Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Đặc điểm kinh tế xã hội Nam bộ nửa đầu thế kỷ XIX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.68 KB, 78 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC....................................................................................................................1
MỞ ĐẦU......................................................................................................................3
1.1. Điều kiện tự nhiên- xã hội của vùng đất Nam Bộ:..................................................5
1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên:...................................................................5
1.1.2. Dân cư và xã hội:............................................................................................8
1.2. Sơ lược về chính sách khẩn hoang của triều Nguyễn nửa đầu thế kỉ XIX............11
2.1. Đặc điểm kinh tế:.................................................................................................15
2.1.1. Chế độ công điền công thổ bước đầu phát triển ở Nam Bộ những năm đầu thế
kỉ XIX:....................................................................................................................15
2.1.2. Sở hữu tư nhân về ruộng đất ở Đồng bằng Nam Bộ nửa đầu thế kỉ XIX chiếm
ưu thế so với sở hữu công:......................................................................................19
2.1.3. Nông nghiệp ở Nam Bộ đầu thế kỉ XIX đã kết hợp việc sản xuất lúa gạo với
trồng các loại cây nông sản khác và phát triển kinh tế miệt vườn...........................24
2.1.4. Nội thương giữa Nam Bộ với các khu vực khác trong cả nước vẫn diễn ra tập
nập........................................................................................................................... 28
2.1.5. Trong nửa đầu thế kỉ XIX hoạt động ngọai thương của Nam Bộ vẫn có điều
kiện phát triển.........................................................................................................31
2.1.6. Thương nhân người Hoa ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong việc
phát triển nội thương và ngoại thương ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XIX...................34
Tiểu kết...................................................................................................................36
2.2. Đặc điểm xã hội....................................................................................................38
2.2.1. Cơ cấu xã hội bao gồm nhiều thành phần dân tộc, nhiều tơn giáo và có sự
giao lưu văn hóa lẫn nhau.......................................................................................38
2.2.2. Làng xã Nam Bộ vẫn mang tính chất “mở”...................................................40

1


2.2.3. Hai giai cấp trung tâm và chủ yếu ở Nam Bộ lúc này vẫn là địa chủ và nông
dân. Vì thế mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội vẫn là mâu thuẫn giữa địa chủ và nông


dân, bên cạnh đó cịn có những mâu thuẫn với triều đình phong kiến nhưng nhìn
chung khơng gay gắt...............................................................................................43
2.2.4. Tầng lớp địa chủ phát triển nhanh về số lượng, mạnh về thực lực ngày càng
câu kết chặt chẽ với quan lại, tham gia vào bộ máy quản lý làng xã.......................47
2.2.5. Bên cạnh các làng do nhân dân khẩn hoang lập nên, làng xã nửa đầu thế kỉ
XIX còn được thành lập bởi các tín đồ tơn giáo, sự tách ra từ các làng cũ và chịu sự
can thiệp của chính quyền phong kiến....................................................................51
2.2.6. Nhân dân và triều đình nhà Nguyễn đã có những đóng góp quan trọng trong
việc bảo vệ biên giới...............................................................................................52
2.2.7. Nhà Nguyễn khuyến khích Nho giáo phát triển. Sự học và khoa cử ở Nam bộ
thời kì này phát triển cả về chất lượng lẫn số lượng................................................56
3.1. Góp phần phát triển kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế nông nghiệp chủ đạo............65
3.2. Góp phần bảo vệ, thực thi chủ quyền trên vùng đất mới Nam bộ.........................66
3.3. Sự thống nhất đa dạng giữa các dân tộc tạo nên văn hóa, tín ngưỡng đa dạng.....68
KẾT LUẬN................................................................................................................. 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................75

2


MỞ ĐẦU
Tuy chỉ là vùng đất mới, có lịch sử phát triển chỉ hơn 300 năm nhưng Nam Bộ là
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam của nước ta. Trước khi những lớp cư dân Việt cũng
như người Hoa đến vùng đất này khai hoang, lập ấp thì trên vùng đất này vốn dĩ đã
tồn tại vương quốc rất phát triển về kinh tế hàng hải, đó là vương quốc cổ Phù Nam.
Tuy một thời gian dài sau đó vùng đất này trở nên hoang vu và bị bỏ hoang nhưng vẫn
có một số ít các cư dân sinh sống lẻ tẻ và họ chỉ sống dựa vào tự nhiên, khơng khai
phá cũng như khơng có sự tác động vào tự nhiên để mang lại lợi ích kinh tế. Cho đến
khi nhưng lưu dân người Việt và người Hoa đặt chân đến khai khẩn vùng đất này thì
dường như rằng họ chính là chủ nhân đích thực của vùng đất phía Nam nơi đây. Họ

nhận ra sự dồi dào tự nhiên, sự thuận lợi cho trồng trọt và sản xuất, cho lưu thơng
hàng hóa bằng đường thủy. Chính vì thế, chỉ trong một thời gian rất ngắn, dân cư đến
trước rồi chính quyền các chúa Nguyễn đến sau đã dần dần xác lập vị trí chủ quyền
lãnh thổ trên vùng đất này. Và kể từ đấy, vùng đất Nam Bộ ngày càng được phát triển
và ngày càng khẳng định vị thế của mình đối với đất nước, khu vực và thế giới. Trên
những cơ sở về vị trí và vị thế thuận lợi như vậy cộng với sự khai phá và tác động của
những lớp cư dân trên vùng đất này, Nam Bộ đã từng bước phát triển mang những đặc
điểm rất riêng biệt và đặc trưng cả về kinh tế cũng như văn hóa và xã hội. Chính vì
vậy đã làm cho vùng đất Nam Bộ mang những nét tuy mới nhìn có thể chúng ta sẽ cho
rằng là mâu thuẫn nhưng thật chất đối với vùng đất và con người ở đây đó là những
mối giao hịa và tiếp biến mà chỉ Nam Bộ Việt Nam mới có được.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các đặc điểm về kinh tế, xã hội của Nam bộ
nửa đầu thế kỷ XIX.
Phạm vi đề tài là thời gian từ thế kỷ XVII đến trước năm 1858, không gian là
lãnh thổ Nam bộ.
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của đề tài là phương pháp lịch sử và phương
pháp logic.
Nguồn tài liệu mà đề tài sử dụng chủ yếu từ các bộ địa dư, chính sử xưa như Phủ
Biên tạp lục, Gia Định thành thơng chí, Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam thực lục;
3


các cơng trình nghiên cứu gần đây của các nhà khoa học như Huỳnh Lứa, Trần Thị
Thu Lương, Nguyễn Đình Đầu, Đỗ Quỳnh Nga, Sơn Nam, Choi Byung Wook, Trần
Thị Mai,Tạ Chí Đại Trường…

4


CHƯƠNG I: VỊ THẾ CỦA VÙNG ĐẤT NAM BỘ VÀ CHÍNH SÁCH

KHẨN HOANG CỦA TRIỀU NGUYỄN NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX
1.1. Điều kiện tự nhiên- xã hội của vùng đất Nam Bộ:
1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên:
Tuy vùng đất Nam Bộ từ trước khi người Việt đến khai phá là một vùng hoàng
vu, vắng vẻ như vậy nhưng tại sao vùng đất này lại thoi thúc những lưu dân người
Việt đến đây mở mang và khai phá vậy? Chính những điều kiện về tự nhiên và vị trí
địa lý của vùng đất này cộng thêm với sự tác động vào tự nhiên của con người đã
khiến cho vùng đất này từ khi có sự khai hoang của người Việt thì ngày một trở nên
phát triển và tấp nập hơn. Và cho đến nay đã trở nên là một vùng kinh tế phát triển
năng động, là mối giao lưu kinh tế văn hóa trong nước và khu vực.
“Ngay từ đầu công nguyên, vùng đất Nam Bộ Việt Nam ngày nay đã được
các nhà hàng hải và thương nhân quốc tế biết đến như là một trung tâm thương mại
lớn nhất của Đông Nam Á cổ đại. Trong các thế kỷ I - VII, vương quốc cổ Phù Nam
đã khẳng định sức hút mạnh mẽ với thế giới nhờ vị trí địa lý mang tính chiến lược
trên con đường mậu dịch biển nối liền phương Tây với phương Đơng. Trong thời kì
cường thịnh, Phù Nam đã mở rộng ảnh hưởng, chi phối toàn bộ vùng vịnh Thái Lan
và kiểm soát con đường giao thương huyết mạch từ Nam Đơng Dương sang Ấn Độ
qua eo Kra. Trung tâm Ĩc Eo thời bấy giờ được xem là “bộ phận duyên hải của
vương quốc cổ Ấn Độ hóa Phù Nam, là cảng thị đại diện cho Phù Nam tiếp xúc với
bên ngoài, là đầu mối của đường mậu dịch hàng hải quốc tế trên “con đường hồ
tiêu”, “con đường tơ lụa”, là một trung tâm bn bán hàng hóa lớn bậc nhất của
Đơng Nam Á”1.
Về vị trí địa lý của Phù Nam theo như trong Lương Thư được mô tả như sau:
“Nước Phù Nam ở phía nam quận Nhật Nam, trong vịnh lớn phía Tây của biển, cách
Nhật Nam có đến 7000 lí, cách Lâm Ấp ở phía Tây Nam đến hơn 3000 lí. Thành cách
biển 500 lí, có sơng lớn rộng đến 10 lí từ Tây Bắc chảy sang Đơng nhập vào biển.
Nước rộng lớn hơn 3000 lí, đất trũng ẩm thấp nhưng bằng phẳng rộng rãi. Khí hậu,
1

