hưởng di sản được diễn ra ở hai thời điểm khác
nhau. Nếu quyền hưởng di sản và thực hiện quyền hưởng di sản diễn ra cùng một thời điểm
(thời điểm mở thừa kế) chỉ đúng trong một phạm vi rất hẹp. Đó là, di sản đang nằm trong
tay, đang nằm trong sự chiếm hữu một cách hợp pháp của người hưởng di sản (người có
quyền hưởng thừa kế) và loại tài sản này khơng bị phân chia và không phải đăng ký quyền sở
hữu. Chẳng hạn, người hưởng thừa kế đang giữ một khoản tiền, một số đồ trang sức hoặc
một số đồ dùng khác... mà các tài sản này là phần mà chính họ được hưởng thừa kế.
Theo quy định tại Điều 614 Bộ luật dân sự thì kể từ thời điểm mở thừa kế, những người
thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Mặc dù về nguyên tắc, người có
quyền hưởng di sản có quyền yêu cầu chia di sản thừa kế bất cứ lúc nào, kể từ thời điểm mở
thừa kế, nhưng việc chia thừa kế khơng thể diễn ra ngay sau khi người có tài sản chết.


Những tài sản phát sinh sau thời điểm mở thừa kế được xác định là di sản thừa kế có ý nghĩa
trong việc xác định chính xác khối di sản mà người chết để lại, đảm bảo đúng phần di sản mà
từng người thừa kế được hưởng theo di chúc hoặc theo pháp luật. Đồng thời xác định được
ai là người thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại nếu di sản gây thiệt hại. Chẳng hạn như
nhà bị đổ, cây bị gãy... và nếu dùng tài sản để bồi thường, thì lấy tài sản đó từ đâu? Từ một
người thừa kế hay của tất cả những người thừa kế? Lấy từ khối di sản hay từ tài sản thuộc sở
hữu riêng của người thừa kế. Cũng từ đó để xác định 2/3 của một suất thừa kế theo luật thì
lấy tổng di sản từ thời điểm mở thừa kế trở về trước hay tính cả những tài sản phát sinh sau
thời điểm mở thừa kế để xác định. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến phần của từng người
thừa kế, kể cả người được di tặng và cả những người được hưởng kỷ phần bắt buộc.

Xác định địa điểm mở thừa kế:
Khoản 2, điều 611 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú
cuối cùng của người để lại di sản; nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm

mở thừa kế là nơi có tồn bộ di sản hoặc nơi có phần lớn di sản. Địa điểm mở thừa kế được
xác định theo đơn vị hành chính( cấp xã, phường, thị trấn).
Bộ luật dân sự quy định địa điểm mở thừa kế vì nơi đó thường phải tiến hành những công
việc như: kiểm kê ngay tài sản của người đã chết, xác định những ai là người thừa kế theo di
chúc, theo luật, người từ chối nhận di sản...Ngồi ra nếu có người trong diện thừa kế từ chối
nhận di sản thì phải thơng báo cho cơ quan công chứng nhà nước hoặc ủy ban nhân dân xã
phường thị trấn nơi mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản. Hơn nữa trong trường hợp có
tranh chấp thì tịa án nhân dân nơi mở thừa kế có thẩm quyền giải quyết.
Trong thực tế một người trước khi chết có thể ở nhiều nơi khác nhau do đó bộ luật dân sự
quy định địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản.

*Hàng thừa kế theo pháp luật:
Điều 651 Bộ Luật dân sự 2015 quy định:
Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật
Người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân và phải có một trong ba mối quan hệ với
người để lại diu sản: quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng.
Về nguyên tắc, những người hưởng di sản thừa kế theo pháp luậtn được xếp thành các hang
thừa kế theo thứ tự ưu tiên 1,2,3. Trong đó những người thừa kế cùng hang được hưởng phần
di sản bằng nhau; những người ở hang thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế nếu khơng cịn ai
ở hang thừa kế trước do đã chết, khơng có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản
hoặc từ chối nhận di sản.
-Hàng thừa kế thứ nhất: Gồm vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi
của người chết.
- Hàng thừa kế thứ hai: Gồm ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em
ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà
ngoại.
- Hàng thừa kế thứ ba: Gồm cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô


ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu

ruột, cơ ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
HIỆU LỰC PHÁP LUẬT CỦA DI CHÚC
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau
khi chết. Như vậy, có thể hiểu di chúc là sự thể hiện ý chí của chính cá nhân đó mà khơng
phải là ai khác, pháp luật tơn trọng và bảo vệ ý chí tự nguyện của cá nhân cho đến lúc họ đã
chết. Mục đích của việc lập di chúc là chuyển tài sản - di sản của mình sang cho người khác
và di chúc chỉ có hiệu lực khi người lập di chúc đã chết.
Một người muốn định đoạt tài sản của mình bằng di chúc cần phải tuân theo các quy định của
pháp luật về thừa kế theo di chúc. Như vậy, di chúc có hiệu lực khi và chỉ khi thỏa mãn các
điều kiện có hiệu lực của di chúc do pháp luật quy định và người lập di chúc đã chết :
Người lập di chúc phải có năng lực chủ thể.
Người lập di chúc phải hoàn toàn tự nguyện.
Nội dung của di chúc khơng trái với pháp luật, đạo đức xã hội.
Hình thức của di chúc không trái với quy định của pháp luật.
Hiệu lực của di chúc là giá trị pháp lý của di chúc được thực hiện trên thực tế theo đúng nội
dung của di chúc, phù hợp với các quy định của pháp luật. Điều 643 BLDS quy định như sau:
Di chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm mở thừa kế.
Di chúc khơng có hiệu lực pháp luật toàn bộ hoặc một phần trong các thường hợp sau:
Thứ nhất, người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di
chúc; cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế.
Thứ hai, trong trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có một người chết trước
hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều cơ quan, tổ chức được chỉ
định hưởng thừa kế theo di chúc không cịn vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di chúc
liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này khơng có hiệu lực pháp luật.
Thứ ba, di chúc khơng có hiệu lực pháp luật nếu di sản để lại cho người thừa kế khơng cịn
vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ cịn một phần thì phần di
chúc về phần di sản cịn lại vẫn có hiệu lực pháp luật.
Thứ tư, khi di chúc có một phần khơng hợp pháp mà khơng ảnh hưởng đến hiệu lực của các
phần cịn lại thì chỉ phần dó khơng có hiệu lực pháp luật.
Thứ năm, khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì bản di chúc sau cùng

có hiệu lực pháp luật.
Di chúc là một hành vi pháp lý đơn phương, do vậy, di chúc cũng như các loại giao dịch dân
sự khác phải đáp ứng được những điều kiện pháp luật quy định. Nếu không thỏa mãn các
điều kiện luật định về hiệu lực, thì di chúc khơng có giá trị pháp lý. Quyền lập di chúc của cá
nhân luôn được pháp luật bảo hộ, nhưng quyền tự do lập di chúc của cá nhân phải được thực
hiện trong khuôn khổ pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Di chúc hợp pháp không chỉ thể
hiện quyền của người lập di chúc mà còn bảo đảm quyền thừa kế của người thừa kế theo di
chúc.

*Điều kiện của người lập di chúc:


Căn cứ Khoản 1 Điều 20, Điều 625 Bộ luật Dân sự 2015 thì người muốn lập di chúc phải
đáp ứng điều kiện:
+ Người thành niên (từ đủ 18 tuổi trở lên) có đủ điều kiện: minh mẫn, sáng suốt trong khi lập
di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của
mình.
Trường hợp, người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu
được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.
Quyền của người lập di chúc:
- Căn cứ pháp lý: Điều 626 Bộ luật Dân sự 2015:
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau
khi chết. Khi lập di chúc để định đoạt tài sản của mình, cá nhân có các quyền sau:
1. Chỉ định người thừa kế
Trong nội dung di chúc, cá nhân có quyền tự do ý chí để quyết định ai sẽ là người được thừa
kế tài sản do mình để lại sau khi chết, mà không phụ thuộc vào quan hệ huyết thống hay quan
hệ nuôi dưỡng…
2. Truất quyền hưởng di sản của người thừa kế
Truất quyền hưởng di sản của người thừa kế là việc người lập di chúc chỉ định cụ thể người
đó khơng được hưởng di sản, do một số nguyên nhân như mâu thuẫn cá nhân, không được sự

yêu thương, tín nhiệm từ người lập di chúc…
Đồng thời pháp luật cũng quy định những trường hợp không được hưởng di sản khi vi phạm
một trong các lỗi sau:
a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi
nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của
người đó;
b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một
phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di
chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần
hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
Tuy nhiên, những người vi phạm các trường hợp trên vẫn được hưởng di sản, nếu người để
lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.
3. Phân định phần di sản cho từng người thừa kế
Người lập di chúc có quyền quyết định ai được hưởng di sản, mỗi người sẽ được hưởng
những gì trong khối di sản của mình.


