Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của chế phẩm sinh học Ambio đến sinh trưởng, phát triển và năng suất giống lúa Thanh Hoa 04 vụ mùa 2017 tại xã Xuân Quỳ, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.67 KB, 34 trang )

PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Lúa (Oryza Sativa L.) là một trong những cây lương thực hàng đầu thế giới,
đồng thời là nguồn lương thực chính của người dân ở khu vực Đơng Nam Á nói
chung và Việt Nam nói riêng. Cũng giống như các cây trồng khác, cây lúa cần các
chất dinh dưỡng để sinh trưởng, phát triển. Cùng với các yếu tố năng lượng khác
(ánh sáng, nước, CO2), các chất dinh dưỡng là nguồn nguyên liệu để tái tạo ra các
sản phẩm như: tinh bột, chất đường, chất béo, prơtêin…để duy trì sự sống của tồn
bộ cây lúa và hình thành cơ quan. Các hình thức bón phân cho lúa ngày càng đa
dạng thơng qua các dạng hấp thụ dinh dưỡng của cây như qua rễ, qua lá, qua các bộ
phận khác trên cây. Sự kết hợp hợp lý giữa các cách thức bón sẽ mang lại hiệu quả
tốt nhất đối với cây trồng và mơi trường sống.
Chế phẩm sinh học là sản phẩm có chứa các loại vi sinh vật khác nhau có
khả năng huy động các yếu tố dinh dưỡng trong tự nhiên thơng qua q trình sinh
học; đồng thời chứa các chất dinh dưỡng bổ xung cho cây trồng. Do đó, chế phẩm
sinh học giúp tăng độ phì nhiêu của đất, thúc đẩy q trình đồng hóa chất dinh
dưỡng và góp phần phát huy hiệu quả sử dụng các loại phân bón. Bên cạnh đó, chế
phẩm sinh học cịn có tác dụng tăng khả năng chống chịu sâu bệnh hại và điều kiện
ngoại cảnh bất thuận. Từ giữa thế kỷ 19, chế phẩm sinh học đã được chú ý phát
triển và được coi như một tiến bộ kỹ thuật có hiệu quả nhanh và có lợi về kinh tế.
Chế phẩm sinh học Ambio ngồi các loại vi sinh vật có ích như vi sinh vật cố
định đạm, vi sinh vật phân giải lân, cellulose còn bổ xung thêm các chất dinh
dưỡng cho cây trồng như N, Fe, Zn, Cu, Bo,… các nguyên tố này tuy có hàm
lượng ít nhưng lại giữ vai trị quan trọng do trong mơi trường đất thường thiếu hoặc
khơng có. Do đó, sử dụng chế phẩm sinh học Ambio sẽ thúc đẩy bộ rễ phát triển,
tăng khả năng đẻ nhánh hữu hiệu, giảm tỷ lệ nhánh vô hiệu, giúp lúa cứng cây, ít đổ
ngã, tăng khả năng chống chịu rét, sâu bệnh, từ đó tăng năng suất và phẩm chất cây
trồng.
1



Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu ảnh
hưởng của chế phẩm sinh học Ambio đến sinh trưởng, phát triển và năng suất
giống lúa Thanh Hoa 04 vụ mùa 2017 tại xã Xuân Quỳ, huyện Như Xn, tỉnh
Thanh Hóa”
1.2. Mục đích, u cầu của đề tài.
1.2.1 Mục đích.
Xác định hiệu quả phun chế phẩm Ambio cho giống lúa Thanh Hoa 04 vụ mùa
2017 tại xã Xuân Quỳ, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa tạo cơ sở phổ biến vận dụng
trong sản xuất lúa tại xã và các địa bàn khác có điều kiện tương tự.
1.2.2. Yêu cầu.
- Đánh giá được tình hình sản xuất lúa tại xã Xuân Quỳ, huyện Như Xuân,
tỉnh Thanh Hóa.
- Xác định được ảnh hưởng của phun chế phẩm sinh học Ambio đến các chỉ
tiêu sinh trưởng, phát triển, sâu bệnh hại, các yếu tố cấu thành năng suất và năng
suất của giống lúa Thanh Hoa 04 vụ mùa 2017 tại xã Xuân Quỳ, huyện Như Xuân,
tỉnh Thanh Hóa.
- Xác định được hiệu quả kinh tế của việc phun chế phẩm sinh học Ambio
cho giống lúa Thanh Hoa 04 vụ mùa 2017 tại xã Xuân Quỳ, huyện Như Xuân, tỉnh
Thanh Hóa.
1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần cung cấp cơ sở dữ liệu về hiệu
quả sử dụng chế phẩm sinh học Ambio cho cây trồng vận dụng trong trường hợp
nghiên cứu đối với giống lúa Thanh Hoa 04vụ mùa 2017 tại xã Xuân Quỳ, huyện
Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở phổ biến, khuyến cáo sử dụng chế
phẩm sinh học Ambio góp phần nâng cao năng suất lúa ở xã Xuân Quỳ và các địa
bàn khác có điều kiện tương tự.
PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU

2


2.1. Đặc điểm sinh thái và nhu cầu dinh dưỡng của cây lúa
2.1.1. Đặc điểm sinh thái
2.1.1.1. Mối quan hệ giữa các yếu tố khí hậu thời tiết với sinh trưởng phát triển
của cây lúa.
Khí hậu thời tiết là yếu tố quan trọng nhất của điều kiện sinh thái có ảnh hưởng
lớn và thường xuyên đến quá trình sinh trưởng, phát triển của cây lúa. Cây lúa có
nguồn gốc từ vùng nhiệt đới nên khí hậu nhiệt đới nóng ẩm của nước ta nhìn chung
khá phù hợp với sinh trưởng phát triển của nó. Trên đồng ruộng lúa chịu ảnh hưởng
của nhiều yếu tố ngoại cảnh.
- Nhiệt độ.
Để hoàn thành chu kỳ sống cây lúa đòi hỏi một lượng nhiệt 35-45 0C, giống
ngắn ngày yêu cầu 25-300C, giống dài ngày yêu cầu 40-450C. Trong quá trình sinh
trưởng , nếu gặp nhiệt độ cao cây lúa đạt được tổng nhiệt độ cần thiết sẽ ra hoa và
chín sớm hơn, rút ngắn thời gian sinh trưởng. Nếu gặp điều kiện nhiệt độ thấp, kết quả
sẽ ngược lại. Trong vụ chiêm xuân, do biến động nhiệt độ lớn nên thời gian sinh
trưởng của các giống lúa dễ biến động theo nhiệt độ hàng năm và theo thời vụ cấy
sơm hay muộn. Vì vậy tùy theo dự báo thời tiết hàng năm mà điều chỉnh thời vụ gieo
cấy cho phù hợp, tránh tình trạng lúa có thể trổ quá sớm hoặc quá muộn làm ảnh
hưởng đến năng suất. Trong vụ mùa, điều kiện nhiệt độ tương đối ổn định nên thời
gian sinh trưởng của các giống lúa mùa thường ít thay đổi. Các thời kỳ sinh trưởng
khác nhau thì yêu cầu nhiệt độ cũng khác nhau [2].
- Nước
Cây lúa là cây cần nước và là cây ưa nước điển hình. Nước là thành phần chủ
yếu của cây lúa, là điều kiện để thực hiện các q trình sinh lý trong cây, ngồi ra cịn
là điều kiện ngoại cảnh không thể thiếu được đối với cây lúa. Nước là yếu tố quan
trọng nhất điều hòa tiểu khí hậu trong ruộng lúa nhờ có nhiệt dung lớn. Lúa là cây
trồng ưa điều kiện ngập nước, nước làm hòa tan các chất dinh dưỡng cho cây lúa hút

