Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Xây dựng chỉ số phát triển bền vững địa phương cấp tỉnh: Trường hợp vùng kinh tế trọng điểm phía Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (510.53 KB, 12 trang )

INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019
ICYREB 2019

XÂY DỰNG CHỈ SỐ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG ĐỊA PHƢƠNG CẤP TỈNH:
TRƢỜNG HỢP VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM
BUILDING THE PROVINCIAL SUSTAINABLE DEVELOPMENT INDEX:
THE CASE IN THE FOCAL ECONOMIC REGION IN THE SOUTHERN VIETNAM
Huỳnh Ngọc Chương, Võ Thành Tâm
Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

TĨM TẮT
Q trình phát triển cân bằng giữa phát triển kinh tế, xã hội, môi trường trở thành một vấn đề cấp thiết đối với
sự phát triển của Việt Nam. Trong bối cảnh đó, việc hình thành các chỉ báo phát triển bền vững ở cấp độ tỉnh trở
nên cần thiết nhằm hướng các chính sách, hành động của chính quyền cấp tỉnh theo hướng phát triển bền vững.
Trong bài nghiên cứu này, nhóm tác giả thực hiện chọn lọc các chỉ báo được đưa ra bởi các tổ chức quốc tế và
Việt Nam, từ đó, xây dựng bộ chỉ số phù hợp với cấp độ quản trị và dữ liệu cấp tỉnh. Thông qua nghiên cứu
trường hợp tại vùng kinh tế trọng điểm phía nam, kết quả nghiên cứu cho thấy, thành phố Hồ Chí Minh là nơi
dẫn đầu cả vùng về mức độ phát triển bền vững chung, có sự biến động về chỉ số chung cũng như các chỉ báo
thành phần đối với các địa phương trong vùng trong giai đoạn 2011-2015, từ đó, nhóm tác giả đưa ra một số
hàm ý quản trị địa phương cấp tỉnh để thúc đẩy quá trình phát triển bền vững ở các địa phương trong vùng.
Từ khóa: Phát triển bền vững, chỉ số, cấp tỉnh, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
ABSTRACT
Sustainable development is an urgent requirement in Vietnam, which requires a balance of economic, social and
environmental dimensions. In this context, the formation of sustainable development indicators at the provincial
level becomes necessary to guide policies and actions of provincial governments towards sustainable
development. In this paper, the authors selected a set of proper indicators from the reports of international and
Vietnam organization. Base on the case study in the focal economic region in the Southern Vietnam from 2011 to
2015, Hochiminh city is the best in the overall sustainable development index, beside that, some indicators had
changed over time and over region. Finally, some policy implications are suggested to improve and upgrade the
provincial sustainable development in the focal economic region in the southern Vietnam.
Keywords: Sustainable development, index, province, the focal economic region in the Southern Vietnam.



1. Bối cảnh
Quá trình phát triển của mỗi quốc gia đều trải qua những giai đoạn chuyển đổi mà u cầu các
chính sách phải có sự phối hợp với nhau để đảm bảo sự phát triển ổn định và bền vững. Trong những năm
gần đây, quan điểm tăng trưởng và phát triển bền vững, tăng trưởng xanh đang được rất nhiều quốc gia
quan tâm bởi khi kinh tế tăng trưởng càng nhiều thì các loại năng lượng, nguyên liệu, nhiên liệu càng
khan hiếm; sự cạn kiệt các loại tài nguyên không thể tái tạo càng tăng; môi trường thiên nhiên bị hủy hoại
càng nhiều, phá vỡ các cân bằng sinh thái; thiên nhiên khí hậu biến đổi gây ra những thiên tai nghiêm trọng.
Việt Nam đang đối diện với rất nhiều vấn đề về tình trạng đói nghèo, ơ nhiễm mơi trường (đặc biệt
là mơi trường nước và khơng khí), tăng trưởng kinh tế chưa bền vững và chưa có sự liên kết giữa các tỉnh,
vùng. Ngoài ra, các vấn đề như tranh chấp biển đông, việc làm, tham nhũng, chất lượng đường sá, thu
nhập, an ninh trật tự, chất lượng giáo dục, quốc phòng và an ninh cũng được người dân đặc biệt lo lắng và
quan tâm (UNDP, 2016).
Ở cấp độ địa phương, việc xây dựng một hệ thống chỉ tiêu đánh giá quản trị phát triển bền vững với
những tiêu chí cơ bản, thống kê thường niên và đồng nhất giữa các tỉnh, vùng để từ đó các địa phương có
thể quan sát, thống kê, đánh giá và đưa ra các chính sách phù hợp nhất với tình hình của địa phương. Do
đó, nhóm tác giả thực hiện nghiên cứu “Xây Dựng Chỉ Số Phát Triển Bền Vững Địa Phương Cấp Tỉnh:
Trường hợp Vùng Kinh Tế Trọng Điểm Phía Nam”. Việc lựa chọn vùng kinh tế trọng điểm phía Nam làm
mẫu nghiên cứu vì đây là vùng kinh tế năng động và phát triển nhất trong cả nước, đa dạng về đặc điểm
kinh tế, xã hội và môi trường.

