Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

BUT DANH 1 SO NHA VAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.95 KB, 9 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, Bác Hồ của chúng ta đã sử dụng hơn 100 tên,</b>
<b>biệt hiệu, bút danh. Xin giới thiệu 70 tên gọi, bút danh, bí danh, biệt hiệu Người đã sử</b>
<b>dụng trước cách mạng Tháng Tám năm 1945.</b>


Thời thơ ấu của Bác, ở làng Sen, bà con thường gọi cậu bé Nguyễn Sinh Cung là Cậu
Côông. Trước khi lên tàu ra đi tìm đường cứ nước, trong phong trào đấu tranh chống sưu
cao thuế nặng ở Huế, nổi lên người thanh niên học sinh yêu nước Nguyễn Tất Thành, sau
này là thày giáo Nguyễn Tất Thành ở Trường Dục Thanh (Phan Thiết). Khi làm đầu bếp trên
tàu Latouche Tréville, Nguyễn Tất Thành lấy tên là anh Ba hoặc Văn Ba. Trong lá thư gửi từ
Niu-oóc về cho Khâm sứ Trung Kỳ nhờ tìm địa chỉ của cụ Nguyễn Sinh Huy, Bác ký tên là
Paul Tất Thành.


Từ năm 1919, bắt đầu xuất hiện tên Nguyễn Ái Quốc ký dưới Bản yêu sách của nhân dân
<i>An Nam gửi đến Hội nghị quốc tế vì hồ bình họp ở Versailles và nhiều thư từ, kiến nghị, bài</i>
báo khác. Là một trong những người sáng lập Tờ báo Le Pa-ria của Hội Liên hiệp thuộc địa,
chỉ trong năm 1922, Nguyễn Ái Quốc đã viết gần 20 bài phơi bày dã tâm và tội ác của chủ
nghĩa thực dân. Đồng thời Nguyễn Ái Quốc cũng viết hàng loạt bài đăng trên báo
L’Humanité của Đảng Xã hội Pháp, các báo La Viie Ouvrière, Le Journal du Peuple, Le
Libertaire và các tập san La Revue Communiste, Inprekorr dưới các bút danh: Nguyễn A. Q,
Ký Viễn, N. A. Q.


Tiếp đó, trong những năm 1923-1924, Nguyễn Ái Quốc còn sử dụng thêm một số bút danh
và tên gọi khác dưới các bài viết và trong hoạt động cách mạng: Chú Nguyễn, N, S Chon
Vang, Cheng Vang, Trần Vương, Ai Qua Que, Nguyễn Hải Khách, Lý Thụy.


Thời gian từ năm 1925 đến năm 1930, hoạt động trên cương vị là Ủy viên Ban Phương
Đơng, phụ trách Văn Phịng Phương Nam của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đảm
nhận việc truyền bá chủ nghĩa cộng sản vào châu Á nói chung và Đơng Dương nói riêng,
theo dõi và chỉ đạo phong trào cách mạng ở một số nước, chuẩn bị mọi điều kiện cho việc
thành lập chính đảng của giai cấp vơ sản ở trong nước.



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i>phòng đại diện Đảng Cộng sản Mỹ... Ngồi ra, Người cịn dùng nhiều tên, bí danh khác như</i>
Nilốpski, Ho Wang, Trương Nhược Tường, Vương Sơn Nhi, Vương Đạt Nhân, Lonis-Berlin,
Loa Roi Ta, Thọ biệt hiệu là Nam Sơn.


Tiếp đó là thời gian Bác Hồ của chúng ta từ Trung Quốc qua Thái Lan rồi từ Thái Lan trở lại
Trung Quốc để chuẩn bị về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Để đảm bảo bí mật, Nguyễn
Ái Quốc nhiều lần cải trang khi là lính hầu, lúc là thày địa ký, có khi lại là thầy lang bơn ba
đây đó chữa bệnh cứu người. Tên tuổi, bút danh của Người cũng nhiều lần được thay đổi.
Những khi tiếp xúc với kiều bào, Người là Chín, Thầu Chín, Chính, Nguyễn Lai, Lý Tín Tống,
Trần, Lê, Pan, Ơng Lý Hồng Cơng, Tiết Nguyệt Lâm. Dưới các bài báo Nguyễn Ái Quốc ký
nhiều tên khác nhau: Howang T.S, Wang, A.P, N.K, N. Ái Quốc, Nguyễn, H, T, Loa Shing
Lan, Victo, Vector Lebm, K.K.V, Line, LW Vương, T.V.Wang, Có khi Người chỉ ký một chữ V
dưới bài “Nghệ tĩnh đỏ” viết bằng tiếng Anh; lấy bút danh Quac, E.Wan dưới các bài vạch
mặt đế quốc Pháp; ký một chữ K Thư gửi Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản.