được dễ dàng, làm giảm nồng độ muối phèn, chất độc và hạn chế cỏ dại. Lúa là cây
đòi hỏi một lượng nước khá lớn, theo Smith hệ số thoát hơi nước của lúa là 710, lúa
3


mì là 30 và ngơ là 368. Theo Goutchin để tạo được 1 đơn vị thân lá lúa cần 400-500
đơn vị nước, để tạo 1 kg hạt cần 300-500 kg nước. Yêu cầu lượng mưa là 9001100mm cho 1 vụ lúa. Mưa ngoài việc cung cấp cho sinh trưởng, lượng mưa cịn làm
thay đổi tiểu khí hậu trong ruộng lúa và mang theo một lượng đạm khí trời. Mưa cịn
mang theo lượng oxi cho ruộng lúa. Các thời kỳ sinh trưởng khác nhau thì yêu cầu
lượng nước khác nhau và tùy thuộc vào giống và trình độ thâm canh [2].
- Ánh sáng
Ánh sáng là yếu tố ngoại cảnh ảnh hưởng không nhỏ đến sinh trưởng và năng
suất lúa. Lúa là cây có nguồn gốc nhiệt đới nên là cây ưa ánh sáng và mẫn cảm với
quang chu kỳ (độ dài ngày). Cường độ ánh sáng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động
quang hợp và tạo ra năng suất. Một số giống cảm quang phản ứng chặt chẽ với độ dài
ngày chỉ có thể trổ bơng trong điều kiện ngày dài (số giờ chiếu sáng > 13 giờ).
2.1.1.2. Sự hình thành các vùng trồng lúa, các vụ lúa ở nước ta.
Điều kiện khí hậu nóng ẩm ở nước ta nói chung thích hợp với nghề trồng lúa.
Cây lúa được trồng ở nước ta từ rất lâu đời, trồng từ miền Bắc đến miền Nam, từ miền
xuôi đến miền núi. Tuy nhiên do vị trí địa lý của nước ta, sơng núi nhiều địa hình
phức tạp nên đã hình thành nhiều vùng trồng lúa với mùa vụ và phương thức trồng
khác nhau.
+ Vùng đồng bằng Bắc bộ và Bắc trung bộ.
+ Vùng đồng bằng Bắc bộ.
Đồng bằng Bắc bộ do lưu vực sơng Hồng và sơng Thái Bình tạo thành, diện
tích 15.000km2, có độ dốc tương đối lớn. Đồng bằng sơng Hồng có hệ thống đê dài
trên 1500km để ngăn lũ về mùa mưa nên đất trong đê là phù sa cổ khơng được bồi
đắp hàng năm do đó độ phì giảm dần. Đây là vựa lúa lớn của nước ta, dân cư tập
trung với mật độ cao, có truyền thống và kinh nghiệm sản xuất lâu đời.
+ Vùng đồng bằng Bắc trung bộ.

Do lưu vực sông Mã, sông Chu, sông Lam tạo thành. Diện tích xấp xỉ 6310 km2
tương đối bằng phẳng, lượng phù sa ít hơn đồng bằng sơng Hồng, đất đai kém màu
mở hơn.
+ Các vụ lúa chính:
4


Vụ mùa: Trước đây là vụ lúa chính chiếm ưu thế về diện tích, năng suất và sản
lượng. Cây lúa sinh trưởng trong điều kiện nóng, ẩm nên sinh trưởng mạnh, phẩm
chất gạo cao. Nhìn chung lúa mùa sinh trưởng thuận lợi, trổ bông thụ phấn, thụ tinh
vào lúc nhiệt độ giảm, trời mát mẽ, thu hoạch lúc trời hanh khô. Tuy nhiên vụ mùa
cũng hay gặp điều kiện thời tiết bất thuận làm ảnh hưởng đến năng suất. Vụ mùa được
chia làm 3 trà: mùa sớm, mùa trung và mùa muộn.
Vụ chiêm xuân: Là vụ lúa trong mùa khô nên phải cấý trên những chân đất chủ
động nước. Đầu vụ gặp rét, cuối vụ gặp mưa nóng, vụ này thường cấy những giống
có khả năng chịu rét giai đoạn mạ. Lúa chiêm ít phản ứng với ánh sáng, chỉ phản ứng
với nhiệt độ. Nhiệt độ càng cao, thời gian sinh trưởng càng rút ngắn lại. Vụ lúa chiêm
xuân gồm 2 trà đó là: lúa chiêm và lúa xuân. Trong trà lúa xuân lại chia thành 3 trà
khác nhau là: xuân sớm, xuân chính vụ và xuân muộn.
Vụ hè thu: Là vụ lúa ngắn nhất trong năm, thời gian sinh trưởng 90-105 ngày,
có ý nghĩa trong việc ln canh tăng vụ. Thời vụ gieo mạ vào tháng 5 thu hoạch vào
cuối tháng 7 đầu tháng 8.
- Vùng đồng bằng ven biển Trung bộ.
Vùng này chạy dài từ Quảng Bình đến Bình Thuận. Có các sơng ngắn, dốc, chế
độ thủy văn phức tạp nên thường xảy ra lũ lụt, hạn hán. Đất đai thường có thành phần
cơ giới nhẹ, nghèo dinh dưỡng, khả năng giữ phân kém, vùng ven biển thường bị
nhiễm mặn. Nhiệt độ thường cao hơn vùng đồng bằng Bắc bộ. Có 3 vụ lúa chính
trong năm là: vụ đông xuân, hè thu và vụ mùa.
- Vùng đồng bằng Nam bộ.
Là đồng bằng mới được khai thác khoảng 500-600 năm trở lại đây. Diện tích

tồn châu thổ 36.000 km2, trong đó diện tích trồng trọt được khoảng 2,1 triệu ha. Đây
là vựa lúa quan trọng của cả nước. đồng bằng tương đối bằng phẳng, chủ yếu là đất
phù sa, thành phần là đất sét hàm lượng dinh dưỡng cao nhưng thường thiếu lân.
Nhiệt độ bình qn cao và ít biến động trong năm, khơng có mùa đơng lạnh, nhiều
nắng, vì vậy thời vụ gieo cấy chỉ phụ thuộc vào chế độ mưa và lượng mưa. Độ ẩm
tương đối bình qn thấp. Nhìn chung đồng bằng Nam bộ có những thuận lợi cơ bản
5


về đất đai, thời tiết, khí hậu trong sản xuất nơng nghiệp. Đồng bằng Nam bộ có các vụ
lúa chính đó là: vụ mùa, vụ đơng xn và vụ hè thu.
2.1.2. Nhu cầu dinh dưỡng
Cây lúa cũng như các loại cây trồng khác đều có nhu cầu dinh dưỡng để sinh
trưởng và phát triển. Các yếu tố dinh dưỡng như đạm, lân, kali cần thiết cho cây lúa
trong toàn bộ đời sống của nó, số lượng chênh lệch nhau tương đối nhiều tuỳ thuộc
vào giống, đất đai, khí hậu, chế độ canh tác và cách bón phân. Khả năng cung cấp
chất dinh dưỡng của đất là nhân tố quyết định việc cần bón nguyên tố nào, số lượng
bao nhiêu cho cây. Những năm gần đây do diện tích sản xuất nông nghiệp bị thu
hẹp, các biện pháp canh tác chưa hợp lý nên đã dẫn đến hiện tượng rửa trôi, xói
mịn đất làm giảm độ màu mỡ của đất nhanh chóng, đặc biệt là ở vùng đồi núi. Do
vậy để đảm bảo năng suất lúa cần phải hiểu rõ tính chất của đất. Hiện nay nhờ
thành tựu ứng dụng khoa học công nghệ trong công tác chọn lọc và chọn tạo giống,
cho nên các giống lúa mới chịu thâm canh, năng suất, chất lượng cao hơn các giống
lúa cũ đã được đưa vào sản xuất. Vì vậy dựa vào đặc điểm của giống để cung cấp
phân bón cho lúa là cần thiết. Tuy nhiên các giống lúa có thời gian sinh trưởng khác
nhau thì xác định thời kỳ bón, lượng phân bón khác nhau [1].
2.1.2.1. Nhu cầu về đạm của cây lúa
Lúa là cây trồng rất mẫn cảm với việc bón đạm. Nếu giai đoạn đẻ nhánh mà
thiếu đạm sẽ làm năng suất lúa giảm do đẻ nhánh ít, dẫn đến số bơng ít. Nếu bón
khơng đủ đạm cây lúa sinh trưởng chậm, thấp cây, đẻ nhánh kém, phiến lá nhỏ, lá

sớm chuyển thành màu vàng, địng nhỏ, từ đó làm cho năng suất giảm. Nếu bón
thừa đạm lại làm cho cây lúa có lá to, dài, phiến lá mỏng, dễ bị sâu bệnh, dễ lốp đổ,
đẻ nhánh vô hiệu nhiều; ngoài ra chiều cao cây phát triển mạnh, trỗ muộn, năng
suất giảm. Theo Bùi Huy Đáp năm 1980, đạm là yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến
năng suất lúa, cây có đủ đạm thì các yếu tố khác mới phát huy hết được tác dụng.
Và Lê Văn Tiềm năm 1986 thì khi cây lúa được bón đủ đạm nhu cầu tất cả các chất
dinh dưỡng khác như lân và kali đều tăng [5].
Đạm là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với cây trồng nói chung và cây lúa
nói riêng, là thành phần cơ bản của protein. Đạm nằm trong nhiều hợp chất cơ bản
6