1275


INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019
ICYREB 2019

2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
Trong bài nghiên cứu này, nhóm tác giả tập trung vào việc xây dựng bộ chỉ số phát triển bền vững
địa phương cấp tỉnh tại Việt Nam. Thông qua bộ chỉ số được xây dựng, nhóm tác giả thực hiện nghiên

cứu trường hợp tại vùng kinh tế trọng điểm phía nam.
Từ mục tiêu đặt ra trong bài nghiên cứu, nhóm tác giả thực hiện trả lời cho 2 câu hỏi nghiên cứu
trong bài nghiên cứu này như sau:
Q1: Cơ sở lý thuyết và các khía cạnh trong phát triển bền vững địa phương cấp tỉnh thông qua việc
xây dựng các chỉ báo trong điều kiện Việt Nam như thế nào?
Q2: Mức độ phát triển bền vững cấp tỉnh trong trường hợp vùng kinh tế trọng điểm phía Nam như
thế nào?
3. Lƣợc khảo lý thuyết và các nghiên cứu liên quan
3.1. Lý thuyết về phát triển bền vững
Phát triển bền vững
Phát triển bền vững là khái niệm được định nghĩa với nhiều khía cạnh khác nhau, trong đó đề ra
yêu cầu cho sự phát triển nhằm thỏa mãn các nhu cầu hiện tại của con người nhưng không tổn hại đến sự
thỏa mãn các nhu cầu của thế hệ tương lai.
Tăng trƣởng xanh
Theo World Bank (2012), tăng trưởng xanh là mơ hình tăng trưởng hiệu quả, sạch và có tính chống
chịu (resilient) – hiệu quả trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên, sạch trong việc giảm thiểu tác động
gây ô nhiễm môi trường và có thể chống chịu được trước các thiên tai, thảm họa thiên nhiên (natural hazards).
Theo OECD (2011), tăng trưởng xanh là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển với sự đảm bảo
rằng các nguồn lực tự nhiên sẽ tiếp tục đủ khả năng đáp ứng nhu cầu tài nguyên và môi trường sống cho
con người trong tương lai, khía cạnh này chỉ mới đáp ứng được tính bền vững. Ở khía cạnh quan trọng và
mới hơn, tăng trưởng xanh phải thúc đẩy sự đổi mới, đầu tư và cạnh tranh nhằm mang lại những cơ hội
kinh tế mới và sự tăng trưởng hướng tới “xanh hóa” và “ổn định” nền kinh tế.
Phát triển kinh tế hƣớng đến về con ngƣời
Một trong những mục tiêu lớn của phát triển địa phương là phát triển con người và phát triển mang
tính nhân văn vì con người, của con người và do con người. Phát triển con người được nhìn nhận trên góc
độ của phát triển kinh tế xã hội nhấn mạnh vào các cơ hội: được sống lâu và khỏe mạnh, được học hành
và có cuộc sống ấm no. Năm 1990, nhà kinh tế người Pakistan là MahabubulHaq đã xây dựng chỉ số phát
triển con người (dẫn theo Tripathy, 2010), thước đo tổng quát về sự phát triển kinh tế, xã hội của một
quốc gia. Chỉ số HDI đo lường thành tựu trung bình của một quốc gia hay một địa phương so với các
quốc gia hay địa phương trong nhóm trên ba phương diện của sự phát triển con người: (1) Một cuộc sống

lâu dài và khỏe mạnh được đo bằng tuổi thọ kỳ vọng từ lúc sơ sinh; (2) Kiến thức và tiếp cận xã hội được
đo bằng số người lớn (từ 15 tuổi trở lên) biết chữ và (3) Một cuộc sống tử tế được đo bằng thu nhập.
3.2. Quản trị phát triển bền vững
Phát triển bền vững đang là thách thức cho mọi quốc gia, nhất là trong điều kiện tồn cầu hóa, hội
nhập kinh tế quốc tế; việc lựa chọn con đường, biện pháp, chính sách và thể chế phải đảm bảo phát triển
bền vững luôn là mối quan tâm hàng đầu của mọi người trong bước đường phát triển.
Phát triển vùng, địa phương là một quá trình đa hướng nhằm thay đổi cơ cấu xã hội, đẩy nhanh tốc
độ tăng trưởng kinh tế, giảm bất cơng và xố bỏ đói nghèo. Trong đó, Vùng được xem như một địa bàn
lãnh thổ có thể là một hoặc nhiều huyện, tỉnh hay một quốc gia.
Báo cáo phát triển con người của UNDP (2015) cũng đề cập đến 17 mục tiêu phát triển bền vững,
trong đó, việc làm bền vững là trụ cột chính của phát triển bền vững. Việc làm bền vững thúc đẩy phát
triển con người, đồng thời giảm thiểu và xóa bỏ những tác động tiêu cực và hệ quả không mong đợi. Nó

1276


INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019
ICYREB 2019

có ý nghĩa quan trọng khơng chỉ để duy trì sự sống trên hành tinh chúng ta, mà còn để đảm bảo việc làm
cho thế hệ tương lai. Để có được việc làm bền vững cần thực hiện 3 thay đổi song song: (1) Chấm dứt
(xóa bỏ hoặc giảm một số loại cơng việc); (2) Chuyển hóa (duy trì một số cơng việc thơng qua đầu tư để
thích ứng với các công nghệ mới) và (3) Tạo mới (tạo ra các loại công việc mới).
Các tổ chức quốc tế đánh giá tính bền vững dựa trên các tiêu chí khác nhau: Ủy ban phát triển bền
vững (CSD) của Liên Hợp Quốc xác định có 58 tiêu chí về 17 chủ đề, Nhóm tư vấn về tiêu chí phát triển
bền vững (CGSDI) xác định có 46 tiêu chí, Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên thế giới (IUCN) có 88 tiêu chí
đánh giá cấp độ quốc gia, Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) xác định 68 tiêu chí đánh giá ở cấp độ quốc gia….
Bộ các tiêu chí đánh giá phát triển bền vững của Việt Nam
Chính phủ đã ban hành các văn bản quy định về phát triển bền vững bao gồm: Quyết định số
432/QĐ-TTg ngày 12/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển bền vững Việt