Trong bản khai trích ngang dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản(1935), Người ghi “bí danh trong
Đảng là Jeng Man Huân”, bí danh dùng trong Đại hội là Lan. Sau này, khi từ Tây An về
Quảng Tây (Trung Quốc) hoạt động, Người đã đóng giả lính hầu cho một viên quan Trung
Hoa (là người của Đảng Cộng sản Trung Quốc chọn cử), lúc lại là thiếu tá Hồ Quang bên
cạnh tướng Diệp Kiếm Anh qua lại Văn phòng Bát lộ quân. Thời gian này Bác Hồ có biệt
hiệu là ơng Trần, là đồng chí Vương khi gặp gỡ các đại biểu từ Việt Nam sang. Bài viết đăng
trên các báo được ký dưới nhiều bút danh mới như P.C.Line, Bình Sơn.


Từ tháng 1-1941, Bác về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Trong
thời gian đầu, Bác lấy bí danh là Già Thu và chọn hang Pắc Bó (Cao Bằng) làm cơ sở hoạt
động cách mạng bí mật. Những tháng ngày gian khổ ở căn cứ địa Việt Bắc, Bác có bí danh
là Thu Sơn, Ông Ké. Trong những ngày Tháng Tám 1945 sục sôi khí thế cách mạng, Bác ký
tên Hồ dưới thư viết bằng tiếng Anh gửi Trung úy Charles Fenn, người trực tiếp điều khiển
nhóm tình báo Đồng minh hoạt động trên đất Việt Nam khi đó; Ký tên C.M Hồ dưới thư gửi
ông Ph.Tan, là người Mỹ gốc Hoa sẽ cùng về Việt Nam với Hồ Chí Minh để thực thi nhiệm


vụ do nhóm cơng tác của Charles Fenn giao cho.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>VŨ QUẦN PHƯƠNG</b>



Những lần gặp nhà văn Bão Vũ, nhà văn Vũ Bão thường đùa trêu: “Tớ không phải tên Vũ
Bão mà lấy là Vũ Bão. Còn cậu là Vũ Bão thật lại phải đổi tên. Đúng là đời nay, người ngay
sợ... kẻ gian”.


Từ mấy chục năm nay, Vũ Quần Phương đã trở thành một cái tên quen thuộc trong làng thơ
Việt Nam . Tuy nhiên, đây không phải tên thật mà là bút danh của ông. Theo Vũ Quần
Phương cho hay thì tổng Quần Phương cũ (nay là huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định) vốn dĩ là
q bố ơng, nơi hiện cịn ngơi mộ của cụ. Sau này do chiến tranh, sơ tán lưu lạc, gia đình
ơng ít có điều kiện trở lại. Vì thế, để khỏi mất gốc, ông đã lấy tên địa danh này làm bút danh
của mình. Chính thực Vũ Ngọc Chúc mới là tên cúng cơm của ông.


Xung quanh cái bút danh nghe nửa Hán nửa nôm của Vũ Quần Phương, có nhiều chuyện
vui. Nhưng đáng nhớ nhất có lẽ là câu chuyện sau đây:


Lần ấy, căn nhà nhỏ hẹp của nhà thơ Vương Trọng ở khu tập thể Vân Hồ 3 (Hà Nội) liền lúc
được đón tiếp hai vị khách quen. Nói “quen” là với chủ nhà chứ bản thân hai người khách
này khơng hề biết nhau. Đó là nhà giáo Trần Tế và nhà phê bình văn học Vũ Phương. Trong
đầu Vương Trọng chợt nảy ra một ý nghĩ hóm. Ơng bèn giới thiệu hai vị với nhau bằng hai
câu thơ mới ứng tác:


<i>Đây là Trần Tế (khơng xương)</i>


<i>Cịn kia đích thực Vũ Phương (khơng quần)</i>


Chủ ý của tác giả đã rõ: Đây là Trần Tế chứ không phải Trần Tế Xương (tức nhà thơ Tú
Xương). Và kia: Nhà phê bình Vũ Phương chứ khơng phải nhà thơ kiêm nhà phê bình Vũ


Quần Phương. Thật là một cách giới thiệu vui và... độc đáo.