cần thiết cho sự phát triển của cây như diệp lục và các enzym. Các bazơ có đạm,
thành phần cơ bản của axit Nuclêic trong các AND, ARN của nhân bào, nơi chứa
các thơng tin di truyền đóng vai trị quan trọng trong việc tổng hợp protein. Do vậy,
đạm là một yếu tố cơ bản của q trình đồng hố cacbon, kích thích sự phát triển
của bộ rễ, ảnh hưởng tích cực đến việc hút các yếu tố dinh dưỡng khác. Cây trồng
được bón đủ đạm lá có màu xanh sẫm, sinh trưởng khỏe và cho năng suất cao, tuy
nhiên trong sản xuất khơng nên bón thừa đạm.
Theo nghiên cứu của Broadlen năm 1979 và các nghiên cứu của Đỗ Thị Tho
và PhạmVăn Cường năm 2004, đạm đóng vai trị hết sức quan trọng trong đời sống
của cây lúa. Đạm giữ vị trí quan trọng trong việc tăng năng suất, là một yếu tố cơ
bản trong quá trình phát triển của tế bào, là một trong những nguyên tố hoá học
quan trọng của các cơ quan như rễ, thân, lá, hoa và hạt. Trong các vật chất khô của
cây trồng có từ 1 – 5% đạm tổng số. Người ta thấy trong các bộ phận non của cây
hàm lượng đạm nhiều hơn trong các bộ phận già, đạm có trong các protit, các acid
nucleic của các cơ quan trong cây [14].
Còn Nguyễn Như Hà năm 2006 cũng cho rằng: đạm có vai trị quan trọng
trong việc phát triển bộ rễ, thân, lá, chiều cao và đẻ nhánh của cây lúa. Việc cung
cấp đạm đủ và đúng lúc làm cho lúa vừa đẻ nhánh nhanh lại tập trung, tạo được

nhiều dảnh hữu hiệu, là yếu tố cấu thành năng suất có vai trò quan trọng nhất đối
với năng suất lúa. Đạm cịn có vai trị quan trọng trong việc hình thành đòng và các
yếu tố cấu thành năng suất khác: số hạt trên bông, trọng lượng 1000 hạt và tỷ lệ hạt
chắc. Đạm còn làm tăng hàm lượng protein trong gạo nên làm tăng chất lượng gạo.
Lượng đạm cần thiết để tạo ra 1 tấn thóc từ 17 đến 25 kgN, trung bình cần 22,2
kgN. Ở các mức năng suất cao, lượng đạm cần thiết để tạo ra một tấn thóc càng
cao.
2.1.2.2. Nhu cầu về lân của cây lúa
Theo Lê Văn Căn năm 1964, lân là một trong những chất cần thiết cho q
trình trao đổi chất của cây, lân có mặt trong các chất hữu cơ quan trọng nhất đối với
cây. Các hợp chất này ảnh hưởng trực tiếp đến sự phân chia tế bào qua quá trình
trao đổi chất béo, protein cụ thể là Glyxerophotphat, ATP, ADN, ARN, có vai trò
7


quan trọng trong q trình quang hợp và hơ hấp của cây. Lân làm tăng khả năng hút
đạm cho cây và hấp phụ Fe, làm giảm nồng độ Fe trong đất, giảm nồng độ độc
trong đất. Trong thời kỳ chín của cây lúa, hàm lượng lân vô cơ giảm nhanh và hoạt
động của enzym photphorilaza tăng đến 16 ngày sau khi thụ tinh của hạt sau đó
giảm xuống. Từ đó ta có thể thấy lân là một thành phần dinh dưỡng rất cần thiết đối
với cây trồng.
Theo Nguyễn Xuân Cự, Nguyễn Ngọc Nơng, Võ Đình Quang trong các năm
từ 1992 đến 1999, lân là thành phần chủ yếu của acid nucleic, là chất chủ yếu của
nhân tế bào, trong vật chất khơ của cây có chứa hàm lượng lân từ 0,1 - 0,5%. Lân
có mối quan hệ chặt chẽ với sự hình thành diệp lục, protit và sự di chuyển tinh bột.
Cây lúa hút lân mạnh hơn so với các loại cây trồng cạn. Cùng với đạm, lân xúc tiến
sự phát triển của bộ rễ và tăng số nhánh đẻ, đồng thời cũng làm cho lúa trỗ và chín
sớm hơn.
Lân có vai trị quan trọng trong thời gian sinh trưởng đầu của cây lúa, xúc
tiến sự phát triển của bộ rễ và số dảnh lúa, ảnh hưởng tới tốc độ đẻ nhánh của cây

lúa. Lân còn làm cho lúa trỗ bơng đều, chín sớm hơn, tăng năng suất và phẩm chất
hạt. Để tạo ra 1 tấn thóc, cây lúa cần hút khoảng 7,1kg P 2O5, trong đó tích lũy chủ
yếu vào hạt. Cây lúa hút lân mạnh nhất vào thời kỳ đẻ nhánh và thời kỳ làm đòng,
nhưng xét về cường độ thì cây lúa hút lân mạnh nhất vào thời kỳ đẻ nhánh [7].
Theo Kobayshi, Nguyễn Tử Siêm, Mai Văn Quyền, và Nguyễn Như Hà thì
khi thiếu lân lá cây có màu xanh đậm, phiến lá nhỏ, hẹp, mềm, yếu, mép lá có màu
vàng, thân mềm, dễ đổ. Thiếu lân ở thời kỳ đẻ nhánh làm cho lúa đẻ nhánh ít, tỷ lệ
nhánh hữu hiệu thấp, thời kỳ trỗ và chín kéo dài nên hạt lép nhiều hơn, chất lượng
dinh dưỡng hạt thấp, bông nhỏ và năng suất không cao. Lân đối với lúa là một yếu
tố dinh dưỡng rất quan trọng trong quá trình sinh trưởng, phát triển ảnh hưởng đến
năng suất và sản lượng một cách rõ rệt.
2.1.2.3. Nhu cầu về kali của cây lúa
Theo Nguyễn Vi năm 1974, kali được cây hút dưới dạng ion K +, kali được
hút nhiều như đạm, nếu thừa kali lúa bị hại. Vai trò của kali là xúc tiến sự di chuyển
của các chất đồng hoá và gluxit trong cây vì vậy nếu lúa thiếu kali thì hàm lượng
8


tinh bột trong hạt sẽ giảm, hàm lượng đạm sẽ tăng. Trong điều kiện thời tiết xấu,
trời âm u, ánh sáng yếu thì kali có vai trị như ánh sáng mặt trời, xúc tiến sự hình
thành gluxit, cho nên để chống rét cho mạ xuân ở miền Bắc người ta thường bón
một lượng kali. Ngồi những vai trị như trên, kali cịn cần thiết cho sự tổng hợp
protein, có quan hệ mật thiết với quá trình phân chia tế bào, cho nên ở gần đỉnh
sinh trưởng của cây hàm lượng kali tương đối nhiều. Kali còn làm cho sự di động
của sắt trong cây tốt hơn do đó ảnh hưởng gián tiếp đến q trình hơ hấp của cây.
Theo Nguyễn Như Hà năm 2006, kali có ảnh hưởng rõ đến sự phân chia tế
bào và phát triển của bộ rễ lúa trong điều kiện ngập nước nên có ảnh hưởng rõ đến
sự sinh trưởng và phát triển của cây lúa. Kali có ảnh hưởng lớn đến q trình quang
hợp, tổng hợp các chất gluxit, ngồi ra cịn tham gia vào quá trình tổng hợp protein
ở trong cây lúa, nhất là trong điều kiện ánh sáng yếu. Ngồi ra cịn ảnh hưởng tới