PGS.TS. Trần Thị Mai, Vị trí và vị thế của Nam Bộ thế kỷ XVII-XIX ( />

5


phong tục đại để cũng giống như Lâm ấp. Sản xuất vàng, bạc, đồng, thiếc, trầm
hương, mộc hương, ngà voi, chim công lông biếc, anh vũ năm sắc. Địa giới phía Nam
cách hơn 5000 lí có nước Đốn Tốn. Trên bờ biển mấp mơ, đất vng 1000 lí. Thành
cách biển 10 lí, có 5 vua thần thuộc Phù Nam. Phía Đơng Đốn Tốn thơng với Giao
Châu, phía Tây tiếp giáp với Thiên Trúc, An Tức. Các nước ngoài bờ cõi đi lại bn
bán là điều dĩ nhiên vì lẽ nước Đốn Tốn quanh co giáp biển tới hơn 1000 lí. Biển rộng
mênh mông không bờ bến, thuyền bè chưa từng vượt qua. Chợ nơi đó đơng tây gặp gỡ
hội họp. hằng ngày có hơn vạn người, sản vật hàng hóa q hiếm khơng gì khơng có.
Lại có cây rượu giống như cây An thạch lựu, hứng nước hoa ấp ủ trong bình một số
ngày thành rượu. Ngồi nước Đốn Tốn, trong vùng đất ngồi biển lớn lại có nước Tì
Khiên cách Phù Nam 8000 lí…”2. Quốc gia Phù Nam có hệ thống cảng sông và cảng
biển rất thuận lợi để giao lưu với các quốc gia trong khu vực và thế giới. Với lợi thế là
dịng chảy sơng Mê-Kơng, từ Phù Nam dễ dàng ngược theo sông Hậu và sông Tiền để
đến Chân Lạp, Nam Lào. Trong giai đoạn phồn thịnh, người Phù Nam đã tiến hành
đào hệ thống kênh chính Tây – Đơng nhằm tận dụng tối đa lợi thế giao lưu khu vực
trên phần lãnh thổ phía Tây sông Hậu. Điểm cực tây của hệ thống kênh này là Angkor
Borei và điểm cực đơng chính là cảng thị Óc Eo. Theo bản đồ không ảnh và khảo sát
của các nhà khảo cổ thuộc Viễn Đông bác cổ, từ Angkor Borei có 5 con kênh thẳng
đến đầu trục kênh Châu Đốc – Óc Eo và hướng ra biển. Bằng đường biển, từ Ĩc –Eo
có thể dễ dàng vượt vịnh Xiêm La để đến Bang Kok, theo bờ biển đến với các quốc
gia sơ kỳ trên bán đảo Malaisia, các đảo và quần đảo thuộc Indonesia hoặc ngược lên
phía Bắc đến Lâm Ấp – Chămpa, Giao Chỉ và vùng ven biển Nam Trung Quốc.
Chính vị trí địa chiến lược đã sớm đưa Phù Nam trở thành một kiểu nhà nước
thành bang với ưu thế về kinh tế thương mại trong 7 thế kỷ đầu công nguyên. Đồng
thời, đưa Phù Nam trở thành “cầu nối” giữa Ấn Độ và Đông Nam Á cổ trên các lãnh
vực kinh tế, văn hóa.
Đáng tiếc là vị trí chiến lược này đã khơng được người Chân Lạp phát huy

trong gần 10 thế kỷ tiếp theo đó, khi mà người Chân Lạp đã chiếm đóng và quản lý
vùng đất này từ tay người Phù Nam. Suốt từ thế kỷ VII đến thế kỷ XVII, vùng đất này
được biết đến như một vùng hoang vu ngự trị: “Bắt đầu vào Chân Bồ (vùng biển
2

Lương Ninh, Vương quốc Phù Nam lịch sử và văn hóa, NXB. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2005, tr. 209.

6


Vũng Tàu ngày nay), gần hết cả vùng đều là bụi rậm của rừng thấp, những cửa rộng
của con sông lớn chảy dài hàng trăm dặm, bóng mát um tùm của những gốc cổ thụ và
cây, mây dài tạo thành nhiều chỗ trú sum suê. Khắp nơi vang tiếng chim hót và tiếng
thú kêu. Vào nửa đường trong sơng, thấy những cánh đồng hoang khơng có một gốc
cây. Xa nửa tầm mắt chỉ thấy toàn cỏ cây đầy rẫy. Hàng trăm, hàng nghìn trâu rừng
tụ họ từng bầy. Tiếp đó nhiều con đường dốc đầy tre chạy dài hàng trăm dặm”3.
Bước sang đầu thế kỷ XVII, khi Đại Việt nổ ra cuộc nội chiến Trịnh – Nguyễn
khốc liệt, kéo dài gần nửa thế kỷ. Cục diện chiến tranh đã thúc đẩy họ Nguyễn nhanh
chóng mở rộng lãnh thổ về phía Nam, mục tiêu là vùng đất Nam Bộ. Trong gần 2 thế
kỷ, bằng nhiều biện pháp khác nhau: lợi dụng các lớp người Việt, Hoa xiêu tán, phá
sản dưới các hình thức khác nhau mở rộng khai khẩn vùng đất Nam Bộ; lợi dụng lực
lượng “có vật lực” ở miền Thuận – Quảng chiêu mộ dân nghèo vào khai phá đất
hoang; sử dụng quân đội đồn trú; kiến tạo quan hệ đồng minh dưới nhiều hình thức
với triều đình Chân Lạp… các chúa Nguyễn nhanh chóng khẩn hoang, lập làng, xác
lập và khẳng định chủ quyền trên vùng đất Nam Bộ. Cùng với trí tuệ và khả năng lao
động phi thường, chính quyền họ Nguyễn và các cộng đồng cư dân Việt – Hoa –
Khmer… không chỉ mở mang tạo dựng cơ nghiệp trên vùng đất hoang hóa, sình lầy
để mưu sinh mà còn làm thay đổi lớn lao diện mạo của vùng đất mới. Vùng đất này
chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, mưa nhiều. Vì thế vào mùa
mưa sẽ gây ra lũ, ngập úng, ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của cư dân nơi này.

Tuy nhiên, trên cơ sở những kênh rạch tự nhiên, những lớp cư dân mới đến đây đã biết
đào kênh dẫn nước hạn chế lượng nước mùa lũ, lên liếp trồng rau, củ quả,… Tuy
nhiên, sau mỗi con lũ lên lại mang cho những đồng bằng ven sông một lượng phù sa
vô cùng phong phú, làm cho đất đai trở nên màu mỡ. Bên cạnh đó, tốc độ dâng nước
và hạ nước của những con sông ở đây khơng cao như ở sơng Hồng phía Bắc cho nên
việc đắp đê ngăn lũ khơng cịn là mối e ngại lớn và cùng không cần sự liên kết sức
người như miền Bắc.
Điều kiện về đất đai và nguồn nước thuận lợi như vậy khiến cho đồng bằng
châu thổ ở những con sông lớn vùng đất này trở nên rất màu mỡ, thuận lợi cho phát
3

Huỳnh Lứa (chủ biên), 1897, Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, NXB. Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh,tr.

37.