Khi câu chuyện này đến tai nhà thơ Vũ Quần Phương, ông tủm tỉm cười chịu rằng ông bạn
đồng nghiệp Vương Trọng “quả là thông minh”. Nhân thể, ông đã đọc cho tác giả bài viết này
nghe một bài thơ ngắn, chỉ có 4 câu, trong đó ơng nói rõ lai lịch cái bút danh của mình:


<i>Tên Quần Phương, thân tha phương</i>
<i>Tơi lấy tên quê làm độ đường</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Tuy ngắn nhưng bài thơ đã ký thác được rất nhiều tâm sự của tác giả.
<b>Bút danh “thật” hơn tên thật </b>


Vũ Bão là bút danh của một nhà văn khá thành công trong thể loại truyện hài, mặc dù ngay
từ thuở lọt lịng, ơng đã được cụ nội đặt cho cái tên rất ngay ngắn, nghiêm trang là... Phạm
Thế Hệ.


Phạm Thế Hệ thuộc lớp người trưởng thành khi cuộc kháng chiến chống Pháp bước vào
giai đoạn cam go nhất. Sẵn hào khí tuổi trẻ trong mình, nên khi nhìn sang các bạn viết cùng
trang lứa, ông không khỏi cảm thấy bị “mê hoặc” bởi các bút danh tuy chỉ được ghép bằng
những chữ nơm thơi, song ý nghĩa thì đậm tinh thần lạc quan Cách mạng. Ấy là Thép Mới, là
Tre Xanh, là Lửa Hồng, là... Vốn sẵn định kiến với cái tên mang dấu ấn Hán ngữ của mình,
chẳng khó khăn gì mà cây bút trẻ khơng xoay xỏa cho mình một bút danh. Và thế là cái tên
Vũ Bão chính thức “trình làng” từ đây.


Nhưng rồi, niềm vui ngắn chẳng tày gang, không ai khác mà chính cụ thân sinh ra Vũ Bão đã
“mở mắt” cho ông thấy, ông đã “tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa”, bởi chữ “bão” tiếng vậy nhưng
lại là chữ Hán. Nó có nghĩa là “no” (trong câu “thực vơ cầu bão”, nghĩa là ăn chẳng cầu no),
chứ không chỉ đơn giản như ơng nghĩ “bão” là “gió bão”. Tuy nhiên, khi “ngộ” ra điều này thì
cuốn tiểu thuyết “Sắp cưới” của Vũ Bão đang bị xem là “có vấn đề”, bị báo chí lên tiếng chỉ
trích (sau Đổi mới, cuốn tiểu thuyết đã được NXB Phụ nữ tái bản với số lượng lớn). Trong


tình cảnh ấy, nếu ơng chọn cho mình một cái bút danh khác e bạn bè thân hữu hiểu lầm là
tác giả có ý “bỏ của chạy lấy người”. Bởi vậy ông đành cắn răng giữ lại cái bút danh này.
Nhà văn Vũ Bão tâm sự: Càng cứng tuổi, ông càng nhận chân ra một điều: Cái tên Phạm
Thế Hệ thoạt nghe có vẻ... ngang tàng, song kỳ thực cái tên Vũ Bão còn... ngang tàng hơn.
Điều này làm ơng có lúc cảm thấy ân hận, hối tiếc phút “hăng tiết vịt” của mình. Bây giờ, đi
đâu nghe người ta giới thiệu tên mình là Vũ Bão, ơng khơng khỏi có cảm giác sượng sùng,
ngài ngại, vì cái tên nghe thì “hùng dũng” vậy, song bên ngồi thì lại là một ơng già vóc dáng
thấp bé nhẹ cân, bước chân tập tà tập tễnh, nói chung là “rất núng thế”. Ơng khơng muốn
mọi người bất ngờ về “nghịch cảnh” ấy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<b>Trong quá trình đi tìm tài liệu để làm tập tư liệu </b><i><b>“Sức sống Nam Cao”,</b></i><b> tổ KHXH trường</b>
<b>cấp 2 Nhân Hậu, Lý Nhân, Hà Nam đã được những người bạn đồng môn, đồng</b>
<b>hương; anh em ruột thịt… của nhà văn Nam Cao kể cho nghe chuyện nhà văn Nam</b>