Nam giai đoạn 2011-2020; Quyết định số 43/2010/QĐ-TTg ngày 02/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ về
ban hành Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia; Quyết định 160/QĐ-TTg ngày 15/01/2013 của Thủ tướng
Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về Phát triển bền vững giai đoạn 2013-2015.
Thủ tướng Chính phủ cũng đã ký Quyết định 2157/QĐ-TTg ngày 11/11/2013 về việc Ban hành Bộ
chỉ tiêu giám sát, đánh giá phát triển bền vững địa phương giai đoạn 2013-2020. Bộ chỉ tiêu bao gồm 28
chỉ tiêu chung (chỉ số HDI, chỉ số kinh tế, chỉ số xã hội, chỉ số tài nguyên môi trường), 15 chỉ tiêu đặc thù
vùng (vùng trung du, miền núi, đồng bằng, ven biển, đôi thị, nông thôn).
3.3. Xây dựng chỉ số phát triển bền vững cấp độ địa phương
Tại Việt Nam, việc xây dựng các chỉ số bền vững ở cấp độ địa phương gặp nhiều khó khăn. Theo
Quyết định 2157/QĐ-TTg của chính phủ, các chỉ số bền vững địa phương chỉ ra cụ thể, tuy vậy, các chỉ
số này gần như không đưa vào trong thực tế trong quản trị phát triển bền vững của địa phương bởi một
phần lớn trong số các tiêu chí đó là các chỉ tiêu khơng đo lường thường kỳ.
Sự khó khăn của các chính quyền địa phương khi áp dụng các tiêu chí phát triển bền vững là họ cần
có những chỉ báo rõ ràng, có thể so sánh được ở cấp độ vùng và cấp độ quốc gia. Đồng thời các chỉ báo
này cần được cập nhật liên tục để quá trình quản trị phát triển ở cấp độ địa phương được thuận lợi.
4. Phƣơng pháp và dữ liệu nghiên cứu
4.1. Dữ liệu nghiên cứu
Dữ liệu nghiên cứu nhóm tác giả tập hợp để thực hiện nghiên cứu xây dựng bộ chỉ số quản trị phát
triển bền vững địa phương cũng như phân tích trường hợp điển hình tại vùng kinh tế trọng điểm phía nam
được lấy từ nguồn dữ liệu niêm giám thống kê các tỉnh, thành phố và dữ liệu tổng cục thống kê về thu
nhập bình quân đầu người các địa phương (dữ liệu gốc từ các điều tra mức sống hộ gia đình – VHLSS).
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Việc xây dựng chỉ số phát triển bền vững ở địa phương được nhóm tác giả đề xuất thực hiện dựa
trên các tiêu chí về phát triển bền vững của UN và điều chỉnh cho phù hợp với các tiêu chí xây dựng như sau:
Thứ nhất, các tiêu chí phải được thống kê liên tục nhằm giúp các địa phương xác định được diễn
biến thay đổi trong chỉ báo bền vững của địa phương mình. Dựa trên các bộ dữ liệu hiện có, nhóm tác giả
đề xuất 2 nguồn dữ liệu: dữ liệu niêm giám thống kê cấp tỉnh (dữ liệu hàng năm), dữ liệu điều tra mức
sống của hộ gia đình Việt Nam (VHLSS, 2 năm/lần). Hai nguồn dữ liệu này đáp ứng khá tốt ở tiêu chí
cập nhật giúp các địa phương có thể theo dõi các chỉ báo phát triển bền vững ở địa phương mình.
Thứ hai, mỗi cụm tiêu chí phải đơn hướng và khơng có đơn vị. Theo đó, các cụm tiêu chí được xây

dựng từ các chỉ báo cụ thể theo từng lĩnh vực và được loại bỏ đơn vị nhằm đảm bảo có thể so sánh được
với nhau. Nhóm tác giả trong nghiên cứu này đề xuất thực hiện tính tốn chuẩn hóa cho tồn bộ các dữ
liệu trước khi thực hiện tính tốn các nhóm chỉ báo, điều này giúp các nhóm chỉ báo giữa các địa phương
có thể so sánh được.

1277


INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019
ICYREB 2019

Nhóm tác thực hiện các bước trong việc thiết lập các chỉ báo quản trị phát triển bền vững địa
phương như sau:
Bước 1: Tập hợp, xem xét các dữ liệu chỉ số thành phần từ niên giám thống kê của địa phương và
các cơ sở dữ liệu thường niên hoặc thường kỳ trong thời gian ngắn. Bên cạnh đó, nhóm tác giả thực hiện
lược khảo các tài liệu có liên quan nhằm đảm bảo tính phù hợp của các chỉ số.
Bước 2: Loại trừ đơn vị của các chỉ số thành phần:
Chỉ số (giá trị sẽ nằm trong khoảng 0 - 1) = (chỉ số thực-giá trị nhỏ nhất)/(giá trị lớn nhất - giá trị nhỏ nhất).
Giá trị lớn nhất và nhỏ nhất được lấy dựa trên giá trị lớn nhất, nhỏ nhất của Vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam trong từng năm.
Riêng các chỉ số về PAPI và PCI, nhóm tác giả thực hiện lấy trung bình của 2 chỉ số này vì 2 chỉ số
này khơng có đơn vị gốc.
Bước 3: Tổng hợp chỉ số thành phần: chỉ số kinh tế địa phương, chỉ số phúc lợi kinh tế dân cư, chỉ
số giáo dục đào tạo, chỉ số môi trường sống, chỉ số quản trị công. Cụ thể:
Chỉ số kinh tế địa phương bao gồm các chỉ báo thành phần: tổng sản phẩm bình quân đầu người,
tăng trưởng tổng sản phẩm địa phương, năng suất lao động địa phương, tốc độ tăng thu ngân sách địa phương.
Chỉ số phúc lợi kinh tế dân cư bao gồm các chỉ báo thành phần: thu nhập bình quân đầu người, tỷ lệ
hộ nghèo, chênh lệch thu nhập giữa nhóm cao nhất và nhóm thấp nhất.
Chỉ số giáo dục đào tạo bao gồm các chỉ báo thành phần: tỷ lệ biết chữ của người trên 15 tuổi, tỷ lệ
lao động đang làm việc đã qua đào tạo.