7


triển nông nghiệp và tài năng canh tác lúa nước của người Việt được phát huy rõ rệt.
Họ sản xuất rất bội thu hơn so với đồng bằng miền Bắc và miền Trung. Và khi việc
sản xuất trở nên dư thừa dùng trong khu vực Nam Bộ thì cư dân nơi đây họ nghĩ đến
việc bán ra bên ngoài. Và vì vậy dần dần việc bn bán lúa gạo khu vực nam Bộ trở
nên sầm uất và tấp nập. Những cư dân người Hoa vốn có tài năng trong việc mua bán,
cho nên, họ đã sớm phát huy điều đó trên vùng đất Nam Bộ này và cũng chính vì thế
vùng đất này đã giữ chân họ định cư đồng thời làm kinh tế thương nghiệp ở đây mà
quên đi mối thù “phản Thanh phục Minh” khi họ đến. Điều đó một phần đã lý giải tại
sao vùng đất Nam Bộ xuất hiện rất nhiều địa chủ lớn và thương nhân người Hoa giàu
có bậc nhất sau này. Chính vì thế, so với vùng đất miền Trung cằn cõi thì đây chính là
“vùng đất hứa” mà cư dân ở đây nhận thấy rằng “làm chơi ăn thiệt” đã khiến cho họ
hăng hái khai phá, khẩn hoang và làm kinh tế. Bên cạnh đó, về mặt đất đai thuận lợi

cho trồng trọt thì nguồn lợi tự nhiên mang đến từ vùng đất này là rất lớn. Sản vật từ
rừng thì rất phong phú, biển thì dồi dào và rất nhiều thú, chim, cá, cây cối quý hiếm
mang lại nguồn lợi kinh tế rất cao.
Lợi thế về đất và nước cộng với nguồn tự nhiên phong phú kết hợp với kinh
nghiệm tích hợp được của cộng đồng cư dân Việt, Khmer trong sản xuất nông nghiệp,
khả năng thiên phú của cộng đồng người Hoa trong phát triển thương mại, đã sớm đưa
Nam Bộ trở thành trung tâm kinh tế nông nghiệp phát triển mang đặc tính của nền
kinh tế nơng nghiệp hàng hóa ngay từ đầu thế kỷ XVIII. Chính vì vậy đã đưa Nam Bộ
trở thành nơi cung cấp hàng hóa nông sản cho miền Trung Việt Nam, Chân Lạp,
Xiêm, Các nước thuộc khu vực hải đảo Đông Nam Á và nam Trung Quốc. Chính
những điều kiện tự nhiên thuận lợi như vậy đã khiến cho những lưu dân đến đây họ
phát triển lao động và làm kinh tế, định cư, lập ấp, lập làng.
1.1.2. Dân cư và xã hội:
Cho đến nửa đầu thế kỉ XIX, việc khai hoang sản xuất đã làm thay đổi bộ mặt
xã hội Nam Bộ trở thành một vùng trù phú. Sự biến đổi đó là kết quả của việc người
Việt từ các tỉnh Trung Bộ di dân vào khai phá, đồng thời nó cũng là yếu tố thu hút
nhiều người dân khác đến Nam Bộ. Dân cư Nam Bộ có sự gia tăng rõ rệt. Để minh
8


chứng cho sự gia tăng này, ta có thể xem xét số dân định ở Nam Kì lục tỉnh trong giai
đoạn này.
Số dân đinh4 ở Nam Kì Lục Tỉnh5

Các tỉnh

Triều Gia
Long6

18367


Triều Tự
Đức8

Biên Hòa

10.600

10.242

16.949

Gia Định

28.200

34.124

51.788

Định Tường

19.800

20.167

26.799

27.457


41.336

15.136

22.998

1500

1481

5728

612.912

719.510

1.024.388

Vĩnh Long
An Giang
Hà Tiên
Tổng số dân
đinh cả nước

37.000

Từ bảng số liệu trên có thể thấy dân cư Nam Bộ đã gia tăng nhanh chóng trong
nửa đầu thế kỉ XIX. Dưới triều Gia Long năm 1819 số đinh ở Nam Bộ là 97.100 trong
tổng số 612.912 đinh trong toàn quốc (chiếm 15,8%). Đến năm 1829, số dân đinh là
118.790 người trong tổng số dân đinh cả nước là 719.510 (chiếm 16,5%). Đến triều

Tự Đức, tổng số dân đinh Nam Bộ là 165.598 người trong 1.024.388 tổng số dân đinh
toàn quốc (chiếm 16,2%). Dù chiếm một tỉ lệ không cao nhưng qua từng thời điểm đã
cho thấy sự gia tăng dân số ở vùng đất Nam Bộ.
Như vậy, sang thế kỉ XIX dân số tăng lên do sinh đẻ tự nhiên và do lưu dân
miền ngoài tiếp tục nhập cư khai khẩn theo sự vận động của triều Nguyễn vì vậy vùng
đất nào trước đó cịn hoang vắng thì nay lần lượt có người đến ở và khai phá. Các
trung tâm định cư hình thành trong các thế kỉ trước ở vùng ven sơng Đồng Nai, sơng
4

Để tính dân cư của vùng cần phải nhân hệ số. Tùy theo tỉnh và tùy theo giai đoạn hệ số này có thể biến đổi từ 3

đến 8.
5

Nguyễn Thế Anh (1971), Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn, Nxb.Lửa thiêng, tr.26. (bản

pdf).
6
Số liệu dẫn theo Đại Nam nhất thống chí.
7
Số liệu dẫn theo Châu bản triều Minh Mạng, tập LX, tờ 191-192.
8
Số liệu dẫn theo Quốc triều chánh biên toát yếu, tr.286-287.

9


Sài Gịn, sơng Vàm Cỏ, sơng Tiền, vùng giữa sơng Tiền và sông Hậu, giờ đây nối liền
thành một dãy đồng ruộng, vươn lên liên tiếp chạy dài từ Bà Rịa, Biên Hòa, qua Gia
Định đến Mỹ Tho, Vĩnh Long. Đặc biệt, trong nửa đẩu thế kỉ XIX, lưu dân người Việt

xâm nhập càng lúc càng mạnh vào vùng đất nằm về phía Nam sơng Hậu như vùng
Long Xun, Rạch Giá sau khi một số kênh lớn như Vĩnh Tế, Thoại Hà được khai
thông.
Cùng với sự đa dạng về tộc người và như hệ quả tất yếu của quá trình giao thoa
và hỗn dung văn hóa, Nam Bộ là một khu vực hết sức đa dạng về tơn giáo, tín
ngưỡng, phong tục, tập quán. Những cư dân đến đây tuy là người Việt cũng có, người
Hoa cũng có và cả người Khmer đã ở đây rồi nhưng họ là những con người cùng
chung số phận, họ là những binh lính, dân nghèo căm ghét chiến tranh, tù binh,… họ
dễ dàng chấp nhận nhau, cùng nhau lao động sản xuất, khai khẩn đất hoang, phát triển
kinh tế, ổn định cuộc sống. Chính vì là những lưu dân đến từ vùng khác nhau, cho nên
họ mang những tín ngưỡng, những tơn giáo khác nhau, từ dân tộc họ. Nhưng vùng đất
Nam Bộ khơng hề bác bỏ những tín ngưỡng của họ, cũng khơng tạo mâu thuẫn trong
tín ngưỡng, tơn giáo mà thậm chí những yếu tố tinh thần này cịn trở nên dung hịa và
tiếp biến hình thành nên nét đặc trưng rất riêng biệt trong đời sống văn hóa tinh thần
của cư dân nơi đây. Mà cho đến nay những đặc điểm đấy vẫn còn rất đậm nét.
Tiểu kết:
Vùng đất Nam Bộ mang những đặc điểm tự nhiên- xã hội như trên cộng thêm
sự tài tình và khả năng sản xuất của người Việt thích hợp trên những đồng bằng ven
sơng và tài năng buôn bán của người Hoa đã khiến cho vùng đất Nam Bộ từ một vùng
đất hoang vu, khơng được chính quyền để tâm đến cho đến khi những lưu dân Việt và
người Hoa đến khai phá thì đã dần dần khẳng định thế mạnh và vị trí hàng hải quốc tế
của mình. Và mối giao lưu tiếp biến văn hóa giữ những lớp cư dân đến sinh sống trên
vùng đất này đã hình thành nên những nét văn hóa đặc thù của vùng đất Nam Bộ.
Chính vì thế, vùng đất Nam Bộ mạng những nét rất đặc trưng về cả kinh tế và văn hóa
xã hội mà ít vùng nào có được.