<b>Cao chọn bút danh.</b>


Ông Trần Hữu Đạt (em ruột nhà văn Nam Cao) kể: Rất nhiều bạn đồng mơn, đồng hữu như
ơng Hồng Tùng, Hồng Cao và một số người có dịp gặp nhà văn đều gạn hỏi: Cớ sao ông


lại lấy bút danh Nam Cao?
Nhà văn tủm tỉm:


- Làng mình đã có hai ơng hồng rồi (ý nói Hồng Tùng, Hồng Cao lúc ấy đang giữ trọng
trách trong Đảng và quân đội). Còn mình thì võ dốt lắm.


Ơng Hồng Cao - bạn thân và cũng là người họ hàng với nhà văn nhớ lại: Lúc chia tay, mỗi
người một hướng đánh giặc. Nam Cao tâm sự với Hồng Cao:


“Chúng mình là con trai làng Đại Hoàng, trai Lý Nhân, trai Nam Sang, đi đâu, làm gì cũng
phải xứng danh là trai Nam Sang nhé! Các cậu là Hồng thì phải Huy Hồng, Đại Hồng



nhé!”.


Ơng Hồng Cao nhớ rõ: Nhiều lần ơng lục tìm các tài liệu, bản thảo cịn lại của Nam Cao thì
thấy: Bản thảo nào Nam Cao cũng đề rõ ở góc trên, bên trái, trang đầu:


<i>Đại Nam quốc</i>
<i>Hà Nam tỉnh</i>
<i>Nam Sang huyện</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Các bản thảo đều được nhà văn ghi chữ Nam, có bản lại ghi chữ Cao hoặc Nam Cao ở dưới
các hàng chữ trên. Nhưng vẫn không quên ghi rõ tên Trần Hữu Tri (là tên thật của nhà văn)


dưới bản thảo.


Theo ông Trần Hữu Đạt, thì anh trai mình lấy bút danh là Nam Cao là do nhà văn ghép chữ
đầu tên huyện (Nam) với chữ đầu tên tổng (Cao) để nhớ ơn mảnh đất nơi ơng đã sinh thành.


“Nam Cao” cịn có ý nghĩa là nước Nam, cao cả, cao sang… nữa. Nam Cao vốn là nhà văn
có lịng u nước, u q hương, yêu nhân dân vô cùng sâu sắc.


Nam Cao đã có những trang viết xứng đáng với niềm tin yêu, quý mến của quê hương ông.
Bút danh Nam Cao sống mãi và tỏa sáng mãi với các tác phẩm nổi tiếng của nhà văn: Chí


<i>Phèo, Lão Hạc, Sống mịn, Đơi mắt…</i>


Nam Cao đã vinh dự được nhận giải thưởng cao quý: Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 năm
1996. Tên của ông được trân trọng đặt cho 1 đường phố ở Thủ đô Hà Nội.


Tỉnh Hà Nam lấy tên ông đặt cho một vườn hoa – công viên ở giữa lòng thị xã Phủ Lý yêu


thương. Huyện Lý Nhân chọn tên ông để đặt tên cho mái trường, nơi hun đúc những tài
năng tương lai của đất nước. UBND tỉnh Hà Nam đã chọn tên ông để đặt tên cho Giải báo


chí của tỉnh.


Ngồi bút danh Nam Cao, nhà văn cịn có một số bút danh khác: Thúy Rư, Nhiêu Khê, Xn
Du…


Theo nhà văn Tơ Hồi, Nam Cao ký bút danh Nhiêu Khê là có ý đùa. Cịn bút danh Xuân Du
mà nhà văn ký dưới các bài thơ của mình là do ơng lấy 2 chữ ở đầu câu thơ mà nhà văn và


Tơ Hồi hồi ấy thường ngâm ngợi:
<i>Xuân du phương thảo địa</i>


<i>Hạ thưởng lục hà trì</i>
<i>Thu ẩm hồng hoa tửu</i>
<i>Đơng ngâm bạch tuyết thi</i>


Tạm dịch:


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<i>Mùa thu uống rượu hồng hoa</i>
<i>Mùa đơng ngâm thơ tuyết trắng</i>


Cịn bút danh Thúy Rư thì do nhà văn lấy một số chữ trong tên thật của mình (Trần Hữu Tri)
để ghép lại mà thành. Ở đây chữ i đã được thay bằng chữ y.