Chỉ số môi trường sống: số bác sĩ trên 1 vạn dân, số vụ tai nạn giao thông, số ca mắc bệnh dịch, số
người ngộ độc thực phẩm.
Chỉ số quản trị công: chỉ số papi (chỉ số quản trị hành chính cấp tỉnh), chỉ số pci (chỉ số cạnh tranh
cấp tỉnh.
Bước 4: Thiết lập chỉ số phát triển bền vững địa phương tổng hợp dựa trên chỉ số từng khía cạnh
với tỷ trọng các khía cạnh là tương đương nhau.
Bên cạnh đó, nhóm tác giả thực hiện mô phỏng các chỉ báo trên bản đồ (sử dụng phần mềm
ArcGis) nhằm so sánh mức độ phát triển bền vững giữa các địa phương trong khu vực kinh tế trọng điểm
phía Nam.
5. Kết quả nghiên cứu
5.1. Tổng quan về sự phát triển của khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam
Cuối năm 1997 và đầu năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã lần lượt phê duyệt các quyết định
số 747/1997/QĐ-TTg, Quyết định số 1018/1997/QĐ-TTg và Quyết định số 44/1998/QĐ-TTg về Quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội ba vùng kinh tế trọng điểm quốc gia đến năm 2010, bao gồm
vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, Trung bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Trong 3 vùng kinh tế
trọng điểm này, có 13 tỉnh/thành phố được xếp vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội các
vùng kinh tế trọng điểm. Theo đó, vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ bao gồm: TP. Hồ Chí Minh
(Tp. HCM), Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai.
Ngày 13/2/2014, Thủ tướng Chính phủ ban ban hành Quyết định số 252/QĐ-TTg về việc Phê duyệt
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2020 và định
hướng đến năm 2030. Theo đó, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam bao gồm Tp. HCM, Bình Phước, Tây
Ninh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Long An, Tiền Giang.

1278


INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019
ICYREB 2019

Hình 1: Bản đồ vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và các địa phƣơng lân cận

Nguồn: Nhóm tác giả thực hiện trong ArcGis
5.2. Chỉ báo phát triển kinh tế địa phương
Kết quả thống kê cho thấy năng suất lao động trung bình của khu vực kinh tế trọng điểm phía nam
(KVKTTĐPN) trong giai đoạn 2011-2015 là 117,99 triệu đồng/người/năm, giá trị năng suất cao nhất là
532,44 triệu đồng/người/năm và thấp nhất là 36,33 triệu đồng/người/năm. Ba tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, TP.
HCM và Bình Dương có các hoạt động kinh tế năng động và sôi nổi hơn so với 5 tỉnh còn lại nên thu hút
được lực lượng lao động tập trung, có trình độ và tạo ra giá trị gia tăng cao cho nền kinh tế.
Trong khi đó, mức độ tăng trưởng thu ngân sách trung bình của KVKTTĐPN giai đoạn 2011-2015
là 8,67%, giá trị tăng trưởng cao nhất là 54,47% và thấp nhất là -23,43%. Mức độ chênh lệch lên đến
77,9%, điều này cho thấy nguồn ngân sách tăng trưởng không đồng đều theo từng năm, những năm 20112012 ngân sách tăng trưởng khá tốt trong khu vực, từ năm 2013 đến 2015 nguồn thu ngân sách bắt đầu có
sự khác biệt giữa các tỉnh. Thống kê cho thấy, tốc độ tăng trưởng nguồn thu ngân sách chung có xu hương
giảm dần, có đến 4/8 tỉnh có mức độ tăng trưởng thu ngân sách sụt giảm là Bà Rịa - Vũng Tàu, Tây Ninh,
Tiền Giang và Bình Phước.
Tốc độ tăng trưởng GDP (gGDP) trung bình của KVKTTĐPN giai đoạn 2011-2015 là 9,8%, cao
nhất là 46,6% và thấp nhất là -22,6%. Khoảng cách chênh lệch tốc độ tăng trưởng cho cả giai đoạn là
69,2%, mức độ thay đổi tốc độ tăng trưởng khá lớn giữa các năm. Bà Rịa - Vũng Tàu là địa phương có
mức độ thay đổi tốc độ tăng trưởng cao hơn hết, năm 2011 có gGDP là 46,6% và năm 2012 có gGDP là
-22,6%. Các tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Long An, Tây Ninh có mức độ sụt giảm gGDP cao, tiếp đến là TP. HCM,
Đồng Nai, Bình Phước có mức độ sụt giảm gGDP ít hơn, riêng Bình Dương có gGDP ít thay đổi nhất.
GDP bình quân đầu người giai đoạn 2011-2015 của KVKTTĐPN có giá trị trung bình đạt 67,9
triệu đồng/người/năm, giá trị cao nhất là 270,06 triệu đồng/người/năm và thấp nhất là 21,33 triệu
đồng/người/năm. Khoảng cách chênh lệch là 248,74 triệu đồng/người/năm. Bà Rịa - Vũng Tàu là tỉnh có
chỉ số này chiếm tỷ trọng cao hơn hết so với các tỉnh, có thể giải thích từ việc phát triển ngành cơng
nghiệp dầu khí, khai thác khống sản của Bà Rịa - Vũng Tàu rất phát triển, đem lại nguồn tăng tưởng
GDP cao nên làm cho chỉ báo này cao hơn hết. Ngược lại, Tiền Giang, Long An, Bình Phước là 3 tỉnh có
chỉ báo này thấp hơn so với các tỉnh còn lại.

