Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Những tác động của kinh tế chia sẻ tới thị trường lao động và hàm ý giải pháp cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (437.36 KB, 12 trang )

NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA KINH TẾ CHIA SẺ TỚI THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG
VÀ HÀM Ý GIẢI PHÁP CHO VIỆT NAM


ThS. Vũ Thị Thúy Hằng1

Tóm tắt: Bài viết giới thiệu nền kinh tế chia sẻ từ góc độ của nhiều chuyên gia như Botsman, Rogers, Bardhi &
Eckhardt, Belk, Gansky, Schor & Fitzmaurice, Dyal-Chand, Posen,... Có thể thấy rằng nhờ vào sự chia sẻ của nền
kinh tế, khơng cịn nguồn lực bị lãng phí. Tài ngun được tối đa hóa và tiêu dùng được giảm thiểu, thậm chí
loại bỏ được tư hữu. Tác giả cũng liệt kê được các tác động của nền kinh tế chia sẻ tới hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp và xã hội như: Tận dụng tối đa các nguồn lực; Phát triển một nền văn hóa tiêu dùng bằng niềm
tin, Đa dạng hóa vai trị cho các tổ chức và doanh nghiệp; Tạo áp lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp truyền
thống cung cấp sản phẩm dịch vụ cùng loại... Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính. Tác giả thu
thập dữ liệu thứ cấp từ các tạp chí, kỷ yếu hội thảo, sách tham khảo, chuyên khảo, báo cáo chuyên ngành đã
được công bố và kế thừa các nghiên cứu về kinh tế chia sẻ của chính tác giả. Tác giả xử lý dữ liệu bằng phương
pháp tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, so sánh, phân tích. Trên cơ sở các dữ liệu thứ cấp thu thập được và hướng
nghiên cứu thị trường lao động theo quy luật cung cầu, tác giả phân tích và tổng hợp được bốn nhóm tác động
chính của nền kinh tế chia sẻ tới thị trường lao động truyền thống là: i) Sự dịch chuyển về cơ cấu lao động; ii) Sự
thay đổi thu nhập và tần suất lao động; iii) Sự tác động vào động lực làm việc; iv) Sự tác động vào chính sách
lao động. Dựa trên phân tích những tác động, tác giả gợi ý ba nhóm giải pháp quản lý người lao động và các
nền tảng chia sẻ tại Việt Nam: i) Tập trung vào các khu vực đông dân cư hoặc sử dụng cách tính giá linh hoạt;
ii) Xếp hạng người lao động dựa trên sự tín nhiệm của người dùng và sự tuân thủ với các yêu cầu được đề nghị;
iii) Quản lý các nền tảng thông qua tài khoản tại ngân hàng.
Từ khóa: Kinh tế chia sẻ, Tác động của kinh tế chia sẻ tới thị trường lao động, Nền tảng trực tuyến, Người
lao động
Abstract: The article introduces the sharing economy from the perspective of many experts such as
Botsman, Rogers, Bardhi & Eckhardt, Belk, Gansky, Schor & Fitzmaurice, Dyal-Chand, Posen,... As can be
seen, the sharing economy save wasted resources. These resources are maximized and these consumptions
are minimized, even eliminating private ownership. The author also provides the impacts of the sharing
economy on business and social such as Maximizing the use of resources; Developing a consumer culture
by faith, Diversifying roles for organizations and businesses; Creating competitive pressure for traditional


businesses... The article uses qualitative research methods. The author collects secondary data from journals,
proceedings, books, and specialized reports that have been published. The author inherits my own research.
The author processes data by synthesizing, inductive, interpreting, comparing and analyzing methods.
Based on the secondary data collected, the author analyzes and synthesizes four main groups of impacts
E-mail: , Khoa Hệ thống thông tin kinh tế và Thương mại điện tử, Trường Đại học Thương mại.

1


526

QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
of the sharing economy on the traditional labor market: i) The impact on labor structure ; ii) The impact on
income and labor frequency; iii) The impact on work motivation; iv) The impact on labor policy. Based on the
analysis of impacts, the author suggests three groups management solution of worker sharing platforms in
Vietnam: i) Focus on densely populated areas or use flexible pricing methods; ii) Employee ratings based on
user trust and compliance with proposed requirements; iii) Managing platforms through bank accounts.
Keywords: Economic sharing; The impact of economy on labor market; Online platform; Employees.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trên thế giới, kinh tế chia sẻ là một chủ đề được nhiều chuyên gia quan tâm và đề cập trong
các tài liệu, ấn phẩm khoa học. Kinh tế chia sẻ là một phần tất yếu của nền kinh tế số, là kết quả
của ứng dụng đổi mới sáng tạo cho tăng năng suất của các ngành. Mô hình kinh tế chia sẻ tạo và
tăng hiệu quả kinh tế nhờ quy mơ. Trong bối cảnh tồn cầu hóa và cuộc cách mạng cơng nghiệp 4.0
ngày nay, q trình phân cơng sản xuất trong chuỗi giá trị tồn cầu sẽ kéo theo sự tái phân bổ lao
động và sự phụ thuộc lẫn nhau của thị trường lao động các quốc gia. Có thể thấy, thị trường lao
động là một trong những kênh chính giúp hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới. Thứ nhất,
những thay đổi về việc làm là kết quả của thay đổi cơ cấu kinh tế; Thứ hai, môi trường kinh doanh
(nơi tạo ra doanh nghiệp mới và nuôi dưỡng sáng kiến) phụ thuộc chủ yếu vào khả năng tạo việc
làm và tăng năng suất của thị trường lao động; và cuối cùng, lao động gần như là tài sản duy nhất