các yếu tố cấu thành năng suất như: số hạt, tỷ lệ hạt chắc, trọng lượng 1000 hạt. Vì
vậy, kali là yếu tố dinh dưỡng có ảnh hưởng rõ tới năng suất và chất lượng lúa. Kali
còn thúc đẩy hình thành lignin, xelulo làm cho cây cứng cáp hơn, chống đổ và
chống chịu sâu bệnh tốt hơn. Cây lúa thiếu kali ít ảnh hưởng đến đẻ nhánh nhưng
làm cây lúa thấp, phiến lá hẹp, mềm yếu và rũ xuống, hàm lượng diệp lục thấp,
màu xanh tối. Khi thiếu kali, mặt phiến lá của những lá phía dưới có những đốm
màu nâu đỏ, lá khô dần từ dưới lên trên. Lúa thiếu kali dễ bị lốp đổ, sâu bệnh dễ tấn
công (nhất là khi được cung cấp nhiều đạm), số hạt ít, nhiều hạt xanh, hạt lép và hạt
bạc bụng, phẩm chất gạo giảm. Để tạo ra 1 tấn thóc trung bình cây lúa hút 31,6 kg
K2O, trong đó chủ yếu tích luỹ trong rơm rạ 28,4 kg.
2.1.2.4. Nhu cầu về các yếu tố dinh dưỡng khác của cây lúa
Silic làm tăng tính chống chịu đối với các điều kiện bất thuận và sâu bệnh hại
cho cây lúa, làm cho lá lúa thẳng và quang hợp tăng thêm nên làm tăng năng suất
lúa. Lúa là cây hút nhiều Si, để tạo 1 tấn thóc cây lúa lấy đi từ đất và phân bón là
51,7kg Si.
Trên đất cát, đất xám trồng lúa thì magie thể hiện rõ vai trị, đặc biệt là với
những giống mới năng suất cao. Nhu cầu magie để tạo ra 1 tấn thóc cây lúa lấy đi
từ đất và phân bón 3,94kg MgO.
9


Cây lúa có nhu cầu canxi khơng cao, xong trên đất chua; đất phèn; đất xám
hoặc đất nghèo canxi thì việc bón các loại phân có canxi là cần thiết. Để tạo ra 1 tấn
thóc cây lúa cần 3,94kg CaO.
Cây lúa thiếu lưu huỳnh thì các lá chuyển màu vàng, giảm chiều cao, đẻ
nhánh kém và đòng ngắn lại. Để tạo ra 1 tấn thóc, cây lúa cần 0,94kg S.
Lúa cần sắt nhiều hơn so với các cây trồng khác, mỗi tấn thóc cây lúa cần 0,35kg
Fe. Thiếu sắt làm cho lúa bị vàng lá, sinh trưởng phát triển kém, thường xuất hiện ở
những chân ruộng có địa hình cao, thoát nước mạnh, giữ nước kém, pH cao.
Để tạo ra 1 tấn thóc, cây lúa cần 40g Zn. Khi thiếu kẽm cây lúa hồi xanh

chậm, đẻ nhánh kém, còi cọc, có lá nhỏ và thường có màu trắng ở các lá non, còn
các lá già chuyển màu vàng với nhiều đốm nâu trên khắp mặt lá. Thiếu nhiều kẽm
cây lúa có các lá dưới bị khơ, kéo dài thời gian sinh trưởng và có thể bị chết. Hiện
tượng thiếu kẽm thường xảy ra trên đất có pH, hàm lượng kali, lân và chất hữu cơ
cao.
Thiếu đồng làm tăng số lượng hạt phấn bất dục, tăng tỷ lệ hạt lép, giảm trọng
lượng hạt. Để tạo 1 tấn thóc lúa hút khoảng 27g Cu. Hiện tượng cây lúa thiếu đồng
thường xảy ra trên đất cát có pH cao và đất chứa quá nhiều chất hữu cơ, đất than
bùn.
Bo cần thiết cho việc đảm bảo sức sống hạt phấn của lúa, tăng khả năng thụ
phấn, tăng quá trình vận chuyển chất hữu cơ về hạt. Hiện tượng thiếu Bo thường
xuất hiện trên đất quá chua, đất phèn. Để tạo mỗi tấn thóc, cây lúa cần khoảng 32g
Bo.
Bảng 2.1. Lượng dinh dưỡng cây lấy đi để tạo ra 1 tấn thóc
Chất
dưỡng

dinh Lượng dinh dưỡng lấy đi (kg) để tạo ra 1 tấn thóc
Tổng cộng
Hạt
Rơm rạ

N

22,2

14,6

7,6


P2O5

7,1

6,0

1,1

K2O

31,6

3,2

28,4

CaO

3,9

0,1

3,8

10


MgO

4,0


2,3

1,7

S

0,9

0,6

0,3

Si

51,7

9,8

41,9

Cl

9,7

4,2

5,5

Chất

dưỡng

dinh Lượng dinh dưỡng cây lấy đi (g) để tạo ra 1 tấn thóc
Tổng cộng
Hạt
Rơm rạ

Cu

27,0

20,0

7,0

Fe

350,0

200,0

150,0

Mn

370,0

60,0

310,0


B

32,0

16,0

16,0

(Nguồn: Trung tâm TTKHKT hố chất 1998-Theo tài liệu của Nguyễn Như Hà)

2.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ lúa gạo
2.2.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ lúa gạo trên thế giới
Cây lúa có khả năng thích nghi rộng với mơi trường, có thể trồng ở nhiều
vùng khí hậu và nhiều địa phương khác nhau.
Vùng trồng lúa phân bố rộng từ 53 vĩ độ Bắc (vùng Hắc Long Giang - Trung
Quốc) đến 35 vĩ độ Nam (vùng Australia).
Trên thế giới có khoảng 150 nước trồng lúa với diện tích khoảng 156 triệu
ha, nói chung cây lúa được trồng trên khắp thế giới, nhưng tập chung chủ yếu ở các
nước Châu Á chiếm khoảng 90% diện tích trồng lúa trên thế giới. Châu Phi chiếm
3,6%, Nam Mỹ 3,1%, Bắc và Trung Mỹ 2,3%, Châu Âu 1%, Australia 1%.
Tình hình sản xuất lúa trên thế giới được thể hiện qua bảng biểu sau:
Bảng 2.2. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới năm 2004-2008.
TT
1
2
3
4

Năm


Diện tích

Năng suất

Sản lượng

2004
2005
2006
2007

(triệu ha)
151,0
153,8
155,0
157,4

(tạ/ha)
40,2
41,0
42,3
43,1

(Triệu tấn)
606,0
630,6
655,7
678,4


11


5

2008

158,2
43,3
681,8
(Nguồn số liệu thống kê của FAO, năm 2008)

Số liệu trong bảng 2.1 cho thấy diện tích, năng suất và sản lượng lúa trên thế
giới đều tăng rất nhanh trong vịng 5 năm (2004-2008) qua cụ thể như sau:
Diện tích năm 2008 so với năm 2004 tăng: 4,6% = 7,2 triệu ha.
Năng suất năm 2008 so với năm 2004 tăng: 7,2% = 3,1 tạ/ha.
Sản lượng năm 2008 so với năm 2004 tăng: 11,1% = 75,8 triệu tấn.
Tuy nhiên mỗi khu vực khác nhau có sự biến động khác nhau về diện tích,
năng suất và sản lượng.
Bảng 2.3. Tình hình sản xuất lúa một số khu vực trên thế giới 2008
TT
1
2
3

Khu vực

Diện

tích Năng


suất Sản

lượng

(triệu ha)
(tạ/ha)
(Triệu tấn)
Châu Á
134,20
41,30
550,12
Châu Âu
0,69
69,50
4,10
Châu Phi
9,30
25,30
20,49
(Nguồn số liệu thống kê của FAO, năm 2008)

Qua bảng 2.3 cho thấy: Sản lượng lúa có sự khác biệt rất lớn giữa các vùng.
Nguyên nhân chủ yếu do điều kiện tự nhiên, khí hậu và trình độ canh tác cũng như
áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất khác nhau.
+ Châu Âu có diện tích sản xuất lúa nhỏ nhất là 0,69 triệu ha, nhưng năng
suất lúa lại cao hơn các châu lục khác, sản lượng lúa đã tăng lên 78-80% ở những
năm đầu thập kỷ 90. Hiện nay, Châu Âu là khu vực có năng suất lúa cao nhất, đặt
69,50 tạ/ha.
Nguyên nhân do tập trung chủ yếu vào các nước phát triển ở Châu Âu, có

trình độ khoa học kỹ thuật canh tác hiện đại.
+ Châu Á khơng chỉ là nơi có nguồn gốc cây lúa, mà cịn là nơi trồng lúa
chính của thế giới. Tuy có diện tích lớn nhất 134,20 triệu ha, chiếm 93,1% song
năng suất chỉ ở mức trung bình 41,30 tạ/ha.
+ Châu Phi có năng suất lúa thấp nhất với 25,30 tạ/ha. Qua đó ta thấy ở Châu
Phi tập trung chủ yếu ở các nước chậm phát triển, có trình độ khoa học kỹ thuật lặc
hậu, kém phát triển.
12