1279



INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019
ICYREB 2019

Nhóm tác giả thực hiện tổng hợp chỉ báo phát triển kinh tế địa phương từ các chỉ tiêu thành phần
trên, kết quả cho thấy, phát triển kinh tế qua thời gian cho thấy có sự thay đổi rõ rệt về mức độ phát triển
kinh tế giữa các địa phương thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Theo đó, Tp. HCM ln là địa
phương thuộc nhóm dẫn đầu về mức độ phát triển kinh tế, trong khi đó, các tỉnh có mức độ phát triển có
xu hướng tăng theo thời gian là: Đồng Nai, Bình Dương, Long An; riêng tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu có sự
thay đổi mạnh về mức độ phát triển. Theo đó, có thể phân loại thành 3 nhóm địa phương có mức độ phát
triển kinh tế khác nhau trong năm 2015, cụ thể:
Các địa phương có mức độ phát triển kinh tế cao trong khu vực: Tp. HCM.
Các địa phương có mức độ phát triển kinh tế trung bình - khá trong khu vực: Bình Dương, Đồng
Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Long An. Đây là các địa phương liền kề với Tp. HCM.
Các địa phương có mức độ phát triển kinh tế thấp trong khu vực: Tiền Giang, Tây Ninh, Bình Phước.

Ghi chú: màu càng đậm thể hiện mức độ phát triển kinh tế tổng hợp càng cao
Hình 2: Bản đồ chỉ số kinh tế địa phƣơng giai đoạn 2011-2015
Nguồn: Nhóm tác giả thực hiện trong ArcGis
5.3. Chỉ báo thu nhập cư dân
Khác với GDP bình quân đầu người, thu nhập bình quân đầu người là được xác định là tổng thu
nhập trung bình mà mỗi cá nhân đạt được trong nền kinh tế, được khảo sát thông qua thực tế ở hộ. Theo
kết quả thống kê trong giai đoạn 2011-2015, chỉ số này tính trung bình cho KVKTTĐPN đạt 2,77 triệu
đồng/người/tháng, mức cao nhất là 4,84 triệu đồng/người/tháng và thấp nhất là 1,623 triệu đồng/người/tháng,
khoảng cách chênh lệch là 3,218 triệu đồng/người/tháng. Nhìn chung, thu nhập bình qn đầu người có
xu hướng tăng dần qua các năm, tuy nhiên mức độ tăng khá chậm. TP. HCM, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng
Nai có mức tăng thu nhập cao hơn so với các tỉnh cịn lại. Riêng Bình Dương có mức độ thay đổi thu
nhập bình qn đầu người khá ít so với các tỉnh khác, nhưng nếu quan sát có thể nhận thấy thu nhập bình
quân đầu người của Bình Dương năm 2011 đã ở mức khá cao so với các tỉnh trong khu vực.
Trong giai đoạn 2011-2015, tỷ lệ hộ nghèo trung bình của KVKTTĐPN là 3,7%, tỷ lệ cao nhất là
9,8% và thấp nhất là 0%, khoảng cách chênh lệch là 9,8%. Trong 8 tỉnh, tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo thấp nhất

và đạt 0% (hết hộ nghèo theo tiêu chuẩn của Việt Nam) vào năm 2015 là TP. HCM và Bình Dương, Tiền
Giang là tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo chiếm tỷ lệ cao nhất (9,8% năm 2011 và 6,3% năm 2015). Bình Phước,
Long An cũng cịn tỷ lệ hộ nghèo nhất định và cần giảm hơn nữa trong thời gian tiếp theo.
Mức độ chênh lệch thu nhập bình quân đầu người giữa nhóm thu nhập cao nhất và thấp nhất trung
bình của cả khu vực là 6,8 lần, cao nhất là 8,5 lần và thấp nhất là 2,5 lần.
Nhóm tác giả thực hiện tổng hợp chỉ báo phúc lợi kinh tế dân cư dựa trên các chỉ tiêu trên, kết quả
phân nhóm thu nhập của cư dân các địa phương qua thời gian cho thấy có sự thay đổi rõ rệt về mức độ gia
tăng thu nhập, đặc biệt là sự vươn lên của các địa phương liền kề Tp. HCM. Theo đó, Tp. HCM ln là
địa phương thuộc nhóm dẫn đầu về mức độ phúc lợi thu nhập dân cư, trong khi đó, các tỉnh có mức độ

1280


INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019
ICYREB 2019

phúc lợi thu nhập dân cư có xu hướng tăng theo thời gian là: Đồng Nai, Bình Dương, Long An; Bà Rịa Vũng Tàu. Theo đó, có thể phân loại thành 3 nhóm địa phương có mức độ phúc lợi thu nhập dân cư khác
nhau trong năm 2015, cụ thể:
Các địa phương có mức độ phúc lợi thu nhập dân cư cao trong khu vực: Tp. HCM, Bình Dương,
Đồng Nai, Tây Ninh.
Các địa phương có mức độ phúc lợi thu nhập dân cư trung bình - khá trong khu vực: Long An, Bà
Rịa - Vũng Tàu.
Các địa phương có mức độ phát triển kinh tế thấp trong khu vực: Tiền Giang, Bình Phước.