mà nước nghèo đang sở hữu. Đánh giá những tác động của nền kinh tế chia sẻ với thị trường lao
động truyền thống sẽ phần nào xác định rõ những thay đổi của nền kinh tế ở giai đoạn đầu tiên.
Bài viết tập trung giải quyết bốn vấn đề chính là: i) Giới thiệu về nền kinh tế chia sẻ và những
tác động tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và xã hội; ii) Thực trạng thị trường lao động
truyền thống trên Thế giới và tại Việt Nam hiện nay; iii) Những tác động của nền kinh tế chia sẻ
đến thị trường lao động truyền thống; iv) Hàm ý những chính sách cho thị trường lao động Việt
Nam. Bài viết được bố cục thành ba phần và năm mục. Phần đầu tiên của bài viết sẽ giới thiệu về
nền kinh tế chia sẻ, mô tả các tác động nền kinh tế chia sẻ tạo ra với doanh nghiệp và xã hội. Phần
thứ hai, tác giả sẽ mô tả khái quát thị trường lao động trên thế giới và tại Việt Nam, sự tác động của
nền kinh tế chia sẻ tới thị trường lao động nói chung, làm rõ những tương đồng và khác biệt giữa
thị trường lao động trong nền kinh tế chia sẻ và thị trường lao động truyền thống. Phần cuối cùng
rút ra những kết luận và hàm ý chính sách cho Việt Nam.
2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ KINH TẾ CHIA SẺ
2.1. Một số cách hiểu về Kinh tế chia sẻ

Khi đề cập đến kinh tế chia sẻ, nhiều chuyên gia cho rằng kinh tế chia sẻ (sharing economy)
hay còn gọi là tiêu dùng hợp tác (collaborative consumption) (Botsman, 2013; Botsman & Rogers,
2010a; Botsman & Rogers, 2010b), kinh tế truy cập (access-based consumption) (Bardhi & Eckhardt,
2012; Belk, 2014b), ‘the mesh’ (Gansky, 2010), tiêu dùng kết nối (connected consumption) (Dubois
et al., 2014; Schor, 2014, 2015; Schor & Fitzmaurice, 2015). Theo Dyal-Chand (2015), kinh tế chia
sẻ là hình thức các cá nhân chia sẻ tài sản thuộc sở hữu tư nhân, chia sẻ thông tin theo nhu cầu thị
trường. Theo Miller (2016), kinh tế chia sẻ là mơ hình kinh tế mà con người tạo ra và chia sẻ sản phẩm,


PHẦN 3: MÔI TRƯỜNG VẬN HÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TRONG DOANH NGHIỆP

527

dịch vụ, địa điểm, tài chính với những người khác. Bostman (2013) thì cho rằng kinh tế chia sẻ là
một mơ hình kinh tế trung gian qua Internet (Internet mediated economic model), được xây dựng

trên sự chia sẻ, trao đổi, giao dịch hoặc cho thuê sản phẩm và dịch vụ yêu cầu quyền sở hữu. Kinh tế
chia sẻ tạo điều kiện cho quyền sở hữu cộng đồng, sản phẩm địa phương, sự cộng tác, doanh nghiệp
quy mô nhỏ được hiện thực và sự tái sinh nền kinh tế, khuyến khích sự đổi mới, sự chia sẻ của cơ
sở vật chất không sử dụng (Posen, 2015). Các sản phẩm theo hình thức chia sẻ trong nền kinh tế chủ
yếu tập trung khai thác những nguồn lực sẵn có trong xã hội. Những nguồn lực này có thể khơng sử
dụng hoặc đang sử dụng chưa hết công suất. Thông qua nền tảng thông tin, các nhà kinh doanh tiến
hành phân bổ lại nguồn lực cho những người có nhu cầu. Chính vì vậy, sản phẩm này mang lại lợi
ích khá lớn cho nhà đầu tư và cho cả người tiêu dùng. Cũng chính nhờ vào sự chia sẻ của nền kinh tế,
mà khơng cịn năng lực nhàn rỗi hay nguồn lực bị lãng phí. Tài ngun được tối đa hóa và lãng phí
khơng đáng kể, tiêu dùng được giảm thiểu, thậm chí loại bỏ được tư hữu (Vu Thi Thuy Hang, 2017).
Khi bàn về kinh tế chia sẻ, Vu Thi Thuy Hang (2018) cho rằng có những tác động tới hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, xã hội nói chung như sau:
- Đẩy nhanh sự lưu thơng tài ngun: kinh tế chia sẻ khuyến khích tài nguyên tuần hoàn và
được sử dụng tới hết chu kỳ sống.
- Tận dụng tối đa các nguồn lực: các sản phẩm theo hình thức chia sẻ trong nền kinh tế chủ
yếu tập trung khai thác những nguồn lực sẵn có trong xã hội. Những nguồn lực này khơng sử dụng
hoặc sử dụng chưa hết công suất. Tài nguyên được tối đa hóa và lãng phí khơng đáng kể, tiêu dùng
được giảm thiểu, thậm chí loại bỏ được tư hữu.
- Phát triển một nền văn hóa tiêu dùng bằng niềm tin: nền kinh tế chia sẻ nâng tầm quan trọng
của việc xây dựng niềm tin, ngay cả giữa các đối thủ.
- Đa dạng hóa vai trị cho các tổ chức và doanh nghiệp: trước kia, một doanh nghiệp chỉ nhận
dạng là một nhà cung cấp dịch vụ hay nhà sản xuất. Với nền kinh tế này, vai trò của doanh nghiệp
được mở rộng hơn, thậm chí trở thành những nhà cố vấn đáng tin cậy. Điều này giúp cho các tổ
chức tiến gần với thị trường mục tiêu, hiểu hơn về khách hàng và thị trường của doanh nghiệp.
- Giảm chi phí cho xã hội, giảm ơ nhiễm mơi trường: do tận dụng được nguồn tài nguyên có
sẵn trong xã hội, các nhà kinh doanh không cần khai thác thêm nguồn tài nguyên mới, tiết kiệm
được chi phí sản xuất.
- Tăng lợi ích cho người tiêu dùng: dịng sản phẩm dịch vụ theo hình thức chia sẻ với chi phí
thấp và chất lượng không kém các sản phẩm truyền thống. Do đó, người tiêu dùng có cơ hội thỏa
mãn nhu cầu tiêu dùng nhiều hơn. Không chỉ thỏa mãn nhu cầu về số lượng mà còn mang lại trải