Ở Châu lục này nhu cầu về lương thực rất lớn do dân số đông, nhưng năng
suất và sản lượng lúa rất thấp, do vậy nạn đói xảy ra thường xuyên do thiếu lương
thực.
Đồng thời trong những thập kỷ vừa qua do tình hình nội chiến, sung đột sắc
tộc xẩy ra liên miên, dân số không ổn định, thêm vào đó là thời tiết khí hậu khắc
nhiệt cho nên vấn đề an ninh lương thực khơng ổn định, bình qn lương
thực/người rất thấp.
Bảng 2.4 Sản lượng lúa của 8 nước điển hình trên thế giới
TT
1
2
3
4
5
6
7
8

Tên quốc gia


Diện

tích Năng

suất Sản

lượng

(triệu ha)
(tạ/ha)
(Triệu tấn)
Ấn Độ
42,6
31,4
133,03
Trung Quốc
29,7
65,4
186,54
Indonesia
12,5
47,8
55,08
Thái Lan
9,5
26,8
24,91
Bangladesh
11,2
37,4

41,18
Việt Nam
7,7
50,0
36,53
Mianma
6,4
38,5
23,13
Nhật Bản
2,1
71,7
12,34
(Nguồn số liệu thống kê của FAO, năm 2008)

Sản xuất lúa trên thế giới phụ thuộc vào sản xuất lúa của 8 nước Châu Á vì:
Sản lượng lúa gạo của 8 nước này chiếm 82% tổng sản lượng lúa gạo trên thế giới.
Trong 8 nước, Ấn Độ là nước có diện tích sản xuất lúa lớn nhất, Trung Quốc
có sản lúa cao nhất, chiếm 29,83% tổng sản lượng lúa của thế giới, gấp 7,5 lần so
với sản lượng lúa của Thái Lan. Nhưng Trung Quốc là nước đơng dân nhất thế
giới, diện tích trồng lúa Trung Quốc lại ít (khoảng 29,7 triệu ha), do vậy bình quân
lương thực của Trung Quốc chỉ đạt 100kg/người/năm. Cho nên, để đảm bảo an
ninh lương thực các nhà khoa học Trung Quốc không ngừng nghiên cứu, sản xuất
ra các giống lúa lai có năng suất cao.
Năng suất lúa của Trung Quốc đã tăng từ 59,3 tạ/ha năm 1993 lên 65,4 tạ/ha
năm 2008. Qua đó ta thấy Trung Quốc là một nước có nền nơng nghiệp rất phát
triển và là nước điển hình trong sản xuất lúa lai.
Nhật Bản là nước có diện tích sản xuất lúa ít nhất trong 8 nước. Nhưng lại là
nước có năng suất cao nhất. Qua đó ta thấy trình độ khoa học kỹ thuật về thâm
13



canh lúa của Nhật Bản phát triển hiện đại. Hiện nay Nhật Bản đang quan tâm tới
việc sản suất lúa gạo chất lượng cao, đi sâu vào nghiên cứu đặc tính di truyền
nhằm tạo ra những giống lúa mới có năng suất cao, chất lượng tốt.
Thái Lan là nước có năng suất lúa thấp, nhưng lại là nước xuất khẩu gạo lớn
nhất thế giới. Với diện tích 9,5 triệu ha, sản lượng lúa là 24,91 triệu tấn, đáp ứng
30% nhu cầu gạo của thị trường thế giới. Đặc biệt là Thái Lan đã tạo ra được
những giống lúa thơm đặc sản, chất lượng cao.
2.2.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ lúa gạo tại Việt Nam
Việt Nam tự hào với nền văn minh lúa nước, đã từ lâu đời cây lúa gắn bó với
người dân Việt Nam, khơng chỉ ni sống con người Việt Nam mà còn đi sâu vào
đời sống tinh thần của người Việt Nam như các câu chuyện cổ tích, câu ca dao, câu
thơ...
Từ xa xưa, cha ông ta đã rất chú trọng đến phát triển sản xuất lúa như: Vua
Lê Đại Hành cày ruộng tịnh điền vào dịp đầu xuân đã gặp chum bặc, chum vàng.
Nhờ chính sách khuyến nơng đó mà cây lúa Việt Nam khơng ngừng phát triển.
Gạo Việt Nam đã có mặt trên thị trường quốc tế cách đây trên 100 năm. Năm
1880 Việt Nam xuất khẩu được 245.000 tấn gạo, năm 1890 xuất khẩu gạo 900.000
tấn, năm 1907 xuất khẩu được 0,2 triệu tấn trong đó Việt Nam xuất khẩu được 0,8
triệu tấn.
Thời điểm này Miền Bắc có 1,8 triệu ha, Miền Nam 2,7 triệu ha lúa nước,
năng xuất đạt trung bình 13 tạ/ha những năm sau đó do chiến tranh nên sản xuất
lúa bị trì chệ, năm 1945 nạn đói đã làm chết hơn 2 triệu người Việt Nam.
Từ sau ngày đất nước hồn tồn giải phóng 1975 do cơ chế quản lý tập trung,
bao cấp nên sản xuất lúa vấn chua được cải thiện. Đến khi nền kinh tế đất nước
chuyển từ cơ chế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường, nơng nghiệp Việt
Nam đã có những thay đổi lớn. Sản xuất lúa đã có những tiến bộ vượt bậc. Từ chỗ
nhập khẩu gạo chúng ta đã có gạo xuất khẩu và số lượng tăng dần hàng năm.
Bảng 2.5. Tình hình sản xuất lúa gạo ở Việt Nam

TT

Năm

Diện tích

Năng suất

Sản lượng

Xuất khẩu

(nghìn ha)

(tạ/ha)

(nghìn tấn)

(triệu tấn)

14


1
2
3

2006
2007
2008


7.324,80
53,09
35.849,50
7.207,40
52,24
35.942,70
7.414,30
53,74
38.725,10
(Nguồn số liệu thống kê của FAO, năm 2008)

6,40
8,00
8,62

Qua số liệu bảng trên cho thấy, từ năm 2006-2008 diện tích trồng lúa của cả
nước ta không ngừng tăng. Từ năm 2006-2007 diện tích khơng tăng và có xu
hướng giảm nhẹ, từ 7.324,80 ha xuống 7.207,40 ha. Xuất khẩu gạo không ngừng
tăng lên được thể hiện qua các năm: Năng suất tăng từ 53,09 tạ/ha năm 2006 lên
53,74 tạ/ha năm 2008. Sản lượng tăng từ 35.849,50 tấn năm 2006 lên 38.725,10
tấn năm 2008.
Có được thành tựu trên là do cơ chế chính sách của Đảng và Nhà nước ta đã
quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất lúa.
Do trình độ khoa học kỹ thuật của nước ta đã có bước phát triển, tiến bộ khoa
học kỹ thuật đã được áp dụng vào sản xuất gieo trồng, các giống lúa lai có tiềm
năng, năng xuất cao đã thay thế các giống lúa cũ địa phương năng suất thấp. Chế
độ đầu tư thâm canh đã thay đổi, cơ cấu mùa vụ hợp lý, tăng số hộ sản xuất trong
năm từ 01 vụ đến 02 vụ, công tác tưới tiêu, thuỷ lợi được quan tâm chú trọng.
2.3. Kỹ thuật bón phân cho lúa

2.3.1. Các loại phân bón sử dụng cho lúa
Lúa là cây trồng có phản ứng tốt với phân hóa học nên bón phân hóa học cho
lúa cho hiệu quả cao về năng suất. Trong thâm canh lúa, bón phân hữu cơ chủ yếu
nhằm ổn định hàm lượng mùn trong đất, tạo nền thâm canh nên có thể sử dụng các
loại phân hữu cơ khác nhau, kể cả rơm rạ lúa sau khi thu hoạch.
Các loại phân đạm thích hợp cho lúa là phân đạm amon, Ure đang trở thành
dạng phân đạm phổ biến đối với lúa nước vì có tỷ lệ đạm cao, lại rất thích hợp để
bón trên các loại đất thối hóa. Phân đạm Nitrat có thể dùng để bón thúc ở thời kỳ
làm địng, đặc biệt hiệu quả khi bón trên đất chua mặn.
Đất chua trồng lúa, bón phân Lân nung chảy thường cho kết quả ngang phân
Supe lân hay có thể cao hơn trong điều kiện ngập nước, dễ cung cấp cho lúa mà ít
bị rửa trơi và cịn cung cấp cả silic là yếu tố dinh dưỡng có nhu cầu cao ở cây lúa.
Loại phân kali thích hợp bón cho lúa là kaliclorua.
15