Ghi chú: màu càng đậm thể hiện mức độ phát triển thu nhập cư dân tổng hợp càng tốt.
Hình 3: Bản đồ chỉ số thu nhập cƣ dân các địa phƣơng giai đoạn 2011-2015
Nguồn: Nhóm tác giả thực hiện trong ArcGis
5.4. Chỉ báo giáo dục đào tạo
Tỷ lệ biết chữ của người trên 15 tuổi (%) phản ánh được tình trạng giải quyết mù chữ và giáo dục
của địa phương. Giai đoạn 2011-2015, tỷ lệ biết chữ trung bình của khu vực là 95,7%, cao nhất là 98,4%

và thấp nhất là 91,8%. Nhìn chung, chỉ báo này khá tốt ở các tỉnh của KVKTTĐ phía nam phản ánh được
chính sách xóa mù chữ khá tốt ở các địa phương này.
Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế đã qua đào tạo phản ánh được tình
hình lao động của các địa phương, mức độ được đào tạo nâng cao tay nghề, trình độ của người lao động
tương ứng. Chỉ số này đạt mức trung bình 16,2% trong cả giai đoạn 2011-2015 cho cả khu vực, cao nhất
là 34,1% và thấp nhất là 8,3%. Như vậy, với tỷ lệ này cho thấy mức độ lao động được đào tạo chuyên
môn tay nghề ở các tỉnh là chưa cao, chính sách lao động cần phải hướng đến nâng cao chất lượng lao
động thông qua đào tạo, chỉ có như thế mới nâng cao giá trị gia tăng và năng suất lao động tương ứng.
Với kết quả thống kê, TP. HCM là địa phương có chỉ số này cao nhất (tiệm cận 30%), tiếp đến là Bà Rịa Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương, và thấp nhất là Tiền Giang (chưa đến 15%).
Nhóm tác giả thực hiện tổng hợp 2 chỉ số trên để hình thành chỉ báo giáo dục đào tạo, kết quả phân
nhóm giáo dục đào tạo các địa phương qua thời gian cho thấy khơng có thay đổi trên khía cạnh giáo dục
đào tạo giữa các địa phương trong vùng. Theo đó, có thể phân loại thành 3 nhóm địa phương có mức độ
giáo dục đào tạo khác nhau, cụ thể:
Các địa phương có mức độ giáo dục đào tạo cao trong khu vực: Tp. HCM.
Các địa phương có mức độ giáo dục đào tạo trung bình - khá trong khu vực: Bình Dương, Đồng
Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu.
Các địa phương có mức độ giáo dục đào tạo thấp trong khu vực: Tiền Giang, Bình Phước.

1281


INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019
ICYREB 2019

Ghi chú: màu càng đậm thể hiện mức độ phát triển giáo dục-đào tạo càng cao.
Hình 4: Bản đồ chỉ số giáo dục đào tạo các địa phƣơng giai đoạn 2011-2015
Nguồn: Nhóm tác giả thực hiện trong ArcGis
5.5. Chỉ báo môi trường sống
Số vụ tai nạn giao thông phản ánh mức độ an toàn đi lại tại nơi sinh sống và làm việc của cư dân.
Trung bình cả giai đoạn 2011-2015, cả khu vực có 696 vụ tai nạn giao thông, số vụ cao nhất là 3.276 vụ

và thấp nhất là 125 vụ. Các địa phương như TP. HCM, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu có mức độ tai
nạn giao thông cao do mức độ tập trung dân cư và hoạt động vận tải lớn.
Tình hình dịch bệnh là chỉ tiêu đánh giá chất lượng y tế và chăm sóc sức khỏe của người dân, mức
độ kiểm sốt khi có dịch bùng phát tại địa phương. Theo thống kê, giai đoạn 2011-2015 cả khu vực có số
ca mặc bệnh dịch trung bình là 41.060 ca, trong đó TP. HCM là địa phương có tỷ trọng cao nhất trong
khu vực, Tây Ninh và Long An là 2 địa phương có số ca mắc bệnh dịch chiếm tỷ trọng thấp hơn các tỉnh
còn lại.
Tương tự số ca mắc bệnh dịch, số người ngộ độc thực phẩm cũng phản ánh tình hình chăm sóc y tế,
sức khỏe của người dân. Số người ngộ độc thực phẩm trung bình trong giai đoạn 2011-2015 của khu vực
là 225 người, TP. HCM và Bình Dương có tỷ trọng cao hơn các tỉnh cịn lại. Tuy nhiên, nhìn vào số liệu
thống kê cho thấy số người ngộ độc thực phẩm ở Long An và Tiền Giang có xu hướng tăng trong khi các
tỉnh cịn lại đều có xu hướng giảm hoặc khơng tăng nhiều.
Số bác sĩ trên 1 vạn dân là chỉ số tiêu biểu có ý nghĩa để đánh giá tình trạng chăm sóc sức khỏe
người dân bởi bác sĩ là người có chun mơn cao trong lĩnh vực y tế, có những kiến thức y tế hồn chỉnh
để khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe. Số bác sĩ trên 1 vạn dân càng nhiều thì càng tốt vì như thế người
dân sẽ được chăm sóc sức khỏe tốt hơn. Chỉ số này đạt mức trung bình là 6,8, cao nhất là 15 và thấp nhất
4,7. Chỉ có TP. HCM có chỉ số này cao nhất khu vực, các tỉnh còn lại xoay quanh các mức 5,6 hoặc 7 bác
sĩ/1 vạn dân.
Nhóm tác giả thực hiện tổng hợp chỉ báo môi trường sống dựa trên các chỉ tiêu trên, kết quả phân
nhóm mơi trường sống của cư dân các địa phương qua thời gian cho thấy có sự thay đổi rõ rệt về mức độ
mơi trường sống giữa các địa phương trong giai đoạn 2011-2013, tuy vậy, từ năm 2013-2015 chỉ báo này
khơng có sự thay đổi giữa các địa phương. Theo đó, Tây Ninh là địa phương có mơi trường sống tốt nhất
trong những năm 2011, đến năm 2013-2015, Tp. HCM luôn là địa phương có mơi trường sống tốt nhất.
Bên cạnh đó, Bình Dương là địa phương có sự sụt giảm mơi trường sống giai đoạn 2011-2015. Nhóm tác
giả thực hiện phân loại thành 3 nhóm địa phương có mơi trường sống khác nhau trong năm 2013-2015, cụ thể:

1282


INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019

ICYREB 2019

Các địa phương có chất lượng mơi trường sống cao trong khu vực: Tp. HCM.
Các địa phương có chất lượng mơi trường sống trung bình - khá trong khu vực: Bà Rịa - Vũng Tàu,
Tây Ninh, Bình Phước, Đồng Nai.
Các địa phương có chất lượng mơi trường sống thấp trong khu vực: Tiền Giang, Long An, Bình Dương.

Ghi chú: Màu càng đậm thể hiện môi trường sống tổng hợp càng tốt
Hình 5: Bản đồ chỉ số mơi trƣờng sống các địa phƣơng giai đoạn 2011-2015
Nguồn: Nhóm tác giả thực hiện trong ArcGis
5.6. Chỉ báo quản trị công địa phương
Chỉ số PAPI trung bình là 36,5, cao nhất là 40 và thấp nhất 32,5. Long An là tỉnh có chỉ số PAPI
cao hơn hết, thấp nhất là Tây Ninh, các tỉnh cịn lại có mức PAPI ngang nhau và ổn định. Trong khi đó,
Chỉ số PCI trung bình là 59,73, cao nhất là 67,12 và thấp nhất 51,95, Long An và TP. HCM là tỉnh có chỉ
số PCI cao hơn hết, thấp nhất là Tiền Giang, các tỉnh cịn lại có mức PCI ngang nhau và ổn định.
Nhóm tác giả thực hiện tổng hợp chỉ báo quản trị công địa phương dựa trên 2 chỉ tiêu trên, kết quả
phân nhóm quản trị cơng qua thời gian cho thấy có sự thay đổi rõ rệt về mức độ quản trị công giữa các địa
phương thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Theo đó, Long An ln là địa phương thuộc nhóm dẫn
đầu về chất lượng quản trị cơng, trong khi đó, Tây Ninh có sự thay đổi tích cực về chất lượng quản trị
cơng theo thời gian, ngược lại, Bình Phước, Bình Dương, Tiền Giang có sự sụt giảm về chất lượng quản
trị cơng. Nhóm tác giả thự hiện phân loại chất lượng quản trị công giữa các địa phương thành 3 nhóm địa
phương có mức độ chất lượng quản trị công khác nhau trong năm 2015, cụ thể:
Các địa phương có mức độ phát triển kinh tế cao trong khu vực: Long An.
Các địa phương có mức độ phát triển kinh tế trung bình - khá trong khu vực: Tp. HCM, Tây Ninh,
Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu.
Các địa phương có mức độ phát triển kinh tế thấp trong khu vực: Tiền Giang, Bình Dương, Bình Phước.

1283



INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019
ICYREB 2019

Ghi chú: màu càng đậm thể hiện mức độ quản trị cơng càng hiệu quả.
Hình 6: Bản đồ chỉ số quản trị cơng các địa phƣơng giai đoạn 2011-2015
Nguồn: Nhóm tác giả thực hiện trong ArcGis
5.7. Chỉ báo phát triển bền vững địa phương
Tổng hợp 5 chỉ báo thành phần trên, nhóm tác giả đưa ra một “bức tranh” tổng quan về mức độ
phát triển bền vững cấp vùng ở khu vực kinh tế trọng điểm phía nam.
Phân nhóm phát triển bền vững qua thời gian cho thấy có sự thay đổi về mức độ phát triển bền
vững giữa các địa phương thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Theo đó, Tp. HCM ln là địa
phương dẫn đầu về mức độ phát triển bền vững, trong khi đó, các tỉnh có mức độ phát triển có xu hướng
tăng theo thời gian là: Đồng Nai, Long An; các tỉnh có dấu hiệu sụt giảm mức độ phát triển bền vững địa
phương là: Bình Phước, Bình Dương. Theo đó, có thể phân loại thành 3 nhóm địa phương có mức độ phát
triển bền vững khác nhau trong năm 2015, cụ thể:
Các địa phương có mức độ phát triển bền vững cao trong khu vực: Tp. HCM, Đồng Nai.
Các địa phương có mức độ phát triển bền vững trung bình trong khu vực: Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu, Long An, Tây Ninh.
Các địa phương có mức độ phát triển bền vững thấp trong khu vực: Tiền Giang, Bình Phước.