Hồi hoạt động ở Việt Bắc, Nam Cao cịn có tên là Ma Văn Hữu. Nhà văn Tơ Hồi lấy tên là
Nơng Văn Tư. Khi đi công tác, Nam Cao thường mang giấy tờ mang tên Ma Văn Hữu, nghề


nghiệp: Dạy bổ túc văn hóa.



Nam Cao cùng Nguyễn Huy Tưởng, trong chuyến đi cuối cùng vào khu Bốn, ra khu Ba, Nam
Cao cũng mang theo giấy tờ ghi tên đó.


Hồi Cứu quốc ở Việt Bắc, báo tỉnh Hà Nam, báo Quân khu Ba… Nam Cao làm ca dao còn
lấy bút danh Suối Trong.


Trong tất cả các bút danh mà nhà văn đã dùng, Nam Cao là bút danh để lại trong lòng người
đọc và nhân dân nhiều kỷ niệm và nhiều ý nghĩa sâu sắc nhất.


Cho đến nay, những nhà sưu tầm, nghiên cứu, những người quan tâm vẫn phân thành 2
"trường phái" khác nhau: Hàn Mạc Tử và Hàn Mặc Tử. Vì thế các cuốn sách, bài báo in ra


cũng chia làm 2 nhóm: nhóm Mặc và nhóm Mạc.


Những "đại biểu tiên phong" cho "trường phái Mạc" có thể kể: Giáo sư Hồng Như Mai, Giáo
sư Văn Tâm, nhà sưu tầm Phạm Xuân Tuyển. Phạm Xuân Tuyển đã làm một bản thống kê


những tài liệu sử dụng chữ Mạc như sau: Báo Người Mới trong các số chuyên đề về Tử
năm 1941, Trần Thanh Mại trong cuốn sách viết về Tử năm 1942, Hoài Thanh - Hồi Chân
trong Thi nhân Việt Nam năm 1942, Phó tiến sĩ Phùng Quý Nhâm trên Kiến Thức Ngày Nay


số 47, giáo sư Hà Minh Đức trong Tổng tập Văn học Việt Nam số 27, giáo sư Lê Đình Kỵ
trong Thơ Mới - Những bước thăng trầm - 1993, giáo sư Vũ Ngọc Khánh trong tập Thơ tình
<i>yêu - 1995, giáo sư Hà Vinh - Khoa tiếng Việt - Đại học Tổng hợp Hà Nội trong Tạp chí Văn</i>
<i>Học - 1995, giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh - Phó tiến sĩ Trần Đăng Xuyền trong sách Những</i>


<i>bài văn hay và khó - 1995...</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Mặc trong hai cuốn sách quan trọng của mình, cuốn Hàn Mặc Tử anh tơi - 1991 và Hàn Mặc


<i>Tử trong riêng tư - 1994. Quách Tấn cũng dùng Mặc trong Bóng ngày qua - 2000. Những</i>
người khác có thể kể: Chế Lan Viên trong Tuyển tập Hàn Mặc Tử - 1987, Lữ Huy Nguyên
trong Hàn Mặc Tử thơ và đời - 1994, Trần Thị Huyền Trang trong Hàn Mặc Tử hương thơm


<i>và mật đắng, Vương Trí Nhàn trong Hàn Mặc Tử - Hơm qua và hơm nay...</i>


Nguyễn Bá Tín cho biết, bút danh Hàn Mặc Tử đã có trước, cịn bút danh Hàn Mạc Tử chỉ là
bạn bè đặt cho để trêu đùa: "Có nhiều hơm anh ngồi thừ trên chiếc ghế mây, nhìn qua bức


mành tre sáo trước cửa, đợi chị Cúc đi ngang qua, trơng anh đến thiểu não. Chị Cúc biết
điều đó, về sau kể với con gái chị Như Lễ rằng: Nghĩ tội nghiệp anh quá. Bạn bè đến chơi
trông thấy anh ngồi buồn bã như kẻ thất tình, nên thường trêu cợt anh là con người sau bức
rèm lạnh và gọi đùa anh là Hàn Mạc Tử. Chữ Hàn ở đây có nghĩa là lạnh và chữ Mạc khơng
dấu là bức màn. Hai chữ Hàn Mạc là bức rèm lạnh. Anh chỉ cười, khơng nói gì, cũng khơng
để ý đến nữa. Mãi về sau khi anh qua đời còn nhiều người vẫn tưởng lầm bút hiệu của anh