Ngồi ra, cịn thường dùng các loại phân NPK, đặc biệt tốt là loại phân
chuyên dùng cho lúa, phù hợp với điều kiện của từng vùng đất trồng. Thông
thường, liều lượng phân chuồng thường bón 7 - 10 tấn/ha, vụ Mùa nên bón nhiều
hơn. Liều lượng phân khống bón cho lúa phụ thuộc vào năng suất kế hoạch (đặc
điểm của giống, loại hình cây), độ phì của đất, các điều kiện khí hậu (mùa vụ) và
khả năng cân đối với các loại phân khác. Giống năng suất cao cần bón nhiều phân
hơn so với các giống lúa thường, lúa địa phương; Lúa vụ Xuân thường bón nhiều
hơn lúa vụ Mùa, trồng lúa trên đất có độ phì cao cần giảm lượng phân bón.
Lượng phân kali bón cho lúa phụ thuộc chủ yếu vào mức năng suất và khả
năng cung cấp kali của đất. Các mức bón trong thâm canh lúa trung bình là 30 – 90
kg K2O/ha, và mức bón trong thâm canh lúa cao là 100 – 150 kg K 2O/ha, trong đó
kali của phân chuồng và rơm rạ có hiệu suất khơng kém kali trong phân hóa học.
Trên đất phù sa sơng Hồng khi đã bón 8 - 10 tấn phân chuồng/ha thì chỉ nên bón 30
- 90 kg/ha phân kali khoáng, ngay cả trong điều kiện thâm canh lúa cao (Nguyễn

Như Hà, 2006) [9].
2.3.2. Phương pháp bón phân cho lúa
Nguyễn Như Hà (1999) [9] cho rằng thời kỳ bón đạm ảnh hưởng đến sinh
trưởng và năng suất lúa. Khơng thể có một hướng dẫn chung về thời kỳ bón đạm
cho tất cả các giống, mùa vụ và đất trồng. Bóm đạm sớm tạo nhiều bơng, bón đạm
muộn tăng hạt là chủ yếu, bón đạm vào giai đoạn địng làm tăng tỷ lệ protein trong
hạt. Thời kỳ bón phân đạm cho lúa thường gồm: bón lót và bón thúc đẻ nhánh,
thúc địng, ngồi ra cịn có bón ni hạt.
1) Bón phân lót cho lúa
Trong bón phân cho lúa thường bón lót tồn bộ phân chuồng và phân lân, một
phần phân đạm và kali. Thường bón lót phân chuồng trong quá trình làm đất, phân
lân, phân kali cùng với phân đạm bón trước khi cày bừa lần cuối.
Nên bón nhiều phân kali trong các trường hợp sau: trồng giống đẻ nhánh
nhiều hay ngắn ngày, lúa có hiện tượng bị ngộ độc sắt, đất có khả năng hấp thu cao
hay thiếu kali, mưa nhiều, ngập nước sâu, khí hậu lạnh. Trong thực tiễn cịn chia
tổng lượng kali ra bón thúc làm nhiều lần, do lúa là cây có yêu cầu cung cấp kali
16


và giai đoạn rễ lúa ăn nổi trên bề mặt đất. Kali cung cấp từ đất và nước tưới thường
giảm đi ở giai đoạn đẻ nhánh của cây lúa.
Thường sử dụng 1/3 - 2/3 tổng lượng N để bón lót cho cây lúa. Cần bón lót
nhiều đạm hơn khi cấy bằng mạ già, các giống lúa ngắn ngày, lúa chét (lúa mọc lại
từ gốc rạ).
2) Khơng bón phân lót cho lúa
Khơng bón phân lót cho lúa đang là hướng nghiên cứu mới của các nhà khoa
học hiện nay. Theo Phạm Văn Cường và Lusi Yologialong (2008) khi tiến hành thí
nghiệm với hai phương pháp bón đạm là bón lót kết hợp với cấy mật độ 45
khóm/m2 và phương pháp thứ hai là khơng bón lót kết hợp cấy với mật độ 35
khóm/m2 trên giống Việt Lai 24. Kết quả cho thấy năng suất hạt của giống Việt Lai

24 tăng từ 10,5 đên 12,8% (mức 120N) và 16,4 lên 21,3 (mức 60N) ở thí nghiệm
khơng bón lót.
3) Bón thúc đẻ nhánh
Bón phân thúc đẻ nhánh cho lúa thường bón bằng phân đạm, thời gian bón thúc
đẻ nhánh vào khoảng 18 - 20 ngày sau gieo hoặc sau khi lúa bén rễ hồi xanh, vào khoảng
10 - 20 ngày sau cấy (tùy thuộc vào mùa vụ) khi cây lúa bắt đầu đẻ nhánh.
Thường dành 1/2 - 2/3 lượng N còn lại để bón thúc đẻ nhánh nhằm làm cho
lúa đẻ nhánh nhanh, tập trung và giảm lượng phân bón lót, tránh mất đạm. Cần bón
thúc đẻ nhánh nhiều đạm cho lúa trong các trường hợp: cấy giống dài ngày, đẻ
nhánh nhiều, mật độ gieo hoặc cấy thưa, nhiệt độ khi gieo cấy cao. Với những giống
lúa cực ngắn, lúa mùa cần phải bón thúc đẻ nhánh sớm hơn, cịn với giống dài
ngày, lúa xuân có thể bón thúc muộn hơn, do thời kỳ sinh trưởng ban đầu của cây
lúa bị kéo dài.
Khi bón thúc đẻ nhánh có thể kết hợp với một vài biện pháp cơ giới như: rút
nước ra khỏi ruộng trước khi cấy, làm cỏ sục bùn (đặc biệt là trong vụ Xuân) để
tránh cây lúa bị nghẹt rễ.
4) Phân bón thúc địng
Có nhiều tác giả quan tâm khuyến cáo bón thúc địng để lúa đạt năng suất cao,
Bùi Huy Đáp (1999) [1]. Bón thúc địng cho lúa thường sử dụng phối hợp phần phân
17


đạm và kali còn lại nhằm tiếp tục cung cấp đạm cho lúa để tạo được bơng lúa to, có
nhiều dé/bông và nhiều hạt/dé, nâng cao hệ số kinh tế cho cây lúa, đạt năng suất cao.
Bón đón địng tốt nhất là bón sau khi lúa phân hóa địng (vào khoảng 40 - 45 ngày sau
khi gieo, cấy).
Đào Thế Tuấn (1970) [13] cho rằng bón đón địng nhằm tiếp tục cung cấp
ding dưỡng cho lúa sau trỗ bông để đạt năng suất cao. Ngồi ra cịn có tác dụng
giảm trọng lượng rơm rạ, tăng trọng lượng hạt nâng cao hệ số kinh tế cho cây lúa.
Khi bón ít đạm thì bón thúc địng là một kỹ thuật quan trọng để nâng cao hiệu suất phân