nghiệm độc đáo, thú vị.
- Tạo áp lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp truyền thống cung cấp sản phẩm dịch vụ cùng
loại: do tận dụng nguồn lực sẵn có đang lãng phí nên các nhà kinh doanh sản phẩm dịch vụ chia
sẻ tiết kiệm khá nhiều chi phí, theo đó giá cung cấp dịch vụ cũng thấp đi. Điều này ít nhiều sẽ ảnh
hưởng đến doanh thu, lợi nhuận của các doanh nghiệp kinh doanh truyền thống.
- Vấn đề về chính quyền: các sản phẩm dịch vụ theo hình thức chia sẻ không phải lúc nào cũng
được các nhà quản lý chấp nhận, đơi khi có thể vấp phải sự phản đối mạnh mẽ của chính quyền
địa phương.


528

QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0

- Vấn đề bảo mật: rủi ro này liên quan đến yếu tố tin cậy. Nếu một bên không giao hàng hoặc
chấm dứt hợp đồng sẽ có những hậu quả nghiêm trọng cần được giải quyết. Thực tế việc sử dụng
và chia sẻ thông tin trên Internet không chỉ là thông tin thanh tốn mà cịn liên quan thơng tin cá
nhân người dùng phải tiết lộ để được tham gia vào thị trường.
- Vấn đề tranh chấp: rủi ro này cao hơn với các doanh nghiệp hoạt động như bên thứ ba hoặc
trung gian trong các giao dịch của bên thứ hai. Các vấn đề liên quan đến hiệu lực bảo hiểm nếu cướp
bóc hoặc các vấn đề hình sự xảy ra, khi đó vai trị của doanh nghiệp trung gian cần phải được làm rõ.
2.2. Tiếp cận thị trường lao động theo góc nhìn của kinh tế chia sẻ

Thị trường lao động là sự trao đổi hàng hóa, sức lao động giữa những người sở hữu sức lao
động và những người cần thuê sức lao động. Về cơ bản, thị trường lao động cũng chịu sự tác động
của quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật độc quyền. Trong bài viết này, tác giả tiếp cận
thị trường lao động theo quy luật cung cầu. Theo hướng nghiên cứu này, thị trường lao động được
tạo thành từ ba bộ phận chính là cung, cầu của thị trường lao động và giá cả sức lao động (mức
tiền công, tiền lương). Cung lao động là tập hợp những người có khả năng và có nhu cầu làm việc.
Họ có thể đang có việc làm hay tạm thời khơng có việc làm hoặc đang đi tìm việc. Cầu lao động là

lượng lao động mà người sử dụng lao động có thể được thuê ở mỗi mức giá có thể chấp nhận được.
Cầu lao động phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nguồn tài ngun, quy mơ, trình độ cơng nghệ, cơ
cấu ngành nghề của nền kinh tế, mức tiền công, phong tục tập quán, tôn giáo,… Sự tác động qua
lại giữa cung và cầu về lao động hình thành giá cả sức lao động. Giá cả sức lao động được thể hiện
trực tiếp ở khoản thù lao mà người lao động được nhận.
Theo hướng tiếp cận về cung, cầu, giá cả lao động, bài viết tập trung nghiên cứu các tác động
của kinh tế chia sẻ tới thị trường lao động như sau:
- Có sự dịch chuyển về cơ cấu lao động: kinh tế chia sẻ giúp mở rộng đối tượng tham gia lao
động (sinh viên, người làm việc bán thời gian, nội trợ, người thất nghiệp), thay đổi cơ cấu về giới
tính, độ tuổi tham gia lao động (tăng lao động nữ và tăng đối tượng lao động dưới 40 tuổi, lao động
có trình độ học vấn cao,…).
- Sự thay đổi thu nhập của người lao động: vì thời gian làm việc linh hoạt, khung giờ đa dạng,
thu nhập của người lao động trong nền kinh tế chia sẻ cũng đến từ nhiều nguồn, từ nhiều nền tảng
khác nhau. Lao động tại thị trường ảo có nhiều kỹ năng hơn, có khả năng kiếm được nhiều tiền hơn
so với thị trường truyền thống.
- Sự tác động tới tần suất lao động: mức độ chuyển đổi công việc khác khi nền kinh tế chia sẻ
xuất hiện và các công việc mới đang được tạo ra là rất đáng chú ý. Tuy nhiên, thời gian lao động
thực hiện công việc định kỳ theo tuần, theo tháng hoặc sáu tháng một lần có sự phân hóa rõ ràng.
- Sự tác động vào động lực làm việc: Các nền tảng chia sẻ linh hoạt thời gian, người lao động
được tự do quyết định thời gian làm việc.
- Sự tác động vào chính sách lao động: Các nền tảng hợp tác trực tuyến thường tự coi là trung
gian giữa người dùng và người lao động. Một số nền tảng không chịu trách nhiệm nộp thuế thu
nhập cá nhân cho người lao động và đóng góp an sinh xã hội. Do đó, chính sách lao động của các
nền tảng cũng khác biệt so với thị trường truyền thống.