10


Nửa đầu thế kỷ XIX ở vùng đất Nam Bộ đã có những chuyển biến lịch sử quan

trọng với sự ra đời của vương triều Nguyễn thống nhất đất nước từ Bắc chí Nam.
Cụ thể năm 1802, triều Nguyễn đã xây dựng một thiết chế quản lý đất nước
một cách chặt chẽ trên cả ba miền. Ban đầu Nam Bộ được vua Gia Long chia thành
các trấn trực thuộc phủ Gia Đình. Năm 1808, Gia Long đổi Gia Định trấn thành Gia
Định thành; dinh Phiên Trấn làm trấn Phiên An; dinh Trấn Biên làm trấn Biên Hoà;
dinh Trấn Vĩnh làm trấn Vĩnh Thanh; dinh Trấn Định làm trấn Định Tường.
Nửa đầu thế XIX, tình hình khu vực có nhiều biến động nhất là về vấn đề biên
giới và lãnh thổ. Do đó triều Nguyễn đã thi hành rất nhiều sách lược cứng rắn, đẩy
mạnh xây dựng hệ thống thành trì - bảo trấn giữ dọc theo những điểm trọng yếu để
đảm bảo chủ quyền của đất nước. Bên cạnh đó lực lượng quân đội cũng được tăng
cường từ trung ương đến địa phương.
Vùng đất Nam Bộ cũng nằm trong phạm vi quan tâm của triều Nguyễn. Năm
1836, triều Nguyễn cho lập địa bạ trên tồn Lục tỉnh Nam Kỳ chính thức thiết lập,
củng cố tổ chức hành chính, hồn chỉnh bộ máy quản lý xã hội từ thôn (xã) đến tổng,
huyện, phủ, tỉnh tại vùng đất mới này.
1.2. Sơ lược về chính sách khẩn hoang của triều Nguyễn nửa đầu thế kỉ XIX
Thời kỳ này, Gia Long đã xác lập vững chắc chính quyền và tiếp tục khai phá
Nam Bộ trên cơ sở các Chúa Nguyễn đạt được trong thế kỷ XVII - XVIII. Các vua
Nguyễn củng cố quân điền, cho dân tự do khai phá Nam Bộ và trợ cấp cho họ dễ khai
phá (25 sắc lệnh trừng phạt quan lại, tạo điều kiện cho dân mở đất). Tùy theo diện tích
khai hoang, quan mộ nhiều dân khai phá thì được thưởng, quan tham nhũng và hối lộ
thì bị trừng phạt nặng. Để khai khẩn, vua cho đào kênh Thoại Hà (1818, từ Long
Xuyên đến Rạch Giá), kênh Vĩnh Tế (1819 - 1821, từ Châu Đốc đến Rạch Giang - Hà
Tiên)với mục đích:
- Mở mang đất đai để khai thác, phát triển về sản xuất lương thực và thu tô
thuế.

11



- Đảm bảo an ninh quốc phòng; nhất là biên giới phía Tây. Đào kênh và lập
đồn điền giúp triều đình kiểm sốt, khống chế và đề phịng sự xâm nhập từ bên ngoài
và sự chống đối của dân địa phương.
- Phát triển địa chủ, tạo chỗ dựa cho vua Nguyễn ở Nam Bộ.
Triều Nguyễn đã áp dụng các biện pháp thúc đẩy khai hoang như để cho người
dân tự do lựa chọn nơi khai phá; miễn thuế cho người đi khai phá đất hoang một thời
gian nhất định; Cho mượn trước trả sau hoặc cấp khơng nơng cụ thóc, giống, trâu, bò;
bắt buộc các quan lại đia phương phải đơn đốc dân chúng khẩn hoang; sử sụng binh
lính vào việc khẩn hoang dưới hình thức lập đồn điền; cho phép bất cứ ai cũng được
đứng ra mộ dân lập đồn điền; sử dụng tù phạm vào việc khẩn hoang. Bên cạnh đó,
Nhà nước đứng ra chiêu mộ dân chúng đưa đi khai hoang lập ấp ở một số nơi nhất là
vùng biên giới Châu Đốc - An Giang và khuyến khích dân chúng đứng ra mộ người đi
khai hoang lập ấp bằng cách phong thưởng.
Về cuộc khẩn hoang do nhân dân tự tiến hành:
Thời kì này làng sống di cư của các tỉnh phía ngồi vẫn tiếp tục và có phần
mạnh mẽ hơn, một phần vì chiến tranh đã kết thúc, phần khác vì lệnh cấm đạo gay gắt
của các vua Nguyễn, trong đó số lưu dân đơng nhất thời kì này đó là tín đồ thiên chúa
giáo trốn tránh lệnh cấm đạo, những người này vào miền lục tỉnh để khai khẩn đất đai,
để mưu sinh. Những lưu dân đã định cư hoặc là con cháu của họ vẫn tiếp tục cơng
việc khai khẩn đất hoang vốn cịn rất nhiều ở nơi cư trú.
Nhìn chung trong nửa đầu thế kỉ XIX họat động khẩn hoang do nhân dân tự
tiến hành vẫn diễn ra mạnh mẽ ở vùng ven sơng Phước Long, sơng Tân Bình (Sài
Gịn), sơng Tiền ở những nơi đó họ vừa mở rộng các khu đất được khai phá trước vừa
tiến sâu vào vùng đất còn bỏ hoang tiếp tục khai khẩn. Nhờ đó mà nối liền các trung
tâm khai khẩn thành một vùng ruộng vườn liên tiếp chạy dài từ Bà Rịa, Biên Hòa, đến
Gia Định, Vĩnh Long, riêng vùng đất phái Nam sông Hậu cũng thu hút đông đảo lưu
dân đến khai khẩn.
Riêng vùng đất An Giang 1817, vùng cù lao dài ở trấn Vĩnh Thanh được khai
phá và mở rộng thêm được năm làng : Phú Thái, Phước Thành, Thái Bình, Thanh
12



Lương, Bình Thạnh. Nguyễn Văn Thoại đã khuyến khích khai khẩn đất đai dọc hai bờ
kênh Thoại Hà nối liền Long Xuyên – Rạch Giá và một số thôn ấp được lập nên ở
vùng núi Sập. Năm 1840 Phủ Ba Xuyên qui tụ được 80 người khai khẩn được 170
mẫu ruộng. Cũng năm này, trên khu đất nằm phía sau tỉnh An Giang khai phá được
770 mẫu. Còn đối với loại hình khai hoang do nhà nước chủ trì bao gồm hình thức
đồn điền và hình thức khẩn hoang lập ấp.
Hình thức đồn điền bao gồm các loại:
- Đồn điền do binh lính làm, đồn điền do tù phạm làm. Việc cày cấy hoa lợi thu
được đều là của chung, không chia đất riêng cho từng người.
- Đồn điền do dân thường làm đất trong phạm vi đồn điền được chia cho từng
người, mỗi người được khoảng 2ha.
Kết quả của việc lập đồn điền 1814 có 9876 người đến 1822 giảm xuống còn
9703 người. Năm 1854 giảm xuống còn 7500 người. Như vậy, tổng cộng khoảng 2709
người, diện tích được khia phá 54158 ha.
Hình thức khẩn hoang lập ấp :
- Nguyễn Văn Thoại mộ dân khai hoang lập ấp được khoảng 20 xã, thôn.
- Nguyễn Tri Phương tổ chức mộ dân khẩn hoang lập ấp với quy mô lớn nhất
năm 1853 lập được 124 ấp.
Hình thức đưa tù phạm đi khai hoang mà địa điểm chính là An Giang, nhà nước
giao cho từng người cấp cho trâu, bị, nơng cụ, lương thực....
Năm 1831 - 1832, Minh Mạng lập “dinh điền” để tập trung sở hữu lớn về ruộng
đất (không công điền). Dinh điền là vùng đất có dân cư hịa nhập sau, mục đích chính
là khai hoang mở đất. Thời các vua Gia Long và Minh Mạng, triều đình quan tâm hệ
thống thủy lợi (đào kênh ở những ví trí quan trọng), giúp tàu bè xuôi ngược nhộn
nhịp. Việc đào kênh, đắp đường, xây dựng giao thông thuỷ bộ cũng được phát triển
như đào kênh Thoại Hà (1817), kênh Vĩnh Tế (1819-1824), kênh Vĩnh An (1843-

13



1844), nhờ đó tạo nên những hào sâu, chiến luỹ nhân tạo kết hợp tự nhiên để bảo vệ
lãnh thổ Nam Bộ.
Về quản lý hành chính thì theo mơ hình Thuận Hóa. Mang Khảm đổi thành trấn
Hà Tiên; Phiên Trấn - Trấn Biên là địa điểm quan trọng vì gắn với người Hoa Minh
Hương dựng nghiệp ở miền Nam đã lâu. 3 người Hoa Minh Hương nổi tiếng là Ngô
Nhân Tịnh, Trịnh Hoài Đức và Phan Thanh Giản. Năm 1836, vua Nguyễn cho thành
lập các đạo (tương đương cấp quận - mang tính quân sự), gắn với đồn điền và lương
thảo. Các đạo lớn lúc đó là Châu Đốc, Tân Châu, Trường Đồn.
Nhờ hệ thống các chính sách tương đối tồn diện đã cho thấy triều Nguyễn đã có
sự chuẩn bị và đề phịng, từ đó tạo nên sức mạnh và nguồn lực tổng hợp góp phần
giúp cho cơng cuộc bảo vệ chủ quyền ở vùng đất cuối cùng của đất nước qua các cuộc
kháng chiến chống Xiêm thành công vào những năm 1833, 1841, 1847,...
Nhìn chung lại, triều Nguyễn có cơng khai phá đất hoang, đào kênh mương, phát
triển nông nghiệp ở vùng đất Nam Bộ của họ, mặc dù người thực hiện công việc này
chủ yếu là nhân dân lao động, là di dân người Việt dưới sự điều hành trực tiếp của một
số đại thần tài năng trung thực hết lịng vì dân vì nước như Nguyễn Cơng Trứ, Nguyễn
Tri Phương, Nguyễn Văn Thoại, Trần Đình Túc... Trong đó việc cần đặc biệt nhất
đáng nhấn mạnh là việc tổ chức đo đạc, vẽ lại bản đồ, lên sổ địa bạ đầy đủ, rõ ràng đất
khai phá được ở Nam Bộ. Có thể nói đây là một cơng lao to lớn đối với việc mở mang
khai khẩn xây dựng đất nước, phát triển kinh tế văn hóa Việt Nam nói chung, kinh tế
nơng nghiệp nói riêng.