4 Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng
Di tặng là việc người lập di chúc dành một phần di sản để tặng cho người khác. Việc di tặng
phải được ghi rõ trong di chúc. (Khoản 1 Điều 646 Bộ luật Dân sự )
Người lập di chúc có quyền để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng, phần di sản này
không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để
thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không
theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản
dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.
5. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế
Người lập di chúc khi để lại di sản cho người nào đó, thì họ cũng có quyền yêu cầu người này
thực hiện công việc, nghĩa vụ nhất định khi nhận di sản mà mình để lại.

Khi đó, người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn
tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác. Khi người này từ chối
nhận di sản thì khơng phải thực hiện nghĩa được giao trong di chúc.

6. Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản
Người lập di chúc có thể yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng lưu giữ hoặc gửi người khác
giữ bản di chúc. (Khoản 1 Điều 641 Bộ luật Dân sự)
Người lập di chúc có quyền chỉ định người mà mình tín nhiệm để quản lý di sản, phân chia di
sản trong nội dung di chúc. (Điều 616 Bộ luật dân sự)
Nhưng với trường hợp Minh và Huệ mất đều khơng để lại di chúc thì toàn bộ tài sản sẽ
được để lại thưa kế theo quy định cảu pháp luật.

*Thừa kế theo pháp luật là:
Thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định (Điều 649 Bộ
luật dân sự năm 2015).

Tại Khoản 1 Điều 651 Bộ luật dân sự năm 2015:

- Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi
của người chết.

- Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột
của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà
ngoại.


- Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cơ
ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu
ruột, cơ ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.


Vì những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau nên theo đúng quy
định của pháp luật thì Ngọc khơng có quyền giữ hết tài sản của bố mẹ mà số tài sản này phải
được chia đều cho Ngọc, Yến và Vân.

Theo đó người con riêng của Minh là Nam vẫn là con đẻ của Minh. Cho nên Nam vẫn được
hưởng thừa kế của Minh và phần thừa kế mà người con riêng này được nhận sẽ bằng phần
thừa kế mà các con của Minh được nhận. Nhưng vì tất cả số tài sản của Minh và Huệ là tài
sản chung và Minh cũng không cấp dưỡng thường xuyên và không giữ mối quan hệ với con
riêng là Nam nên Nam không được hưởng tài sản từ Minh.

Kết luận: Tổng số tài sản chung của Minh và Huệ là 6.600.000.000 VND sẽ
được chia đều cho ba người con là Ngọc, Yến và Vân.

Phần di sản dùng vào việc thờ cúng:
Căn cứ theo quy định tại điều 645 bộ luật dân sự 2015, trường hợp di sản dùng vào việc thờ
cúng được quy định như sau :
Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản
đó khơng được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý
để thực hiện việc thờ cúng, nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc
không theo thoả thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần
di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thừa cúng.
- Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thừa cúng thì những
người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng.
Trường hợp tất. cả những người thừa kế theo di ch8úc đều đã chết thì phần di sản dùng để thờ
cúng thuộc về nguời đang quản lý hợp phasp di sản đó trong số những người thừa kế theo
pháp luật.
Trường hợp tồn bộ di sản của người chết khơng đủ để thanh tốn nghĩa vụ tài sản của người
đó thì khơng được dành một phần di sản dùng vào việc thừa kế.
Trong trường hợp khơng có di chúc, nhưng trên cơ sở ý nghuyện của người quá cố trước khi
chết và mong muốn của những người hưởng thừa kế sau khi người để lại di sản chết nhưng di

sản vẫn được coi là để thừa cúng.

*Sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng:


Một trong những đặc tính đặc thù của di sản để thừa cúng là nó khơng bị chia theo u cầu
của một cá nhân. Theo đó,di sản này được sử dụng để thừa cúng tổ tiên, người đã chết trong
gia đinhf và giao cho người được cử đại diện để quan lý di sản thừa cúng.
Di tặng :

*Theo quy định hiện hành thì di tặng được quy định như:
-Di tặng là việc người lập di chúc dành một phần di sản để tặng cho người khác.Việc di tặng
phải được ghi rõ trong ghi chúc.
-Người được di tặng là cá nhân phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn
sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường
hợp người được di tặng không phải là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
- Người được di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần được di tặng, trừ
trường hợp tồn bộ di sản khơng đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc thì
phần di tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại của người này.