PHẦN 3: MÔI TRƯỜNG VẬN HÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TRONG DOANH NGHIỆP

529


3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính nhằm tìm hiểu sâu sắc về kinh tế chia sẻ
và sự tác động của kinh tế chia sẻ với thị trường lao động. Đây là phương pháp nghiên cứu hướng
đến ý nghĩa các khái niệm, định nghĩa, đặc điểm và sự mô tả đối tượng nghiên cứu. Về cơ bản,
nghiên cứu định tính có tính chất diễn giải. Lý giải dữ liệu bao gồm việc mô tả bối cảnh, phân tích
tình huống thành các chủ đề và diễn giải, rút ra kết luận, phát biểu thành bài học rút ra và đặt ra
những câu hỏi sâu xa hơn (Wolcott, 1994). Bài viết sử dụng phương pháp thu thập dữ liệu và xử
lý dữ liệu như sau:
Phương pháp thu thập dữ liệu: tác giả sử dụng phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp từ các bài
viết tạp chí, kỷ yếu hội thảo, sách tham khảo, chuyên khảo, báo cáo chuyên ngành đã được công
bố. Tác giả kế thừa các nghiên cứu về kinh tế chia sẻ của chính tác giả.
Phương pháp xử lý dữ liệu và lý giải: từ những dữ liệu đã thu thập được, bằng phương pháp
tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, so sánh, phân tích để xử lý dữ liệu phục vụ cho bài viết.
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Toàn cảnh thị trường lao động thế giới và Việt Nam hiện nay

Theo International Labour Organization (2018), nền kinh tế thế giới duy trì tỷ lệ thất nghiệp
tiếp tục ở mức 5,5% trong năm 2018, giảm nhẹ so với 5,6% của năm 2017. Số liệu tích cực này
có được là do dự báo kinh tế thế giới tiếp tục duy trì đà tăng trưởng khả quan từ năm ngoái. Tuy
nhiên, ILO cũng cho rằng khi cách mạng cơng nghệ 4.0 hay sự phát triển của trí tuệ nhân tạo cũng
là một thách thức không nhỏ đối với cơ hội việc làm.
Theo ông Guy Ryder – Giám đốc ILO, vấn đề cốt lõi nằm ở thực trạng dư thừa “việc làm thứ
cấp”, trong đó người lao động khơng được ký hợp đồng lao động chính thức hoặc  người làm th
được hưởng rất ít hoặc thậm chí khơng được hưởng chế độ bảo trợ xã hội nào, khơng có thêm các
điều khoản đãi ngộ trong hợp đồng lao động. 
Còn theo nhà kinh tế Stefan Kühn của ILO, tác giả phụ trách báo cáo trên, tại các quốc gia đang
phát triển, tiến triển trong nỗ lực giảm bớt tình trạng có việc làm nhưng vẫn cực nghèo quá chậm,
mức 114 triệu người trong những năm tới, ảnh hưởng tới 40% tổng số người có việc làm trong năm
2018. Theo số liệu của Tổ chức phi chính phủ Oxfam, có tới 82% số tài sản tồn cầu trong năm ngối
thuộc về người giàu, vốn chỉ chiếm 1% dân số thế giới. Trước thực trạng trên, Tổng Giám đốc ILO

cho rằng việc nới rộng các lợi ích tăng trưởng kinh tế vẫn là ưu tiên hàng đầu. Do đó, cần thêm nhiều
những nỗ lực để đảm bảo lợi nhuận kinh tế được phân bổ một cách công bằng.
Tại Việt Nam, theo Thứ trưởng lao động, thương binh và xã hội Doãn Mậu Diệp cho biết
những điểm sáng nổi bật của thị trường lao động thời gian qua bao gồm việc chuyển dịch theo
hướng tốt hơn, số người làm cơng ăn lương, có quan hệ lao động tăng dần. Tỉ lệ người trong độ tuổi
lao động tham gia lực lượng lao động vẫn duy trì ở mức cao, khoảng 76%. Năm 2017, cả nước đã
tạo việc làm cho gần 1,6 triệu người. Tỉ lệ thất nghiệp của Việt Nam cũng ở mức thấp so với khu
vực, trong đó tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị chỉ khoảng hơn 3%. Chất lượng việc làm, thu
nhập của người lao động đều đặn được tăng lên, mức độ phân biệt giữa việc trả công cho lao động
nam và nữ cũng được thu hẹp. Theo dự báo, từ nay đến năm 2025, lực lượng lao động Việt Nam tăng


530

QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0

1,28%/năm. Lực lượng lao động xã hội sẽ tăng từ gần 55 triệu người năm 2017 lên 62 triệu người
vào năm 2025. 
Cũng theo Thứ trưởng Diệp, cách mạng công nghiệp lần thứ 4 với sự bùng nổ ứng dụng
Internet, công nghệ số, thiết bị thông minh, robot vào sản xuất và các mơ hình kinh tế mới như hiện
nay đang đặt ra nhiều thách thức cho thị trường lao động Việt Nam. Việt Nam có thể phải chịu sức
ép về vấn đề giải quyết việc làm và đối mặt với sự gia tăng tỷ lệ thất nghiệp hoặc thiếu việc làm
vì nước ta có quy mơ dân số lớn nhưng chất lượng lao động thấp. Trong bối cảnh như vậy, vấn đề
quan trọng nhất là phải chuẩn bị nhân lực, trang bị cho người lao động các kỹ năng mới, nâng cao
chất lượng đào tạo, ngoại ngữ, lao động chất lượng cao, khắc phục tình trạng thừa - thiếu cục bộ,
chú trọng công tác dự báo hướng nghiệp để chuẩn bị cho cuộc cách mạng cơng nghiệp 4.0.
4.2. Phân tích những tác động của kinh tế chia sẻ tới thị trường lao động