14


CHƯƠNG II: ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ – XÃ HỘI NAM BỘ
NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX
2.1. Đặc điểm kinh tế:

2.1.1. Chế độ công điền công thổ bước đầu phát triển ở Nam Bộ những năm đầu
thế kỉ XIX:
Vào năm 1802 vương triều Nguyễn được thành lập do yêu cầu củng cố chế độ
trung ương tập quyền, đảm bảo quyền lực của nhà Nguyễn do vậy nhà Nguyễn đã thi
hành nhiều chính sách để thuận tiện cho việc quản lí đất nước lúc buổi đầu mới được
thành lập. Đặc biệt đối với vùng đất Nam Bộ là vùng đất mới đầy tiềm năng để phát
triển kinh tế đồng thời đây cũng là vùng đất mới nên khi vương triều Nguyễn thành
lập đã thực hiện những chính sách làm biến đổi đối với quy luật phát triển của vùng
đất Nam Bộ ở thế kỉ XVII – XVIII.
Khi vương triều được thành lập bên cạnh việc xây dựng chính quyền thì triều
Nguyễn vẫn chú trọng cơng cuộc khẩn hoang bằng nhiều hình thức khác nhau như
khai hoang lập đồn điền, dùng tù nhân để khai hoang. “Năm 1807 nhà nước còn ban
lệnh dùng tù phạm để khai hoang nhằm tận dụng sức lao động của tội nhân, vừa để
cải tạo họ, vừa mở mang thêm được ruộng đất ở những vùng biên cương hẻo lánh” 9.
Bên cạnh đó là hàng loạt những ưu đãi để khuyến khích việc khai hoang những vùng
đất mới. Trong chỉ dụ năm 1802, vua Gia Long có ghi rõ: “Người nào khơng có điền
sản thì đem ruộng hoang cấp cho và vay thóc giống, đợi khi thu hoạch xong sẽ y số
trả lại nhà nước”10. Chỉ dụ của vua Minh Mạng năm 1837 cũng quy định: “Nếu
người đi khẩn hoang thiếu trâu cày, điền khí và lúa giống thì các ngươi phải cấp
phát”11.
Nhà Nguyễn được thành lập buổi đầu vua Gia Long vẫn chưa thiết lập chính
thức cho việc sở hữu ruộng đất với chế độ công điền công thổ mà chỉ làm những công
việc tạo điều kiện cho chế độ sở hữu công điền công thổ được xuất hiện như tham gia
9

Trần Thị Thu Lương (1994), Chế độ sở hữu và canh tác ruộng đất ở Nam Bộ nửa đầu thế kỉ XIX, NXB Thành

Phố Hồ Chí Minh, tr.48.
10
11


Quốc sử quán triều Nguyễn (1971), Đại Nam thực lục chính biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 9
Quốc sử quán triều Nguyễn, Sđd, tr. 76.

15


và cơng cuộc khai hoang mở rộng diện tích ruộng đất. Từ năm 1800 đến 1836 vương
triều Nguyễn đã cùng nông dân tham gia khai khẩn ruộng đất để lập các đồn điền. Vua
Gia Long đã cho lập các đồn điền ở 4 phủ thuộc Gia Định thành là: Tân Bình, Định
Viễn, Phước Long, Kiến An. Ở các đồn điền, ngồi sức lao động của binh lính cịn có
cả sự tham gia sản xuất của nơng dân theo hình thức mộ dân. Đến thời Minh Mạng,
hình thức đồn điền tiếp tục phát triển ở nhiều nơi, như: Vàm Cỏ, Tây Ninh, Châu Đốc,
Hà Tiên, đảo Côn Lôn,… Năm 1822, ở Nam bộ đã có tới 117 sở với khoảng 20 cơ
gồm 9603 lính đồn điền. Đến năm 1840, vua Minh Mạng quyết định lấy lại ruộng đất
đồn điền để cấp cho các tù nhân hoặc giao cho nhân dân cày cấy. Đất ấy trở thành
cơng điền. Vì vậy các đồn điền đã trở thành làng xã và một lượng lớn ruộng đất trong
các đồn điền được giao cho địa phương làm đất công điền công thổ.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu: “Trước đây nhà nước khơng tham gia
trực tiếp vào việc khai hoang và canh tác mà chỉ khuyến khích hoặc ủng hộ cho dân
chúng lập nghiệp dựng làng. Nhưng từ khi Nguyễn Ánh chọn Gia Định làm vùng đất
hưng quốc, thì đồn trại được mở thêm nhiều, lính tráng tập trung đông đảo. Nên phải
lập các đồn điền để lấy thóc gạo ni qn”12.
Để phát triển q trình khai hoang và thuận lợi cho giao thông đường thủy ở
Nam bộ, triều đình đã tiến hành đào các kênh, sông rạch. Năm 1817, vua Gia Long
cho đào kênh Thoại Hà dưới sự chỉ huy của Thoại ngọc hầu. “Hơn một tháng sông vét
xong, ngang hơn 10 trượng, sâu 18 thước, dân Hán dân di đều lợi cả. Vua khen công
của Thụy, đặt tên là Thụy hà”.13 Năm 1819, nhà Nguyễn cịn cho đào thêm 2 con sơng
là: An Thơng ở Chợ Lớn và Bảo Định (sông Vàm Cỏ). Bên cạnh đó, năm 1821, một
con kênh quan trọng đối với vùng Tây Nam bộ đã được thực hiện là kênh Vĩnh Tế,

kéo dài đến tận Hà Tiên. Song song với việc đào kênh, Thoại ngọc hầu cũng cho mô
dân đến khai phá vùng đất ven kênh. Hệ thống kênh rạch cũ vốn đã chằng chịt, phong
phú, nay được bổ sung thêm những con sông, kênh lớn quan trọng tạo thành một
mạng lưới giao thơng đường thủy thuận tiện. Đó là điều kiện quan trọng cho việc
chinh phục những vùng đất hoang chưa được khai phá ở đây.
12

Nguyễn Đình Đầu (1992), Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp ở Nam Kì lục tỉnh,

NXB Trẻ, tr. 82
13

Quốc sử quán triều Nguyễn (1971), Sđd, tr. 335

16


Cùng với quá trình khẩn hoang là quá trinh di cư của cư dân Việt từ nhiều nơi
vào vùng Nam bộ. Quá trình này diễn ra vào thế kỉ trước và ngày càng mạnh mẽ vào
thời kì đầu thế kỉ XIX khi chính sách khẩn hoang của nhà Nguyễn được đẩy mạnh. Số
lượng dân cư từ “dư tư vạn hộ” vào năm 1698 tăng lên thành 108.067 dân đinh, tức
khoảng 500.000 đến 600.000 người năm 1836. Đến giữa thế kỉ XIX, dân cư tính theo
sổ đinh là 116.781 dân đinh, chiếm khoảng 1/9 so với toàn quốc (970.516 dân đinh).
Sự phân bố dân cư cũng có những bước biến đổi, làng xóm khơng chỉ cịn co cụm ở
những trung tâm đồng bằng mà đã vươn tới những vùng biên giới xa xơi. 14
Có thể thấy, những yếu tố chuẩn bị cho sự xuất hiện chế độ công điền công thổ
của vương triều Nguyễn gần như đã sẵn sàng. Tại miền Trung và miền Bắc, nơi đã có
chế độ cơng điền cơng thổ, thì sau khi lên ngơi vua Gia Long chủ trương giữ nguyên
hiện trạng, còn ở Nam bộ- vốn chưa phổ biến việc cơng điền cơng thổ thì ơng vẫn
khơng chủ trương ngăn cấm kiêm tính ruộng đất. Bởi trước đây, chính quyền chua