đạm và kéo dài tuổi thọ của lá. Những giống đẻ nhánh ít, bơng to, năng suất dựa vào số
hạt trên bơng thì cần phải chú trọng vào đợt bón đón địng và ni hạt để tạo được bông
to, nhiều hạt chắc, đạt năng suất cao.
Nên dùng phân kali bón thúc địng cho lúa trong các trường hợp sau:
Giống đẻ nhánh từ trung bình đến ít hay giống dài ngày, gieo cấy thưa; Đất có
điện thế oxy hóa khử rất cao, thành phần cơ giới rất nhẹ, hay trên đất phèn
(thiếu lân và ngộ độc sắt), đất kiềm (thiếu kẽm), lân bị keo đất cố định hay mưa
nhiều, bón đón địng là sự kết hợp giữa phân đạm và kali.
5) Bón phân ni hạt
Sau khi lúa trỗ thốt hồn tồn có thể bón ni hạt bằng cách phun các loại
phân bón lá 1 - 2 lần nhằm tăng số hạt chắc, tăng năng suất. Đây là thời kỳ bón
phân qua lá có hiệu quả rõ khi trồng lúa trên đất có thành phần cơ giới nhẹ, có khả
năng cung cấp dinh dưỡng và giữ phân kém.
6) Bón phân phối hợp NPK cho lúa
Mỗi một nguyên tố dinh dưỡng đều có một vai trị quan trọng trong đời sống
cây lúa. Tùy mùa vụ, tùy giai đoạn sinh trưởng, tùy loại đất và phương pháp sử
dụng khác nhau mà tác dụng và hiệu quả của các nguyên tố này đến cây lúa cũng
rất khác nhau. Rất nhiều các kết quả nghiên cứu cho thấy: Hiệu quả của các
nguyên tố dinh dưỡng được phát huy cao nhất khi các nguyên tố này được bón
phân phối hợp với nhau theo một tỷ lệ thích hợp.
Nghiên cứu về hiệu lực của việc bón phân phối hợp với NPK đến năng suất lúa
trên đất Phù sa Sông Hồng và đất bạc màu Thanh Hóa đã cho kết quả sau:
18


Bảng 2.6. Hiệu lực của việc bón phân phối hợp với NPK
Phù sa sơng Hồng
Cơng

Vụ


Vụ

Vụ

thức

Xn
Kg/ha
5970

Mùa
%
100

Xn
Kg/ha
4370

NP

4960

92,4

P

4660

K


4570

NPK

Đất ven biển Thanh Hóa
Vụ

Vụ

Vụ

Vụ

Vụ

Mùa Xn
%
Kg/ha
100 3380

Mùa
%
100

Xuân
Kg/ha
2760

Mùa

%
100

4010

91,8

2610

77,2

2160

78,3

86,7

3720

85,4

2290

67,2

2140

77,5

85,1


3610

82,6

2910

86,1

2640

96,7

Nguồn: Mai Văn Quyền (2012)
Số liệu ở bảng 2.6 cho thấy: trên đất phù sa sơng Hồng, khi bón riêng lẻ lân
hay kali, năng suất lúa chỉ bằng 85-87% của cơng thức bón phối hợp NPK. Chỉ có
bón đầy đủ NPK thì năng suất lúa mới đạt hiệu quảt cao nhất.
2.3.3. Vấn đề bón phân cân đối cho cây lúa
Bón phân cân đối cho lúa là tùy theo yêu cầu của cây lúa về các chất dinh
dưỡng và khả năng đáp ứng từng loại chất dinh dưỡng cho cây lúa của đất trồng
lúa cụ thể mà bón phân. Căn cứ định lượng để bón phân cho lúa: Vụ Mùa, vụ Hè
thu (mùa mưa) lượng đạm cần bón ít hơn so với vụ Xuân
Đối với những loại đất (cánh đồng) thường xuyên được phù sa bồi đắp
(chẳng hạn phù sa nhiều) hàm lượng kali trong đất cao thì bón kali với lượng thấp
và ngược lại. Đất nhẹ cần bón nhiều kali hơn đất nặng, đất phù sa bón ít kali hơn
đất xám. Đất cát, đất xám, đất bạc màu do hàm lượng kali thấp nên cần bón nhiều
kali hơn. Trong rất nhiều trường hợp, hiện tượng lốp đổ là một nguyên nhân khơng
cho phép được bón cho lúa tới lượng đạm tối đa. Nếu cây lúa đổ trước khi trỗ,
năng suất có thể giảm 50 - 60%. Giống lúa mới thấp cây có khả năng chống đổ tốt,
lượng đạm bón tối thích có thể bón ở mức cao hơn.

Nếu vừa thu hoạch hạt thóc, vừa lấy rơm rạ khỏi đồng ruộng thì bón phân
19


nhiều hơn, đặc biệt là kali, do khá nhiều kali bị lấy đi khỏi đồng ruộng theo rơm rạ.
Nhưng nếu khơng lấy rơm rạ ra khỏi đồng ruộng thì chỉ khoảng 5% lượng kali bị
lấy đi theo sản phẩm thu hoạch qua hạt. Khoáng trong đất, rạ và nước tưới là
nguồn kali cung cấp cho cây.
2.4. Tình hình nghiên cứu và sử dụng chế phẩm sinh học cho cây lúa
Trong sản xuất nơng nghiệp, sử dụng phân bón hóa học để tăng năng suất và
chất lượng nông sản là điều rất cần thiết. Tuy nhiên, sử dụng một lượng lớn phân
bón và lâu dài, vừa tốn nhiều chi phí đầu tư, gây ơ nhiễm mơi trường vì chỉ có 40 50% lượng đạm bón được cây hấp thu, phần cịn lại đi vào mơi trường đất, nước,
khơng khí,…gây ơ nhiễm, tiêu diệt các vi sinh vật hữu ích, làm chai đất, đặc biệt
gây độc hại cho con người nếu tồn dư trong thực phẩm. Hiện nay, cùng với xu thế
phát triển của xã hội mức sống của con người ngày được nâng cao, yêu cầu an toàn
thực phẩm là hàng đầu nên sản xuất nông sản theo hướng hữu cơ đang được quan
tâm để góp phần giảm ơ nhiễm mơi trường, tiết kiệm chi phí sản xuất. Hiện nay, sử
dụng phân bón sinh học đang là giải pháp được nhiều nước quan tâm trên thế giới.
Phân sinh học: Là sản phẩm có chứa các tế bào sống của các loại vi sinh vật khác
nhau có khả năng huy động các yếu tố dinh dưỡng trong tự nhiên từ dạng không có
thể sử dụng thơng qua q trình sinh học; là chất cần thiết được sử dụng cho đất để
tăng cường hoạt động của vi khuẩn trong vùng rễ đóng một vai trị quan trọng trong
các hệ thống tích hợp chất dinh dưỡng thực vật [70].
Vai trò của phân sinh học: Không gây ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe con
người, vật nuôi, cây trồng; không gây ô nhiễm môi trường sinh thái,có tác dụng cân
bằng hệ sinh thái, tăng độ phì nhiêu của đất, đồng hóa các chất dinh dưỡng, tăng
năng suất, chất lượng nơng sản phẩm. Bên cạnh đó, cịn có tác dụng tiêu diệt cơn
trùng gây hại, giảm thiểu bệnh hại, tăng khả năng đề kháng bệnh của cây trồng, có
khả năng phân hủy, chuyển hóa các chất hữu cơ bền vững [70].
Việc thay thế một phần phân đạm vô cơ bằng một số loại chế phẩm sinh học,

chế phẩm hữu cơ vi sinh không nhằm phát huy hết hiệu quả của phân đạm, tránh
lạm dụng đối với phân đạm vô cơ, sử dụng cân đối giữa phân vơ cơ với các thành
phần hữu cơ, vi lượng có trong phân sinh học. Điều này phù hợp với lý thuyết, rằng
20


phải tạo ra một cơ thể cây trồng khỏe, đáp ứng tốt với thay đổi của mơi trường
sống, có khả năng chống chịu cao thì sẽ làm tăng hiệu quả sử dụng phân đạm cũng
như góp phần tăng năng suất và đảm bảo an tồn, nâng cao chất lượng nơng sản
phẩm.
Sử dụng phân bón sinh học chính là định hướng cho việc áp dụng quy trình
nơng nghiệp hữu cơ, góp phần xây dựng quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn
VietGAP và xây dựng chiến lược sản xuất nông nghiệp bền vững. Chính vì vậy, bộ
Nơng nghiệp và Phát triển nơng thơn Việt Nam đã khuyến khích sử dụng phân sinh
học cho nông sản sạch [70].

21


PHẦN 3. VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Vật liệu nghiên cứu
- Giống : Giống lúa Thanh Hoa 04
- Đất thí nghiệm: Đất vàn thấp
- Phân chuồng, NPK Tiến Nơng: Lúa 1, Lúa 2 (chun lót, chun thúc)
- Chế phẩm sinh học Ambio:
Thành phần: Vi sinh vật cố định Ni tơ (1,5 x10 5); vi sinh vật phân giải phốt pho (3,2 x
105); vi sinh vật phân giải cellulose (2,0 x 104); enzym, N, Cu, Bo, Fe, Zn, Axit amin.
3.2. Nội dung nghiên cứu.
- Đánh giá được tình hình sản xuất lúa tại xã Xuân Quỳ, huyện Như Xuân,
tỉnh Thanh Hóa.