Dữ liệu về quy mô và sự tăng trưởng của các lĩnh vực trong nền kinh tế chia sẻ cho đến nay là
chưa đủ để cung cấp một số liệu tổng hợp trên toàn thế giới. Nguyên nhân là bởi nền kinh tế chia

sẻ: i) Khơng có danh mục chính thức; ii) Khơng cung cấp nghề nghiệp tồn thời gian cho hầu hết
những người tham gia; iii) Nền kinh tế chia sẻ nói chung chưa được ghi nhận và báo cáo (Coyle,
2016). Trên thực tế, nhiều người tham gia thị trường này không coi các hoạt động của họ là cơng
việc chính thức. Trong mục này của bài viết, tác giả sử dụng dữ liệu từ nguồn thứ cấp từ các báo
cáo chuyên ngành đã công bố, từ báo cáo của các nền tảng riêng lẻ như Uber, Grab, Airbnb, Now,
ListMinut… để phân tích những tác động của nền kinh tế này tới thị trường lao động.
Căn cứ vào quy luật cung cầu, giá cả của thị trường lao động đã được đề cập trong lý thuyết,
tác giả phân tích tác động của kinh tế chia sẻ theo các hướng nghiên cứu sau:
4.2.1. Sự dịch chuyển về cơ cấu lao động
Sự ra đời của nền kinh tế hợp tác, kết hợp với trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn và công nghệ in
3D, tạo nên cuộc cách mạng công nghiệp thứ tư (Schwab, 2015). Rất nhiều người lo sợ nền kinh tế
chia sẻ sẽ thay đổi cơ cấu lao động hiện nay. Theo các cuộc khảo sát được thực hiện ở Mỹ và Anh
cho thấy, khoảng 29% người trưởng thành, đã làm việc ít nhất một lần trong nền kinh tế chia sẻ.
Lao động trên các nền tảng chia sẻ thường hoạt động trên nhiều nền tảng khác nhau. Trung bình
họ thường làm việc cho hai loại dịch vụ khác nhau trên một nền tảng hoặc hai nền tảng khác nhau
(theo số liệu của Hoa Kỳ).
Việc tham gia vào nền kinh tế chia sẻ tạo cơ hội cho một nhóm lao động cụ thể, những có
thể là người sống cách xa thị trường lao động. Ví dụ, người thất nghiệp và sinh viên có thể được
hưởng lợi từ việc làm không cố định thời gian thông qua các nền tảng. Trên thực tế, lao động trên
các nền tảng chia sẻ trực tuyến thường trẻ hơn và một số quốc gia có người dân tộc thiểu số. Đối
với những người trẻ tuổi và những người thất nghiệp, các nền tảng chia sẻ có thể cung cấp cơ hội
để tích lũy kinh nghiệm. Theo một cuộc khảo sát của Hall & Krueger (2015) với 600 tài xế Uber
ở Mỹ gần một nửa số tài xế Uber (49,2%) dưới 40 tuổi, trong khi độ tuổi này trong truyền thống
là 28,4%. Các tài xế Uber (47,7%) cũng có trình độ học vấn cao hơn (có bằng Đại học) so với tài
xế taxi thơng thường (18,8%). Tỷ lệ lái xe Uber là phụ nữ là 13,8% so với tài xế thông thường
là 8%. Tại Việt Nam, số lượng nhân sự của Grab là 450 người sau bốn năm có mặt tại thị trường
và 135.450 nhân viên và đối tác, trong đó 87% tài xế là nam giới. Số lượng tài xế của Grab dưới


PHẦN 3: MÔI TRƯỜNG VẬN HÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TRONG DOANH NGHIỆP


531

40 tuổi chiếm gần 50%. Như vậy có thể thấy, lái xe cho các nền tảng chia sẻ nói chung, đặc biệt là
các hãng taxi điện tử nói riêng là những người trẻ hơn, có trình độ học vấn cao hơn, số lượng phụ
nữ cao hơn so với lái taxi thông thường.
4.2.2. Sự thay đổi thu nhập và tần suất lao động
* Sự thay đổi thu nhập của người lao động
Các nền tảng chia sẻ hoạt động hầu hết với tư cách đại lý, nghĩa là thành viên (người lao động/
người chia sẻ) không thuộc các nền tảng mà chỉ được nhận một khoản phí cho mỗi nhiệm vụ mà
họ thực hiện. Hầu hết người lao động tham gia nền tảng đều làm việc với các khung giờ đa dạng.
Tiền công họ nhận được chủ yếu dựa vào khả năng thực hiện dịch vụ.
Hình 1: Thu nhập trên các nền tảng chia sẻ (€ mỗi giờ)

Nguồn: Berg (2016), Eurostat (2016), De Groen et al. (2016) and Hall & Krueger (2015)

Khi so sánh lao động trong nền kinh tế chia sẻ và lao động truyền thống có thể thấy: lao động
tại thị trường ảo có nhiều kỹ năng hơn, có khả năng kiếm được nhiều tiền hơn (dựa trên so sánh
mức lương tối thiểu và thu nhập trung bình mỗi giờ theo CoContest ở Ý tổng hợp). Tuy nhiên, số
liệu này chỉ có ý nghĩa tương đối. Vị trí và khả năng đóng vai trò quan trọng trong việc phân bổ lao
động tại thị trường ảo. Giả thuyết là mức thù lao hàng giờ của ListMinut có thể đại diện cho mức
tiền cơng của thị trường lao động chia sẻ. Có thể thấy mức thu nhập của thị trường trực tuyến và
ngoại tuyến mỗi giờ khá tương đương nhau trong tất cả các lĩnh vực như Hình 2:
Hình 2: Tổng thu nhập trung bình mỗi giờ theo danh mục của ListMinut

Nguồn: De Groen, Maselli & Fabo (2016)

Bảng trên thống kê thu nhập trung bình mỗi giờ cho 10 hoạt động chính với 2.394 nhiệm
vụ được thực hiện trên nền tảng ListMinut trong khoảng thời gian từ tháng 12/2013 đến tháng