Nguyễn đã dung dưỡng tầng lớp địa chủ giàu có để làm chỗ dựa cho sự cai trị của
mình, do đó tầng lớp này ngày càng lớn mạnh. Vì vậy khi chính quyền chúa Nguyễn
sụp đổ, Nguyễn Ánh đã nương nhờ vào giai cấp địa chủ ở Gia Định để phục hồi lực
lượng, “trước kia dấy binh tiêu dùng mỗi ngày phí đến nghìn vàng, dân giàu có nhiều
người bỏ của ra để giúp việc quân”.15 Vì vậy, khi lập nên vương triều Nguyễn, vua
Gia Long nhớ ơn đã không chủ trương lập chế độ công điền công thổ, vẫn muốn thả
lỏng cho giai cấp địa chủ Gia Định kiêm tính ruộng đất như trước.
Cho đến thời vua Minh Mạng, ơng khơng muốn duy trì chính sách tản quyền,
“địa phương trị” với Bắc thành và Gia Định thành. Nên từ khi Lê Văn Duyệt- tổng
trấn Gia Định thành mất (1832)- Minh Mạng đã cho chia Nam Kỳ thành 6 tỉnh với các
chức danh: đốc, phủ, bố, án và lãnh binh. Sự thay đổi quan trọng về hành chính này là
nhằm thắt chặt quản lý đối với địa phương ở Nam Kỳ của chính quyền trung ương.
Đặc biệt sau sự biến Lê Văn Khôi (1833- 1835), Minh Mạng càng thấy rằng cần phải
xiết chặt hơn nữa sự cai trị và đưa Nam Kỳ vào khuôn khổ chung của cả nước. Và
việc làm đầu tiên ông đưa ra là cử đoàn đi kinh lý Nam Kỳ. “Việc cai trị và phép tắc
làm quan ngày càng bỏ mất, phong tục nhân dân và lè thói nhân sĩ ngày càng kiêu
14

Trần Thị Thu Lương (1994), Sđd, tr.52

15

Quốc sử quán triều Nguyễn, Sđd, tr. 95

17


căng xa xỉ... nay phái đoàn kinh lược sứ đến sáu tỉnh thay trẫm kinh lý một phen”. 16
Đoàn kinh lý này có nhiều nhiệm vụ nhưng một trong số đó thì nhiệm vụ quan trọng
nhất là đạc điền, lập địa bạ. Minh Mạng đã hiểu được tầm quan trọng của việc nắm địa

phương nên phải tìm cách quản lý ruộng đất.
Ơng cho rằng: “Xưa nay ruộng đất đều có ghi rõ mẫu, sào, thước, tấc, đó là
phép thường khơng thay đổi. Các tỉnh trong khắp nước đều như thế cả, há có lý nào
sáu tỉnh Nam Kỳ lại khác riêng theo nếp cũ hay sao ? Trong số ruộng ít thấy ghi mẫu,
sào và hạng bậc đẳng điền mà cứ tính theo dây, một thửa có đến 8,9 phần 10. Như
vậy không những hầu như quê mùa, không phải là quy chế thống nhất mà ranh giới
không rõ ràng lại để sinh ra mối tệ. Nếu xảy ra án kiện tranh giành thì đơng tây tứ chi
lờ mờ, khơng lấy đâu chứng cứ, quan lại xảo quyệt, cường hào điêu toa càng dễ xoay
xỏa thì lấy gì mà xử án dứt khoát và dập tắt tranh giành ? Thực có nhiều điều bát
tiện. Trước giờ cịn cứ rập theo chưa kịp đề ra việc này. Nay sự biến đã n thì việc
này phải nên kinh lý làm trước”.17
Điều đó cho thấy Minh Mạng không muốn vùng đất Nam bộ này phát triển việc
sở hữu ruộng đất tự do như trước. Vì vậy ơng muốn áp đặt chế độ cơng điền công thổ,
vừa là giải pháp kinh tế xã hội lại vừa là giải pháp chính trị để lập lại trật tự, thắt chặt
quản lý ở đây. Chế độ công điền công thổ đã lần đầu tiên được thiết lập ở Nam bộ
trong cuộc kinh lý này đạc điền lập địa bạ năm 1836 này. Các ghi chép, đo đạc mạch
lạc và hệ thống về ruộng đất Nam bộ về cơ bản đã phản ánh được tình hình ruộng đất
Nam bộ. Tuy nhiên, từ năm 1836 đến năm 1858, diện tích ruộng đất hoang ở Nam bộ
vẫn tiếp tục biến động, nhất là dưới thời vua Tự Đức khi có chính sách “đồn điền lập
ấp” của Nguyễn Tri Phương.
Tiểu kết:
Vương triều Nguyễn đã có những chính để tăng cường quyền lực của mình đặc
biệt là trong việc xác định và phân chia lại chế độ sở hữu ruộng đất ở vùng đất Nam
Bộ. Vùng đất Đồng Nai – Gia Định trước đây được khai hoang, mở đất bởi những
nông dân nghèo, những binh lính từ miền Trung vào để tìm vùng đất mới để sinh sống
16

Quốc sử quán triều Nguyễn, Sđd, tr. 50

17


Quốc sử quán triều Nguyễn, Sđd, tr. 50

18


và những lớp cư dân người Hoa, những người địa chủ giàu có. Do là vùng đất mới
khai hoang chính quyền nhà Nguyễn quản lí vùng đất Nam Bộ này cũng chưa lâu và
do những điều kiện phát triển riêng biệt của xã hội Đồng Nai – Gia Định nên ở thế kỉ
XVIII chế độ công điền công thổ chưa được thiết lập giống như ở miền Bắc và miền
Trung. Đồng thời vùng đất Đồng Nai – Gia Định được khai khẩn trong thời kì mà
ruộng đất tư đã phát triển trong thực tế cùng với đó là do điều kiện kinh tế, xã hội của
thời kì khẩn hoang như địa bàn đất đai rộng lớn, cư dân thưa thớt, làng xóm chưa
được ổn định, bộ máy cai trị chính quyền chưa hoàn chỉnh và chặt chẽ nên lúc ban đầu
sở hữu ruộng đất ở Nam Bộ là sở hữu ruộng đất tư.
Đến năm 1836 trước những biến đổi trong chính trị, kinh tế, xã hội và nhằm mục
đích của giai cấp thống trị là củng quyền lực chính trị của vương triều mình nên vua
Minh Mạng đã cho thiết lập chế độ công điền công thổ ở vùng đất Đồng Nai – Gia
Định này. Lần đầu tiên đất đai ở vùng đất Đồng Nai – Gia Định đã được đo đạc và
được ghi chép vào địa bạ một cách cẩn thẩn. Tuy nhiên, đối với vùng đất Nam Bộ với
điều kiện phát triển kinh tế đang trên đà phát triển cùng với sự phát triển của ngoại
thương của vùng đất mới Đồng Nai – Gia Định thì việc xuất hiện chế độ sở hữu ruộng
đất công điền công thổ với sự gượng ép của vương triều Nguyễn đã kiềm hãm sự phát
triển kinh tế của một vùng đất mới với nhịp điệu, diện mạo mới của vùng đất. Do vậy
ở thế nửa đầu thế kỉ XIX mặc dù ở vùng Nam Bộ kinh tế vẫn phát triển tương đối thì
so với thế kỉ XVII – XVIII thì nền kinh tế đã bị kiềm hãm rất nhiều. Mà biểu hiện rõ
nét nhất là những trung tâm kinh tế của vùng Nam Bộ ở thế kỉ XVIII như Cù Lao Phố,
Mỹ Tho, Chợ Lớn…. Đến những năm đầu thế kỉ XIX đã khơng cịn thịnh vượng nữa
mà chỉ cịn một số ít trung kinh tế của vùng Nam Bộ phát triển dưới những chính sách
của triều Nguyễn. (do triều Nguyễn được thành lập với yêu cầu xây dựng nhà nước

quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền nên triều Nguyễn đã thực hiện nhiều chính
sách để củng cố quyền lực của mình)
2.1.2. Sở hữu tư nhân về ruộng đất ở Đồng bằng Nam Bộ nửa đầu thế kỉ XIX
chiếm ưu thế so với sở hữu công:
Thứ nhất, cách thức sở hữu ruộng đất tư ở đồng bằng Nam bộ nửa đầu thế kỉ
XIX.
19