- Xác định được ảnh hưởng của phun chế phẩm chế phẩm sinh học Ambio
đến các chỉ tiêu sinh trưởng, phát triển, sâu bệnh hại, các yếu tố cấu thành năng suất
và năng suất của giống lúa Thanh Hoa 04 vụ mùa 2017 tại xã Xuân Quỳ, huyện
Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
- Xác định được hiệu quả kinh tế của việc phun chế phẩm sinh học Ambio
cho giống lúa Thanh Hoa 04 vụ mùa 2017 tại xã Xuân Quỳ, huyện Như Xuân, tỉnh
Thanh Hóa.
3.3. Phương pháp nghiên cứu.
3.3.1. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp.
Thu thập các tài liệu, số liệu hiện có liên quan đến tình hình sản xuất lúa (giống lúa,
diện tích, năng suất, sản lượng) và kỹ thuật bón phân cho lúa ở địa phương.
3.3.2. Phương pháp thí nghiệm đồng ruộng.
3.3.2.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu:
+ Địa điểm: Ruộng nhà ông Lường Công Kế, thôn Xuân Hương, xã Xuân
Quỳ, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa
+ Thời gian: vụ mùa năm 2017.
3.3.2.2. Bố trí thí nghiệm:
Thí nghiệm gồm 2 cơng thức
22


- Bảng thiết lập các công thức.
TT Ký hiệu CT
Nội dung công thức
1
CT1
10 tấn phân chuồng hoai mục + 500kg NPK 6-8-4 (bón lót) +
2

CT2


500 kg NPK 12-3-10 (bón thúc).
10 tấn phân chuồng hoai mục + 500kg NPK 6-8-4 (bón lót) +
500 kg NPK 12-3-10 (bón thúc) + chế phẩm sinh học Ambio

Lượng phân bón cho cơng thức đối chứng được xác định dựa trên cơ sở điều
tra hiện trạng bón phân cho lúa tại địa phương.
- Diện tích ơ thí nghiệm: 200 m 2 (10x20), khơng bố trí nhắc lại. Các ơ thí
nghiệm được đắp bờ (rộng 10 – 15cm, cao 20-25cm) và có hệ thống mương tưới,
tiêu nước đến từng ơ thí nghiệm.
Tổng diện tích thí nghiệm: 500 m2, trong đó: diện tích thực tế thí nghiệm là
400 m2, diện tích phi thí nghiệm là 100 m2.
Sơ đồ thí nghiệm
Dải bảo vệ
Dải

CT2

bảo vệ

Dải

bảo vệ

CT1

Dải bảo vệ
Chi chú:

CT1, CT2 : Công thức


3.3.3. Các biện pháp kỹ thuật áp dụng trong thí nghiệm.
- Kỹ thuật làm mạ:
+Làm mạ dược
+ Ngày gieo: 08/6/2017
+Tuổi mạ: 15 ngày
- Kỹ thuật làm đất ruộng cấy:
Ruộng lúa trước khi cấy phải được vạt bờ, dọn sạch cỏ dại để diệt trừ mầm
mống sâu bệnh. Cày sâu bừa kỹ cho đất nhuyễn, sạch cỏ dại, bằng phẳng để thuận
tiện cho việc tưới tiêu.
- Cấy:
+ Ngày cấy: 23/6/2017
23


+ Mật độ cấy: 40 khóm/m2; 2 dảnh/khóm.
- Kỹ thuật bón phân:
+ Cơng thức đối chứng: 10 tấn phân chuồng hoai mục + 500kg NPK 6-8-4
+ 500 kg NPK 12-3-10.
Bón lót: 10 tấn phân chuồng hoai mục + 500kg NPK 6-8-4
Bón thúc: 500kg NPK 12-3-10, bón rải đều trên mặt kết hợp làm cỏ sục bùn
khi lúa bắt đầu đẻ nhánh.
+ Cơng thức nghiên cứu: Bón lót 10 tấn các loại phân chuồng, 500kg NPK
6-8-4 + bón thúc 500kg NPK 12-3-10 + chế phẩm chê phẩm sinh học.
Bón lót: 10 tấn các loại phân chuồng, 500kg NPK 6-8-4
Bón thúc: 500kg NPK 12-3-10, bón rải đều trên mặt kết hợp làm cỏ sục bùn
khi lúa bắt đầu đẻ nhánh.
Sử dụng chế phẩm chê phẩm sinh học Ambio
1) Thời kỳ mạ
Sau khi gieo khoảng 5 đến 7 ngày. Dùng 4 chai (110ml) chế phẩm Ambio

pha với 300l nước phun cho 1 ha.
2) Bón lót trước khi cấy
Sau khi làm đất và bón phân NPK chuyên lót, dùng 4 chai (110ml) chế phẩm
Ambio pha với 300l nước phun đều trên mặt ruộng cho 1 ha.
3) Thời kỳ đẻ nhánh
Khi lúa bắt đầu đẻ nhánh, dùng 4 chai (110ml) chế phẩm Ambio pha với 300
l nước phun cho 1 ha.
4) Thời kỳ làm đòng
Khi lúa đứng cái làm đòng, dùng 4 chai (110ml) chế phẩm Ambio pha với
300 l nước phun cho 1 ha, phun ướt đều cả hai mặt lá.
Phun phân vào sáng sớm (trước 9 giờ sáng) và chiều mát (sau 4 giờ chiều).
- Chăm sóc: Tiến hành làm cỏ, phá váng lần 1, khi lúa bén rễ hồi xanh; lần 2
khi lúa đẻ nhánh kết hợp với bón phân thúc.
- Tưới nước:
+ Sau cấy tưới lớp nước 10cm để lúa chóng bén rễ hồi xanh.
24


+ Thời kỳ đẻ nhánh hữu hiệu tưới nông 3-5 cm để lúa đẻ nhánh mạnh và tập trung.
+ Thời kỳ đẻ nhánh vô hiệu rút nước phơi ruộng để ức chế đẻ nhánh vơ hiệu.
+ Thời kỳ làm địng, trỗ bông, vào chắc, tưới lớp nước 5-10cm.
+ Thời kỳ chín sữa rút nước để lúa chín đều, thuận lợi khi thu hoạch.
- Phòng trừ sâu bệnh: Thường xuyên kiểm tra đồng ruộng, phát hiện các loại
sâu bệnh hại để phun thuốc phòng, trừ kịp thời. Theo dõi cụ thể tình hình sâu bệnh
hại trước mỗi đợt phun thuốc.
- Thu hoạch: Khi có trên 85% số hạt trên bơng chín.
3.3.4. Các chỉ tiêu theo dõi và phương pháp theo dõi các chỉ tiêu.
3.3.4.1. Các chỉ tiêu sinh trưởng, phát triển.
Định kỳ theo dõi 30 ngày/lần để xác định các chỉ tiêu sinh trưởng, cụ thể như sau:
- Chiều cao cây (cm): Mỗi kỳ theo dõi cắt 3 khóm lúa. Đo chiều cao của tất cả các cây

trong khóm (từ cổ rễ đến mút lá hoặc đến đầu bơng). Tính chiều cao trung bình.
- Tốc độ tăng trưởng chiều cao cây (cm/kỳ theo dõi): bằng chiều cao cây kỳ sau trừ
đi chiều cao của kỳ trước đó.
- Số nhánh (nhánh/khóm): Đếm tồn bộ số nhánh của từng khóm qua các kỳ theo
dõi. Tính số nhánh trung bình/khóm.
Khi nhánh có một lá trở lên thoát khỏi bẹ lá của thân hoặc nhánh cũ thì được
coi là một nhánh.
Số nhánh trung bình/ khóm

Tổng số nhánh của các khóm theo dõi
Tổng số khóm theo dõi
(Nhánh/ khóm)
- Số nhánh hữu hiệu trung bình/ khóm (nhánh/ khóm):
=

Tổng số nhánh cho bơng của các khóm theo dõi
Tổng số khóm theo dõi
- Mật độ cây qua các kỳ theo dõi (cây/m 2): bằng số nhánh trung bình/khóm x số

Nhánh hữu hiệu

=

khóm/m2.
3.3.4.2. Chỉ tiêu sâu bệnh hại
- Sâu đục thân: Đếm toàn bộ số rảnh lúa bị chết ở thời kỳ từ đẻ nhánh đến làm
địng và số bơng bị bạc ở thời kỳ từ vào chắc đến chín. Tính tỷ lệ cây/bơng bị hại.

25



×