532

QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0

12/2015. Các danh mục ListMinut khớp hoặc gần nhất với các danh mục trong cơ sở dữ liệu của
Wage Indicator. Thu nhập trung bình mỗi giờ của tài xế Uber (17,5$) cao hơn so với các tài xế taxi
thông thường (10,94$) (De Groen, Maselli & Fabo - CBS, 2016).
Theo báo cáo khác của Burston-Marsteller, Aspen Institute & Time (2015), 70% số lao động cho
rằng kinh tế chia sẻ, đóng góp dưới 40% thu nhập của họ. 21% số lao động còn lại cho rằng các nền
tảng chia sẻ đóng góp 40 đến 59% thu nhập. Gần 10% chỉ ra rằng 60% đến 100% thu nhập của họ đến
từ các nền tảng chia sẻ. Chỉ 1% lao động cho biết họ có được tất cả thu nhập từ nền tảng chia sẻ. Theo
Harris & Krueger (2015) ước tính ở Mỹ có khoảng 6 triệu lao động tạo nên nền kinh tế hợp tác, tương
đương 0,4% tổng số việc làm. Tại Liên minh châu Âu, có khoảng 100.000 cơng nhân đang hoạt động
trong nền kinh tế này. Hầu hết những công nhân này (khoảng 65.000) hoạt động thông qua Uber.
* Sự tác động tới tần suất lao động
Để tìm hiểu đầy đủ hơn về tác động của kinh tế chia sẻ đối với tần suất lao động, điều quan
trọng là phải tính đến sự mất việc và mức độ chuyển sang các công việc thông thường khác khi
nền kinh tế này xuất hiện. Tuy nhiên, hiện tại khơng có ước tính đáng tin cậy nào về các việc làm
bị dịch chuyển, điều này gây khó khăn cho việc ước tính các cơng việc đang được tạo ra. Ví dụ,
Uber tuyên bố rằng họ cạnh tranh với các dịch vụ taxi, nhưng trên thực tế, họ chủ yếu cạnh tranh
với các chủ sở hữu xe hơi (Krugel, 2016). Mặc dù trước đây một số ý kiến cho rằng các tài xế taxi
Uber đang thay thế các tài xế hiện tại, nhưng sau đó một số ý kiến khác lại cho rằng nền tảng này
góp phần tạo ra nhiều việc làm thêm.
Về cường độ lao động, có thể thấy các nền tảng hợp tác trực tuyến hầu hết được tổ chức thông
qua các thành viên. Thành viên/ người lao động trên các nền tảng không phải là nhân viên của
doanh nghiệp, nên các nền tảng không thể bắt buộc họ báo cáo công việc hàng ngày. Mặc dù phức
tạp nhưng vẫn có một ước tính được đưa ra về số lượng lao động tích cực ở EU trong nền kinh
tế hợp tác. Ước tính này dựa trên cách tiếp cận của Harris & Krueger (2015). Theo ước tính này,
cường độ lao động của thành viên trên các nền tảng tương đối hạn chế. Trung bình khoảng 30%

người lao động cung cấp dịch vụ một vài lần một năm, 30% khác cung cấp dịch vụ hàng tháng và
30% là hàng tuần. Chỉ khoảng 10% người lao động cung cấp dịch vụ của họ hàng ngày. Ở Anh, số
liệu hơi khác ở Mỹ. Gần 2/3 số lao động qua các nền tảng cung cấp dịch vụ chia sẻ hai năm một
lần hoặc ít hơn. Khoảng 1/10 số lao động cung cấp ít nhất một lần một tuần (xem Hình 3).

Hình 3. Tần suất lao động trên các nền tảng chia sẻ
Nguồn: Burston-Marsteller, Aspen Institute & Time (2015) and Huws & Joyce (2016)


PHẦN 3: MÔI TRƯỜNG VẬN HÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TRONG DOANH NGHIỆP

533

Hình (a) cho thấy tần suất lao động theo ngày, tuần, tháng, năm của các loại hình lao động Mỹ
cung cấp trên nền tảng kinh tế chia sẻ. 3.000 đáp viên được khảo sát trực tuyến vào tháng 11 năm
2015 để ước tính cho toàn bộ dân số. Tỷ lệ sử dụng nền tảng chia sẻ để đi chung xe, dịch vụ phân
phối, thuê căn hộ theo tháng nhiều hơn theo tuần và ngày. Khảo sát tại Anh (Hình (b)) được thực
hiện vào tháng 1 năm 2016 với 2.238 câu trả lời. Có thể thấy tất cả các ngành được thực hiện trên
nền tảng chia sẻ định kỳ theo tuần, sáu tháng một lần (biannual) hoặc ít hơn.
4.2.3. Sự tác động vào động lực làm việc
Các nền tảng chia sẻ linh hoạt thời gian và kỹ năng cho người lao động. Người lao động có
thể tự do quyết định khi nào cung cấp dịch vụ mà không cần bất kỳ nghĩa vụ nào. Theo nhiều nhân
viên trên Amazon Mechanical Turk và CrowdFlower được khảo sát bởi Berg (2016), họ cho rằng
khả năng làm việc tại nhà, thêm thu nhập hoặc được linh hoạt thời gian làm việc là những lý do
quan trọng khi lựa chọn hình thức lao động này.
Các số liệu ở (Hình 4) cho thấy năm động lực hàng đầu của người lao động phổ thông khi
cung cấp dịch vụ trên nền tảng kinh tế chia sẻ là: thêm thu nhập, kiếm được nhiều tiền hơn, thích
độc lập, thích sự linh hoạt của kinh tế chia sẻ, thích được làm chủ. Đối với lao động năng động và
nhiều động lực (motivated worker) thì động lực chính của họ khi tham gia nền kinh tế chia sẻ là:
nền tảng chia sẻ cung cấp nguồn thu thập chính (40% thu nhập hàng tháng của họ), khơng tìm thấy

cơng việc tương tự ở thị trường truyền thống, thích sự linh hoạt, thích được độc lập và muốn được
tự lên lịch trình của mình.