Cách thức sở hữu ở đây khá đa dạng, nhưng cơ bản có hai loại:
- Sở hữu đơn chủ: một người đứng tên một diện tích sở hữu. Thơng thường một
chủ đứng tên sở hữu một hay nhiều thửa ruộng đất (hay ao cá), đó là sở hữu đơn chủ
tất cả phần diện tích ruộng đất của họ. Một diện tích sở hữu khơng nhất thiết chỉ là
một thửa ruộng, một thửa đất hay một ao cá mà là toàn bộ diện tích sở hữu của một
chủ sở hữu.
- Sở hữu đa chủ: từ hai người trở lên đứng tên một diện tích sở hữu. Sở hữu đa
chủ có tất cả các loại: sở hữu ruộng, sở hữu đất, sở hữu vừa ruộng vừa đất, sở hữu ao
cá. Sở hữu đa chủ khơng hồn tồn chỉ là nhóm người của bản thơn mà có thể có
người phụ canh từ địa phương khác đến.18
Hai loại hình này tồn tại song song và khơng hồn tồn tách biệt nhau. Một
người vừa có thể đứng tên ở sở hữu đơn chủ lẫn đa chủ. Tóm lại, hình thức sở hữu
ruộng đất tư ở Nam bộ nửa đầu thế kỉ XIX khá đa dạng.
Ví dụ: ở thơn Bình Thới, tổng Thạnh Phong, huyện Kiến Hòa, tỉnh Định Tường,
tổng số chủ sở hữu là 107 nhưng có 8 người vừa đứng tên chủ sở hữu đươn chủ vừa là
đa chủ nên thật ra chỉ có 99 chủ sở hữu.19
Thứ hai, tình hình phân bố sở hữu ruộng đất tư hữu:
Thống kê qua địa bạ của 124 thôn xã thuộc 10 tổng được chọn 20 , dưới đây là
bảng tổng hợp tổng số diện tích tư điền tư thổ và tỷ lệ của nó với diện tích từng tổng:

STT


Tổng (tỉnh)

Tổng diện tích
tồn tổng

Diện tích ruộng Tỷ lệ (%)
đất tư (mẫu)

(mẫu)

18

Trần Thị Thu Lương (1994), Sđd, tr.66

19

Trần Thị Thu Lương (1994), Sđd, tr. 67
Nguyễn Đình Đầu (1992), Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp ở Nam kỳ lục tỉnh, Hội

20

Sử học Việt Nam, tr. 132

20


1

Lợi Trinh (Định Tường)


17893,8

17442,1

97,5

2

Thạnh Phong (Định Tường)

4044

3931,6

97,2

3

Bình Trị Hạ (Gia Định)

1152,8

1097,7

95,2

4

Hịa Lạc (Gia Định)


26252

23402,5

89,1

5

An Thủy Đơng (Biên Hịa)

730,2

600,6

82,2

6

Bảo Ngãi (Biên Hòa)

1168,9

1164,4

99,6

7

Tuân Lễ (Vĩnh Long)


803,3

0

0

8

An Thạnh (An Giang)

6674

6420,9

96,2

9

Định Thới (An Giang)

8793,5

8172,6

93

10

Quảng Xuyên (Hà Tiên)


445

80,1

18

Bảng thống kê tổng số tư điền tư thổ và tỉ lệ của nó đối với diện tích ruộng đất
từng tổng qua địa ba của 124 thôn xã thuộc 10 tổng21
So sánh kết quả trên với tổng số diện tích tư điền tư thổ của từng tỉnh Nam Kỳ
năm 183622 chúng ta sẽ thấy tỷ lệ ruộng đất tư trong các tổng được chọn khảo sát đã
phản ánh đúng ruộng đất tư của từng tỉnh:
- Tỉnh Định Tường: tỷ lệ ruộng đất tư toàn tỉnh là 97,6%.
+ Lợi Trinh, huyện Kiến Đăng: tỷ lệ tư điền tư thổ là 97,5%
+ Thạnh Phong huyện Kiến Hòa: tỷ lệ tư điền tư thổ là 97,2%.
- Tỉnh Gia Định: tỉ lệ ruộng đất tư tồn tỉnh là 92,71%
+ Bình Trị Hạ, huyện Bình Dương: tỉ lệ tư điền tư thổ là 95,2%
+ Hòa Lạc, huyện Tân Hòa: tỉ lệ là 89,1%
- Tỉnh Biên Hịa: tỉ lệ ruộng đất tư của tồn tỉnh là 88,47% thì ở tổng An Thủy
Đơng, huyện Bình An tỉ lệ tư điền tư thổ 82,2%.

21

Trần Thị Thu Lương (1994), Sđd, tr. 65

22

Trần Thị Thu Lương (1994), Sđd, tr. 65

21



- Tỉnh Vĩnh Long: tỉ lệ ruộng đất tư toàn tỉnh là 86,4%. Trong đó có 4 huyện:
Vĩnh Bình, Vĩnh Trị, Trà Vinh, Tn Ngãi có tỉ lệ cơng điền rất cao 23. Do vậy theo kết
quả khảo sát tỉ lệ ruộng đất tư ở tổng Tuân Lễ huyện Tuân Ngãi là 0% và tổng Bảo
Ngãi huyện Bảo An là 99,6% là vẫn hồn tồn phản ảnh đúng tình hình ruộng đất tư ở
Vĩnh Long.24
- Tỉnh Hà Tiên: tỉ lệ ruộng đất tư tồn tỉnh là 23,13% thì ở tổng Quảng Xuyên,
huyện Long Xuyên tỉ lệ tư điền tư thổ là 18%.
Có thể nói, trừ một số địa phương đặc biệt có tỉ lệ sở hữu tư thấp hoặc khơng có
thì nhìn chung tư điền tư thổ cho đến nửa đầu thế kỉ XIX chiếm một tỉ lệ tuyệt đối ở
nông thôn Nam bộ.
Hiện tượng phụ canh sớm phổ biến trong canh tác nông nghiệp ở Nam Bộ. Địa
bạ triều Nguyễn đã phản ánh rất rõ tình hình phụ canh ở hầu hết các thơn xã ở Nam
Bộ, trong đó, có nhiều trường hợp các hộ nơng dân khơng chỉ có ruộng đất phụ canh
trong thơn ấp của mình mà cịn có ruộng đất phụ canh ở làng khác, xã khác, huyện
khác, thậm chí tỉnh khác.
Ví dụ ở tổng Định Thới, huyện Vĩnh Định, phủ Tân Thành, tỉnh An Giang có 4
thơn trong địa bạ. Cả 4 thơn đều có hiện tượng phụ canh. Tổng số phụ canh của 4 thôn
là 46 chủ, sở hữu 1111,8 mẫu ruộng đất, chiếm 17,3% số chủ (46/266) và 13,6% diện
tích ruộng đất (1111,8/8172,6). Số chủ phụ canh cùng tổng là 10 chủ, chiếm 21,7%
còn số chủ phụ canh từ tổng, huyện khác tới là 36 chủ, chiếm 78,3%. 25
Một trường hợp đặc biệt ở tổng Hòa Lạc, huyện Tân Hòa, phủ Tân An, tỉnh Gia
Định. Tổng số người phụ canh ở tổng này là 230 người, sở hữu 7456,7 mẫu ruộng đất,
chiếm 31,9 % ruộng đất (7456,7/23402,5) và 31% số lượng chủ (230/742). Tổng này
có thơn Bình Nghị 100% ruộng đất của thơn do những người của 6 thôn bên cạnh
đứng tên, địa bạ hồn tồn khơng ghi sở hữu của người bản thơn. Trong 92 thơn xã có

23


Nguyễn Đình Đầu, Sđd, tr.22

24

Trần Thị Thu Lương (1994), Sđd, tr. 66
Trần Thị Thu Lương (1994), Sđd, tr.173

25

22


ruộng đất tư thuộc 10 tổng chọn khảo sát thì đây là trường hợp duy nhất có tỷ lệ phụ
canh 100%.26
Trong 10 tổng khảo sát, có 92 thơn xã có ruộng đất tư thì có đến 76 thơn xã có
phụ canh ruộng đất. Điều đó chứng tỏ đến nửa đầu thế kỉ XIX, phụ cạnh là một hiện
tượng phổ biến trong sở hữu ruộng đất tư của nông thôn Nam bộ. Đó vừa là sự giao
lưu sở hữu ruộng đất giữa các thôn xã cùng tổng, vừa là với các địa phương ngoài
tổng. Hiện tượng này phản ánh mối giao lưu kinh tế chứ khơng phải là kiêm tính
ruộng đất bởi đa số chủ phụ canh là những người có ít ruộng đất hoặc khơng có ruộng
đất ở q. Đồng thời, phụ canh cịn phản ánh tình trạng quản lý ruộng đất lỏng lẻo của
giai đoạn trước đó tại vùng Nam bộ này.
Khảo sát địa bạ năm 1836 của 10 tổng (gồm 124 thôn xã) thuộc 6 tỉnh Nam Kỳ,
chúng ta ghi nhận sự thiết lập ruộng đất công tại nông thôn Nam bộ. Tỷ lệ ruộng đất
công tư khác nhau nở những địa phương khác nhau phản ánh lịch sử hình thành cơ
cấu ruộng đất tại đó cũng như những ảnh hưởng và sự quản lý của chính quyền trung
ương với địa phương. Những địa phương nào có lịch sử thành lập sớm, ruộng đất do
người dân bỏ công sức khai khẩn từ lâu thì ruộng đất cơng ít, sự tái lập ruộng đất công
dưới áp lực của nhà nước phong kiến ở đây không mạnh mẽ, nhưng ở những vùng
mới khai khẩn, lưu dân nghèo dựa vào sự trợ giúp của cơng quỹ nhà nước để khẩn