*Thừa kế theo pháp luật là:
thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định (Điều 649 Bộ
luật dân sự năm 2015).

Tại Khoản 1 Điều 651 Bộ luật dân sự năm 2015:

- Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi
của người chết.
- Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột
của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà

ngoại.
- Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cơ
ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu
ruột, cơ ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Vì những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau nên theo đúng quy
định của pháp luật thì Ngọc khơng có quyền giữ hết tài sản của bố mẹ mà số tài sản này phải
được chia đều cho Ngọc, Yến và Vân.
Theo đó người con riêng của Minh là Nam vẫn là con đẻ của Minh. Cho nên Nam vẫn được
hưởng thừa kế của Minh và phần thừa kế mà người con riêng này được nhận sẽ bằng phần


thừa kế mà các con của Minh được nhận. Nhưng vì tất cả số tài sản của Minh và Huệ là tài
sản chung và Minh cũng không cấp dưỡng thường xuyên và không giữ mối quan hệ với con
riêng là Nam nên Nam không được hưởng tài sản từ Minh.

Kết luận: Tổng số tài sản chung của Minh và Huệ là 6.600.000.000 VND sẽ
được chia đều cho ba người con là Ngọc, Yến và Vân.
*Thừa kế thế vị là gì?
Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm
với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ
của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng
một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà
cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.

*Các trường hợp thừa kế thế vị:
Các trường hợp thừa kế thế vị bao gồm:
– Cháu thế vị cha hoặc mẹ để hưởng phần di sản của ông bà.
– Chắt thế vị cha hoặc mẹ để hưởng phần di sản của cụ.
Thừa kế thế vị chỉ phát sinh từ thừa kế theo pháp luật mà không phát sinh
từ thừa kế theo di chúc. Nếu cha, mẹ chết trước hoặc chết cùng thời điểm

với ơng, bà hoặc cụ thì phần di chúc định đoạt tài sản cho cha mẹ (nếu có
di chúc) sẽ vơ hiệu. Phần di sản đó được chia theo pháp luật và lúc này
cháu (chắt) mới được hưởng thừa kế thế vị.
Quan hệ thừa kế thế vị không phải là thừa kế theo trình tự hàng nhưng
hàng thừa kế là căn cứ để xác định quan hệ thừa kế thế vị. Thừa kế thế vị
là một chế định của pháp luật nhằm bảo về quyền lợi cho những người
thân thuộc nhất của người để lại di sản, tránh trường hợp di sản của ông
mà mà cháu không được hưởng lại để cho người khác hưởng.
* Điều kiện hưởng thừa kế thế vị:
Thừa kế thế vị là trường hợp thừa kế đặc biệt. Do vậy, những người thừa
kế thế vị cũng rất đặc biệt. Khi xét về hàng thừa kế thì họ không được
hưởng di sản nhưng họ được nhận thay cho bố (hoặc mẹ) của họ (là những
người đáng ra được hưởng thừa kế nếu còn sống). Theo quy định thì thừa
kế thế vị chỉ đặt ra khi thỏa mãn những điều kiện sau:
– Những người thừa kế phải có quan hệ thừa kế thứ hai trong hàng thừa kế
thứ nhất (quan hệ thừa kế giữa cha mẹ, con), trong đó người thế vị phải là
người ở đời sau. Nghĩa là chỉ có con được thế vị cha mẹ mà khơng bao giờ
có trường hợp cha, mẹ thế vị cho con. Người được hưởng thừa kế thế vị có
thể là con đẻ hoặc con nuôi. Điều 653 Bộ luật dân sự 2015 quy