Hình 4: Năm động lực hàng đầu của lực lượng lao động chia sẻ tại Mỹ
Nguồn: Burston-Marsteller, Aspen Institute & TIME (2015)

Hầu hết lao động trong thị trường chia sẻ đều được coi là những người làm việc tự do vì họ
kiếm tiền từ mối quan hệ bên ngoài giữa người lao động và người sử dụng lao động. Do đó, thị
trường lao động chia sẻ thường có hai nhóm lao động chính là freelancers và not employees. Theo
một khảo sát khác tại Mỹ, những người muốn tham gia vào thị trường này vì 10% chỉ có thể làm
việc tại nhà, 19% thích làm việc tại nhà, 8% khơng thể tìm được việc làm khác và 6% coi cơng việc
này là hình thức giải trí (Berg, 2016).
4.2.4. Sự tác động vào chính sách lao động
Các nền tảng hợp tác trực tuyến thường tự coi mình là trung gian giữa người dùng và người
lao động chứ không phải là chủ lao động như thị trường truyền thống. Điều này có nghĩa rằng các


534

QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0

nền tảng không chịu trách nhiệm nộp thuế thu nhập cá nhân cho người lao động và đóng góp an
sinh xã hội. Chỉ có 15% số người tham gia khảo sát thị trường do TNS Sofres thực hiện ở Pháp
báo cáo thu nhập có được thơng qua nền kinh tế hợp tác, 15% dịch vụ không được khai báo ở các
quốc gia như Thụy Điển và tới 70% ở Ý và Tây Ban Nha, thậm chí 90% ở Đức (Farvaque, 2013).
Về phía người lao động, họ cho rằng nền tảng chỉ cung cấp nguồn thu nhập khơng thường
xun ngồi thu nhập từ cơng việc chính. Vì họ đã được bảo vệ an sinh xã hội thơng qua cơng việc
chính nên nhiều trường hợp không khai báo thu nhập thông qua các nền tảng này.
Hiện nay, tùy theo hệ thống thuế, an sinh xã hội giữa các quốc gia, tùy theo thu nhập, vị trí
việc làm của người lao động thì số tiền đóng góp thuế và an sinh xã hội của người lao động sẽ khác

nhau. Tám quốc gia có thành viên tham gia nền kinh tế chia sẻ cao nhất là Bỉ (BE), Đức (DE), Tây
Ban Nha (ES), Pháp (FR), Ý (IT), Hà Lan (NL), Ba Lan (PL) và Vương quốc Anh (UK). Các quốc
gia này đã nỗ lực xác định các yêu cầu tối thiểu của người lao động khi tham gia nền tảng hợp tác
trực tuyến là cần phải đăng ký, cần quản lý thu nhập và thanh toán thuế, an sinh xã hội với cơ quan
thuế/quỹ an sinh xã hội hoặc đăng ký cơng ty. Hình 5 cung cấp thơng tin chi tiết:

Hình 5: Các u cầu tối thiểu với lao động khi tham gia nền kinh tế chia sẻ
Lưu ý: Tỷ giá của GBP và PLN được báo cáo số đặc biệt
của CEPS tham chiếu theo tỷ giá hối đoái ngày 2/5/2016
Nguồn: CEPS Special Report No. 138/ June 2016

Tại ba quốc gia Bỉ, Đức và Ý, người lao động không cần phải đăng ký khi bắt đầu cung cấp
dịch vụ thông qua các nền tảng kinh tế chia sẻ. Các nước cịn lại trong hình trên đều phải đăng ký
với cơ quan thuế/quỹ an sinh xã hội hoặc đăng ký với cơng ty. Ngồi Pháp thì các quốc gia khác
đều miễn phí khi đăng ký tham gia. Việc đăng ký này khiến sự tham gia vào nền kinh tế chia sẻ
trở nên có kiểm sốt hơn. Các chi phí cần phải được ghi chép và hoạch tốn (trừ Pháp). Một nửa
số quốc gia được thống kê, người lao động chỉ cần trả thuế thu nhập cho thu nhập rịng của họ
(ví dụ: Bỉ, Đức, Ý và Hà Lan). Một số quốc gia vẫn cần nộp đơn yêu cầu miễn thuế. Theo báo cáo,
số tiền mà người lao động có thể kiếm được từ 1,439€ [BE] đến 8,652€ [DE] mỗi năm, từ 7.551€
[Anh] và 34.500€ [PL].


PHẦN 3: MÔI TRƯỜNG VẬN HÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TRONG DOANH NGHIỆP

535

5. KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý GIẢI PHÁP CHO VIỆT NAM
Bài viết đã trả lời giải quyết bốn vấn đề chính từ mục Đặt vấn đề. Tuy nhiên, hầu hết các nền
tảng chia sẻ vẫn cịn đang trong giai đoạn tìm kiếm mơ hình kinh doanh lý tưởng để kích thích tăng
trưởng. Có thể sẽ cịn những thay đổi đáng kể hơn nữa trong tương lai. Nghiên cứu này chỉ đánh giá