hoang thì ruộng đất công chiếm một tỉ lệ rất cao.
Tiếu kết:
Sở hữu tư nhân về ruộng đất ở Đồng bằng Nam bộ nửa đầu thế kỉ XIX chiếm tỉ
lệ cao trong tổng số ruộng đất khai hoang được. Đồng Nai – Gia Định vốn là vùng đất
mới, được người nông dân nghèo khai hoang cùng với những người giàu có muốn tìm
vùng đất mới để xây dựng cơ ngơi của mình. Là vùng đất mới và hệ thống chính
quyền nhà Nguyễn buổi đầu chưa kiểm soát chặt chẽ sự phát triển của vùng đất này.
Nhà nguyễn cịn dùng những chính sách khuyến khích để khai hoang lập ấp, mở rộng
diện tích. Nên số lượng ruộng đất mà người nông dân, các địa chủ khai khẩn được vẫn
để họ sở hữu và canh tác trên mảnh đất đó. Do vậy ở miền Đồng Nai – Gia Định xưa
hình thức sở hữu ruộng đất đầu tiên đó chính là sở hữu tư nhân chứ khơng phải hình
26

Trần Thị Thu Lương (1994), Sđd, tr.161

23


thức sở hữu công điền công thổ mà khoảng vào năm 1836 triều Nguyễn đã chính thức
thực hiện ở vùng đất mới này. Sở hữu ruộng đất tư ở Nam Bộ được chia làm hai loại
sở hữu nhỏ và sở hữu lớn. Sở hữu nhỏ thường là của người nông dân khẩn hoang
nghèo đây là hình thức sở hữu trước nhất ở vùng đất Nam Bộ. Hình thức sở hữu lớn là
của tầng lớp địa chủ khởi đầu là những người dân có vật lực từ miền Trung vào vùng
đất mới để làm giàu. Sau đó do điều kiện thuận lợi về tự nhiên và xã hội nên những
tầng lớp địa chủ này có điều kiện để phát triển và nó trở thành lực lượng sở hữu ruộng
đất tư nhiều ở vùng đất Nam Bộ mới này. Trong điều kiện vùng đất khai hoang còn
rộng rãi, khai phá một cách tự do cộng thêm đó là do triều đình khuyến khích khai
hoang và phát triển vùng đất mới khai thác chính những điều đó đã tạo điều kiện cho
ruộng đất tư ở Nam Bộ những năm đầu thế kỉ XIX vẫn chiếm số lượng lớn mặc dù
chế độ công điền công thổ được nhà Nguyễn chủ trương và đi vào thực hiện.

2.1.3. Nông nghiệp ở Nam Bộ đầu thế kỉ XIX đã kết hợp việc sản xuất lúa gạo với
trồng các loại cây nông sản khác và phát triển kinh tế miệt vườn.
Trong phát triển kinh tế, đặc điểm nổi bật của Nam Bộ trong các thế kỷ XVII XIX là việc hướng đến mục tiêu phát triển nông nghiệp. Diện tích đất đai được khai
thác và đưa vào sản xuất nông nghiệp theo kết quả đợt đo đạc được tiến hành năm
1836, dưới thời vua Minh Mạng là 378.845 mẫu ta (tương đương 130.000 ha), bằng
66,6% diện tích ruộng đất tồn Nam Bộ. Đến năm 1867, diện tích canh tác tăng lên
gấp hơn hao lần, đạt 276.909 ha. Trong đó, tiểu vùng Bắc sơng Tiền được tập trung
khai thác mạnh nhất với 50,9% diện tích trồng lúa tồn vùng, tiểu vùng giữa sông Tiền
và sông Hậu chiếm 34,5% và tiểu vùng sơng Hậu chiếm 14,6% 27. Do tính chất tự
nhiên của nền kinh tế và tập quán canh tác lâu đời của nông dân tiểu nông, canh tác
nông nghiệp của Nam Bộ thời kỳ này chủ yếu vẫn là trồng lúa.
Diện tích canh tác của hầu hết các địa phương ở vùng Đồng Nai – Gia Định xưa
được ghi chi tiết trong các địa bạ. Là vùng đất có nhiều điều kiện thuận lợi để phát
triển nông nghiệp đặc biệt là phát triển lúa nước. Lúa gạo sớm là nông sản đặc trưng
của vùng đất Nam Bộ không chỉ phục vụ trong khu vực mà còn được trao đổi mua bán
27

PGS.TS. Trần Thị Mai (2014), Một số đặc điểm kinh tế - xã hội vùng đất Nam bộ trước khi thực dân Pháp

xâm lược, Website: www.camau.gov.vn.

24


ở vùng Thuận Quảng và các nước trong khu vực ở những năm thế kỉ XVIII. Theo ghi
chép của Phủ biên tạp lục của Lê Q Đơn thì: “Miền Gia Định có rất nhiều thóc
gạo… Hằng năm, cứ đến tháng 11 và tháng chạp, người ta thường xay, giã thóc lúa
thành gạo đem đi bán lấy tiền tiêu dùng vào những lễ tiết chạp. Những lúc bình
thường, người ta chuyên chở gạo thóc ra bán tại thành Phú Xuân để đổi chác hay
mua sắm những hàng vóc nhiễu, trừu đoạn của người Tàu” 28.

Đến nửa đầu thế kỉ XIX thóc gạo vẫn là mặt hàng được mua bán chủ yếu trên thị
trường. Diện tích canh tác ruộng lúa ở Nam Bộ lớn. Lúc ban đầu do vị trí thuận tiện
liên lạc qua đường sông với các tỉnh miền Tây, nên Chợ Lớn là trung tâm buôn bán
nông sản và đồ tiêu dùng giữa miền Tây và thế giới bên ngoài. Đầu thế kỷ 19 trước
khi người Pháp đến, Chợ Lớn được gọi là Tai Ngon hay Saigon, Saigon được gọi là
Bến Nghé. Gạo là sản phẩm quan trọng nhất. Ở làng Bình Tây, vào đầu thế kỷ XIX đã
có 240 nhóm xay gạo, làm hàng xáo, mỗi nhóm có 5-6 giàn cối xay. Các thương gia
người Hoa ở Chợ Lớn nắm vai trò hầu như độc quyền thu mua khi vận tải qua sơng
rạch là phương tiện giao thơng chính.
Dưới thời nhà Nguyễn, xuất khẩu ra các nước ngoài được kiểm sốt ngặt nghèo
và nghiêm cấm. Triều đình thu thuế và thâu mua lúa gạo vào kho dự trữ và cung cấp
cho nhiều vùng trong nước. Vì thế miền nam là vựa lúa quan trọng cho cả nước. Các
tàu ngoại quốc đến buôn bán, mua nông sản (gạo, đường,..) bán đồ tiêu dùng, phải xin
phép triều đình trước khi cặp bến và chịu nhiều thuế. Cảng Saigon rất hạn chế và các
tàu nước ngồi ít viếng vì rất khó khăn được phép, nhất là từ khi có chính sách bế
quan tỏa cảng của vua Minh Mạng.
Tuy nhiên, Nam Bộ là vùng đất mới có nhiều điều kiện thuận lợi nên không chỉ
thuận lợi để phát triển cây lúa nước mà cịn nhiều loại cây nơng sản khác nữa. Ở đầu
thế kỉ XIX bên cạnh canh tác lúa nông dân Nam Bộ cịn trồng cây ăn trái và nhiều loại
cây nơng sản khác. Qua nghiên cứu địa bạ nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra những
nhận xét là vào những năm đầu thế kỉ XIX nhiều trường hợp ở vùng đất đã thay đổi
loại hình canh tác ruộng sang canh tác đất vườn. Đã khơng cịn việc độc canh cây lúa
ở vùng đất Nam Bộ giàu tiềm năng này nữa. Theo nghiên cứu của Trần Thị Thu
28

Trần Thị Thu Nhung (2011), Lịch sử vùng đất Nam Bộ một số kết quả nghiên cứu, Nxb Khoa học xã hội, tr.66.

25



×