là Hàn Mạc Tử". Ơng Tín cho biết, Tử vốn rất ngưỡng mộ triết gia Mặc Dịch thời Chiến
Quốc, nổi tiếng chủ trương thuyết Kiêm ái, nên anh cũng tự nhận thuộc môn phái Mặc Dịch,


thương yêu hết mọi người. Chữ Mặc Tử có ý nghĩa là mơn đồ Mặc Dịch. Chữ Mạc Tử thì
khơng có ý nghĩa gì. Chữ Hàn Mặc Tử nói lên ý nghĩa một thi sĩ nghèo nàn, nhưng tình


thương rộng rãi bao la.


Quách Tấn thì kể tỉ mỉ hơn và có phần khác Nguyễn Bá Tín. Qch Tấn cho biết, khi mới
bước vào làng thơ, Tử lấy bút danh là Minh Duệ Thị. Sau đổi là Phong Trần. Tử nổi tiếng với


bút danh Phong Trần nhờ cuộc xướng họa thơ văn lịch sử với Phan Bội Châu. Khi Quách
Tấn quen thân Tử, Quách Tấn chê bút danh Phong Trần khơng hợp với Tử. Vì thế Tử đổi
qua bút danh Lệ Thanh. Bút danh này đã gắn chặt với tập thơ Lệ Thanh Thi Tập của Tử.


Nhưng được ít lâu Quách Tấn lại chê. Tử lại đổi qua Hàn Mạc Tử. Quách Tấn lại chê nữa.
Khi đó Tử nổi nóng. Qch Tấn liền gợi ý: "Đã có rèm thì thêm bóng trăng vào. Hỏi cịn cảnh


nào nên thơ bằng?". Nghe vậy, Tử thêm "bóng trăng" là dấu á trên đầu chữ a nên chữ Mạc
thành ra Mặc. Từ đó bút danh đổi nghĩa từ kiếp rèm lạnh ra anh chàng bút mực. Bút danh


này khiến Tử rất thích và dùng ln.


Lời giải thích trên đây nghe cũng thật có lý nhưng mấy chục năm nay vẫn không thuyết phục
được những người theo "trường phái Mạc", cho nên cuộc tranh cãi này chưa biết bao giờ


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<b>Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, ông sinh ngày 14/1/1920 tại Đơng Hà</b>
<b>(Quảng Trị). Ơng lấy bút danh họ Chế, với bút danh này ông đã nổi tiếng ngay từ tuổi</b>


<b>17 với tập thơ “Điêu tàn”.</b>


Nói như nhà phê bình văn học Hồi Thanh tập thơ “Điêu tàn” ra đời như một niềm kinh dị
trong thi đàn đương đại!


Trong bài giới thiệu tập tiểu luận “Những bước đường tư tưởng của tôi” của Xuân Diệu đăng
trên báo Văn học 9 - 1958 ông ký bút danh Thạch Hãn (tên một con sông tỉnh Quảng Trị quê
ông) nhiều bài báo in trên báo Thống Nhất xuất bản ở Hà Nội trước tháng 5/1975 ông cũng


ghi bút danh này.


Năm 1959 – 1963, Chế Lan Viên làm biên tập báo Văn học (nay là báo Văn nghệ), ơng phụ
trách chun mục “Nói chuyện văn thơ” gồm những bài trả lời bạn đọc về công việc bếp núc
văn chương, ông ký tên là Chàng Văn. Năm 1961, Nhà xuất bản Văn học xuất bản thành hai


tập “Vào nghề” và “Nói chuyện văn thơ” với tác giả Chàng Văn.



Báo Văn học số 29 ra thứ sáu, 13/2/1959 đăng ở trang 16 mục “Nụ cười xuân”, Chế Lan
Viên có in hai bài viết ngắn đả kích Mỹ Diệm là “Ngơ bói Kiều” và “Lý luận Đờ Gôn” ông ký


tên Oah (tức Hoan).


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×