sơ lược các yêu cầu đầu vào tại các quốc gia có lực lượng lao động chia sẻ lớn nhất trên thế giới.
Bối cảnh trong nước cũng có nhiều thuận lợi đan xen với những khó khăn mới. Nền kinh tế
tiếp tục mở cửa tạo điều kiện phát huy tốt hơn những thế mạnh trong nước nhưng cần khắc phục
những hạn chế kìm hãm nhu cầu nội địa và, các tiêu chuẩn hàng hóa, tiêu chuẩn lao động, giải
quyết việc làm nhưng yêu cầu phải bền vững, thể chế thị trường lao động tiếp tục cần hoàn thiện
để phù hợp với thơng lệ quốc tế. Từ những phân tích trên, tác giả gợi mở các giải pháp quản lý các
nền tảng chia sẻ và quản lý người lao động tham gia nền tảng chia sẻ tại Việt Nam như sau:
- Sự tự do/ linh hoạt của người lao động sẽ làm giảm hiệu quả của nền tảng. Nghiên cứu trên
nhiều trường hợp cho thấy hai yếu tố quan trọng để cung và cầu được đáp ứng trên nền tảng là giá
cả và khoảng cách địa lý giữa người dùng và người lao động (De Groen và cộng sự, 2016; Cullen
& Farronato, 2014). Để nâng cao tính hiệu quả, các nền tảng tại Việt Nam nên tập trung vào các
khu vực đông dân cư hoặc sử dụng cách tính giá linh hoạt (dynamic pricing). Ví dụ. Uber sử dụng
giá theo giờ cao điểm khi có nhiều nhu cầu hơn nguồn cung để khuyến khích các tài xế. Uber thúc
đẩy các tài xế lao động vào giờ cao điểm bằng cách tính thu nhập dựa trên tính khả dụng của các
chuyến đi. Tài xế cần nhận ít nhất 90% các chuyến đi được cung cấp, hoàn thành một chuyến/một
giờ và kết nối với hệ thống ít nhất 50’ mỗi giờ cao điểm thì sẽ được trả đầy đủ thu nhập (Rosemblat
& Stark, 2015).
- Xếp hạng người lao động cũng là một trong các yếu tố quan trọng để đánh giá hoàn thành
nhiệm vụ. Cách xếp hạng tùy thuộc vào nền tảng hoặc dựa trên phản hồi của người dùng. Ví dụ,
TaskRabbit yêu cầu người lao động chấp nhận ít nhất 75% lời đề nghị (offer) vào các thời điểm và
cần hồn thành ít nhất 85% nhiệm vụ, yêu cầu trả lời trong vòng 30’ khi nhận được đề nghị. Nếu
không tuân thủ một trong các yêu cầu này, người lao động sẽ không được hiển thị trong kết quả
tìm kiếm và có thể không được nhận lời đề nghị tiếp theo. Trên thực tế, 6% người lao động có xếp
hạng cao nhất kiếm được khoảng 1/3 tổng doanh thu của toàn bộ nền tảng. Một số nền tảng, sử
dụng phản hồi từ người dùng để xác định người lao động có nhận được ưu đãi hay không. Họ yêu
cầu tài xế chấp nhận chuyên đi mà không biết trước điểm đến hoặc giá. Khi giá chuyến đi q ít,
các tài xế khơng có khả năng từ chối. Trong trường hợp, tài xế nhận của nền tảng, sau đó từ chối
hành khách vì giá thấp, họ có nguy cơ bị hủy hợp đồng (Rosemblat & Stark, 2015). Việc xếp hạng
có thể hạn chế khả năng tham gia vào nền kinh tế chia sẻ nhưng cũng là hình thức giám sát cần
thiết để cung cấp một dịch vụ tốt hơn.

- Để thúc đẩy, kiểm soát việc khai báo thu nhập cá nhân, Việt Nam có thể quản lý các nền tảng
thông qua tài khoản tại ngân hàng, khuyến khích người dùng thanh tốn cho người lao động của
nền tảng qua thẻ. Thơng tin thanh tốn này có thể được sử dụng để xác định thu nhập thông qua
các nền tảng chia sẻ của người lao động và lợi nhuận của các nền tảng để đánh thuế.


536

QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Berg, J. (2016), “Income Security in the Collaborative Economy: Findings and Policy Lessons from a Survey of
Crowdworkers”, Comparative Labor Law and Policy Journal, 37/3.
[2] Burston-Marsteller (2015), “The Collaborative Economy Survey”, Aspen Institute and Time (www.bursonmarsteller.com/ondemand-survey/).
[3] Christoph Lutz, Gemma Newlands, Christian Fieseler, (2018), Emotional Labor in the Sharing Economy,
Conference: Hawaii International Conference on System Sciences (HICSS), At Big Island Hawaii, Volume: 51.
[4] Coyle, D. (2016), “The Sharing Economy in the UK” (www.sharingeconomyuk.com).
[5] De Groen, W.P., I. Maselli and B. Fabo (2016), “The Digital Market for Local Services: A onenight stand for
workers?”, CEPS Special Report No. 133, CEPS, Brussels, April.
[6] Harris, S.D. and A.B. Krueger (2015), “A proposal for modernizing labor laws for twenty-first century work: The
‘independent worker’”, Discussion Paper 2015 – 10, The Hamilton Project, Brookings Institution, Washington, D.C.
[7] Willem Pieter De Groen and Ilaria Maselli (2016), The Impact of the Collaborative Economy on the Labour
Market, CEPS Special Report/June 2016.
[8] Vũ Thị Thúy Hằng (2017), Giới thiệu về nền kinh tế chia sẻ và định hướng cho Việt Nam, Hội thảo khoa học quốc
gia Nâng cao năng lực quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
[9] Vu Thi Thuy Hang (2018), The criterias for assessing the sharing service capacity of transportation companies
in Vietnam, The 5th 2018 International Conference on Business, Management and Accounting
[10] Vu Thi Thuy Hang (2018), Research for Sharing economy business models and Suggestions for Vietnamese
companies, Hội thảo quốc tế: Thương mại và phân phối.
[11] World Employment and Social Outlook – Trends 2018 (2018), International Labour Organization, www.ilo.org




×