Ghi chú: màu càng đậm thể hiện mức độ phát triển càng bền vững
Hình 7: Bản đồ chỉ số phát triển bền vững các địa phƣơng giai đoạn 2011-2015
Nguồn: Nhóm tác giả thực hiện trong ArcGis
Bảng kết quả phân tích tương quan giữa các chỉ số phát triển bền vững của các địa phương qua các
năm cho thấy có mối quan hệ tương quan dương có ý nghĩa thống kê qua các năm. Điều này hàm ý rằng,

1284


INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019
ICYREB 2019


một địa phương có mức độ phát triển tốt trong quá khứ sẽ có mối quan hệ kết nối tốt đến các năm tiếp
theo. Nói một cách khác, khi một địa phương có mức độ phát triển bền vững cao sẽ là một chỉ báo để dự
báo mức độ phát triển bền vững tốt hơn trong những năm sau.
Bảng 1: Tƣơng quan chỉ số phát triển bền vững địa phƣơng qua các năm
LSI2011

LSI2012

LSI2013

LSI2014

LSI2011

1

LSI2012

0.73 (0.04)

1

LSI2013

0.72 (0.05)

0.94 (0.00)

1


LSI2014

0.90 (0.00)

0.84 (0.01)

0.90 (0.00)

1

LSI2015

0.70 (0.05)

0.94 (0.00)

0.98 (0.00)

0.9 (0.00)

LSI2015

1

Ghi chú: Chỉ số trong ngoặc “()” là giá trị p-value
Nguồn: Tính tốn của nhóm tác giả
6. Kết luận, hàm ý và các giới hạn trong nghiên cứu
6.1. Kết quả nghiên cứu
Kết quả xây dựng bộ chỉ số phát triển bền vững trong trường hợp vùng kinh tế trọng điểm phía

Nam cho thấy:
Thứ nhất, bộ chỉ báo này về sơ bộ đáp ứng được yêu cầu theo dõi mức độ phát triển bền vững cấp
độ địa phương cập nhật và tiện dụng ở các khía cạnh khác nhau trong phát triển bền vững địa phương.
Thứ hai, bộ chỉ báo là tín hiệu giúp các địa phương có thể so sánh mức độ phát triển ở từng khía
cạnh khác nhau cũng như tổng thể chung so với các địa phương khác trong vùng cũng như cả nước.
6.2. Các hàm ý quản trị địa phương
Từ kết quả nghiên cứu cho thấy, các địa phương có thể sử dụng các chỉ báo dựa trên việc so sánh
với các địa phương khác ở cấp độ khu vực, vùng hoặc cả nước nhằm so sánh mức độ phát triển theo từng
khía cạnh hoặc mức độ phát triển bền vững nói chung, từ đó có những điều chỉnh hợp lý trong chính sách,
định hướng phát triển của địa phương nhằm hướng đến một mục tiêu phát triển đồng đều.
Đối với các tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, dựa trên bộ chỉ số phát triển bền vững
địa phương, các tác giả cho rằng, các tỉnh cần theo dõi các chỉ báo thành phần đang bị suy giảm tại địa
phương (kinh tế, thu nhập, giáo dục, môi trường sống, quản trị công) nhằm hướng đến mức độ phát triển
bền vững, đặc biệt là các địa phương có mức độ suy giảm tương đối về mức độ phát triển bền vững như:
Bình Dương, Bình Phước, Tiền Giang, từ đó tìm ra những ngun nhân và có biện pháp phù hợp hỗ trợ
q trình phát triển địa phương.
6.3. Các hạn chế trong nghiên cứu
Hạn chế lớn nhất trong nghiên cứu này là việc xây dựng chỉ số mơi trường sống cịn thiếu một vài
chỉ số về chất lượng mơi trường. Hạn chế này có thể được khắc phục thông qua việc cập nhật các dữ liệu
thống kê môi trường ở cấp độ địa phương theo thời gian nếu các chỉ số về chất lượng không khí, nước,
rác thải được đưa vào các dữ liệu thống kê cấp tỉnh. Dù vậy, nhóm tác giả cũng cho rằng, rất nhiều chỉ số
về mơi trường mang tính lan tỏa khu vực, việc quản trị các chỉ số môi trường phải được thực hiện ở cấp
độ vùng hoặc tùy theo đặc thù của từng lĩnh vực mà được quản trị ở cấp độ địa phương hoặc khu vực
hoặc đặc tính địa lý của lĩnh vực đó.
Bên cạnh đó, vấn đề xác định tỷ trọng các chỉ số thành phần trong tính tốn chỉ số phát triển bền
vững cần được thảo luận và có các nghiên cứu tiếp theo. Điều này sẽ làm rõ vai trị của từng khía cạnh
trong phát triển bền vững ở cấp độ địa phương cũng như các ưu tiên khác nhau trong định hướng phát
triển kinh tế-xã hội địa phương.

1285



INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019
ICYREB 2019

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. OECD (2011). Towards green growth, A summary for policy makers, May 2011, OECD
Link: />[2]. Quyết định 160/QĐ-TTg ngày 15/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch hành
động quốc gia về Phát triển bền vững giai đoạn 2013-2015.
[3]. Quyết định 2157/QĐ-TTg ngày 11/11/2013 về việc Ban hành Bộ chỉ tiêu giám sát, đánh giá
phát triển bền vững địa phương giai đoạn 2013-2020.
[4]. Quyết định số 43/2010/QĐ-TTg ngày 02/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Hệ
thống chỉ tiêu thống kê quốc gia;
[5]. Quyết định số 432/QĐ-TTg ngày 12/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược
phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020.
[6]. Tripathy, U. (2010). Estimation of Human Development Index in Orissa: District-Wise
Analysis. IUP Journal of Managerial Economics, 8(4), 54.
[7]. UNDESA (2012). A guidebook to Green Economy, United Nations Division for Sustainable
Development (UNDESA), 2012.
[8]. UNDP (2016), Kết quả nghiên cứu PAPI-chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính cơng cấp tỉnh
ở Việt Nam năm 2016.
[9]. UNDP. (2015). Báo cáo Phát triển con người năm 2015: Việc làm vì phát triển con người.
[10]. World Bank (2012). From Growth to Inclusive Green Growth: The Economics of Sustainable
Development.
[11]. Link: />
1286




×