định: “Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn
được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 của Bộ luật
này.“
– Thừa kế thế vị chỉ được đặt ra khi người thừa kế chết trước hoặc chết
cùng thời điểm với người để lại di sản: Xét theo nguyên tắc thì khơng thể
có trường hợp hai người chết cùng một thời điểm. Nhưng trên thực tế xảy
ra có những trường hợp nhiều người chết trong một tai nạn mà không thể
xác định được ai chết trước, ai chết sau. Vì vậy, buộc phải suy đốn họ
chết cùng một thời điểm. Nếu hai người thừa kế tài sản của nhau mà được

coi là chết cùng một thời điểm, thì họ sẽ không được thừa kế của nhau, di
sản của mỗi người được chia cho những người thừa kế của họ. Pháp luật
quy định như vậy để việc chia di sản thừa kế được tiến hành bình thường,
khơng ảnh hưởng đến quyền lợi của những người thừa kế khác.
– Cháu, chắt của người để lại di sản phải còn sống hoặc chưa ra đời nhưng
đã thành thai vào thời điểm ông, bà, cụ chết mới được áp dụng chế định
thừa kế thế vị: Thừa kế là việc dịch chuyển tài sản của những người đã
chết sang cho những người còn sống. Do vậy, điều kiện để những người
được hưởng thừa kế thế vị cũng là họ phải còn sống hoặc đã thành thai
vào thời điểm mở thừa kế. Nếu thai nhi sinh ra và cịn sống thì được hưởng
phần di sản đó, nếu chết trước khi sinh hoặc ngay sau khi sinh thì phần di
sản được chia cho những người thừa kế khác.

PHẦN 2: XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
-

Ý 1: Sau khi anh chị Minh-Huệ chết, Ngọc tuyên bố mọi tài sản của anh chị đều là
của mình vì mình lớn tuổi nhất.

Nếu bố mẹ nuôi mất không để lại di chúc thì phần tài sản của bố mẹ ni bạn sẽ được chia
theo quy định của pháp luật cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại
ĐIều 651 Bộ luật dân sự 2015.
Điều 651quy định những người thừa kế thuộc hàng thứ nhất bao gồm: “vợ, chồng, cha đẻ,
mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.”
Dựa trên nguyên tắc không phân biệt đối xử trong quan hệ hơn nhân và gia đình, pháp luật
quy định những người thừa kế cùng hàng thừa kế sẽ được hưởng phần di sản bằng nhau mà
không phân biệt con đẻ, con ni.

Vì vậy theo đúng quy đình của pháp luật thì Ngọc khơng có quyền giữ mọi tài
sản của anh chị Minh-Huệ, mà phải chia đều cho các em.

-

Ý 2: Trước khi lấy Huệ, Minh có con riêng là Nam.
+ Nam là con riêng của anh Minh nhưng khơng có quan hệ chăm sóc, ni dưỡng với chị
Huệ nên khơng có quyền thừa kế tài sản của chị Huệ.


+Chị Huệ chết trước anh Minh, ngay trên đường đi cấp cứu nên theo ý a khoản 1 điều
651 BLDS 2015 “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi,
con đẻ, con nuôi của người chết” thì anh Minh, Ngọc, Yến, Vân được thừa kế bằng nhau
phần tài sản của chị Huệ.

+Anh Minh chết sau chị Huệ 7 ngày nên tài sản của anh minh được chia đều cho Ngọc,
Nam, Vân, Yến theo ý a: khoản 1 điều 651 BLDS 2015.
-

Ý 3: Về phần góp vốn chung với ơng An.

Vì tài sản của anh chị Minh-Huệ khơng có di chúc nên nên sẽ được phân chia theo pháp luật
dân sự.
Theo điều 54.1 Luật Doanh Nghiệp 2014 và điều 651.2 Bộ Luật Dân Sự 2015 thì ½ số vốn
góp sẽ vẫn được chia đều cho các con của Minh-Huệ
KẾT LUẬN: Phần tài sản của chị Huệ và anh Minh quy đổi ra tiền bao gồm: (1.500.000.000
: 2) + (4.500.000.000:2) + (600.000.000 :2) = 3.300.000.000 VNĐ.

*Cụ thể như sau:
1. Sau khi chị Huệ chết:

+ Anh Minh, Ngọc, Yến, Vân được thừa kế bằng nhau và bằng: 3.300.000.000 : 4 =
825.000.000 VNĐ.

2. Sau khi anh Minh chết:

+ Nam được thừa kế: (3.300.000.000 + 825.000.000) : 4 = 1.031.250.000 VNĐ (từ phần tài
sản của anh Minh).
+ Ngọc, Yến, Vân được thừa kế từ phần tài sản của anh Minh và chị Huệ đã chia ở trên:
825.000.000 + (3.300.000.000 + 825.000.000):4 = 1.856.250.000 VNĐ.




×