Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu của một số dân tộc thiểu số ở Miền núi Đông Bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.88 KB, 13 trang )

KHẢ NĂNG THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI
KHÍ HẬU CỦA MỘT SỐ DÂN TỘC THIỂU SỐ
Ở MIỀN NÚI ĐÔNG BẮC
Nguyễn Song Tùng và Nguyễn Thị Huyền Thu
Viện Địa lý Nhân văn

Tóm tắt
Bài viết nêu lên khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu của dân tộc
thiểu số ở miền núi Đông Bắc qua nghiên cứu điểm các dân tộc Tày,
Dao, H’Mông ở Lạng Sơn và Hà Giang. Kết quả cho thấy, hoạt động
thích ứng của dân tộc thiểu số vùng núi Đông Bắc thể hiện qua: các
biện pháp kỹ thuật canh tác như ruộng bậc thang, canh tác nương
rẫy; qua sử dụng các giống cây trồng vật nuôi bản địa; qua kinh
nghiệm trồng xen canh gối vụ; đặc biệt là những kiến thức về thời vụ
gieo trồng và dự báo thời tiết, khí hậu bất lợi, đã giúp cho các cộng
đồng dân tộc thiểu số giảm thiểu thiệt hại do thiên tai.

MỞ ĐẦU
Vùng Đông Bắc bao gồm 11 tỉnh: Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc
Kạn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang, Phú Thọ, Bắc Giang,
Lào Cai, Yên Bái và Quảng Ninh, với diện tích 63.954,3 km2 (chiếm
khoảng 19,3% diện tích cả nước), số dân là hơn 8 triệu người, chiếm
67,96% dân số các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc và 8,7% dân
số cả nước. Đơng Bắc là vùng có tài nguyên thiên nhiên phong phú
và đa dạng, có diện tích rừng lớn với 3.686,4 nghìn ha, chiếm 26,7%
tổng diện tích rừng của cả nước (tính tốn từ Tổng cục Thống kê,
2015). Tài ngun khống sản ở Đơng Bắc khá phong phú, gồm có
than đá, than bùn, kim loại đen, kim loại màu, apatit, bơxit, đá vơi,
nước khống... Về tài nguyên nước, Đông Bắc là vùng thượng nguồn
của nhiều sông, suối lớn, có lưu vực rộng, lưu lượng nước tới hàng
chục tỷ mét khối và nhiều hồ, đập có trữ lượng nước lớn (Thác Bà,


Ba Bể, Núi Cốc...). Đây là tài nguyên quý giá đối với phát triển kinh
tế - xã hội của vùng, là một trong những yếu tố môi trường quan
trọng của vùng Đông Bắc. Tiềm năng thủy điện ở đây chiếm tới 56%
trữ lượng thủy điện của cả nước.
123


Vùng Đơng Bắc có cơ cấu dân tộc đa dạng, với khoảng 20 dân
tộc, trong đó, tập trung phần lớn người Tày, Nùng, H’Mơng, Dao...
Hiện vẫn cịn một tỷ lệ không nhỏ người dân không biết chữ, chủ yếu
là đồng bào các dân tộc ít người, mật độ dân cư thưa thớt và có sự
chênh lệch đáng kể về trình độ học vấn và chuyên môn, khoa học kỹ
thuật của nguồn nhân lực giữa các tỉnh trong vùng. Đây là một trong
những vùng có tỷ lệ nghèo cao trong cả nước và chủ yếu là trong các
cộng đồng người H’Mông, người Dao, người Nùng. Cơ sở hạ tầng
kinh tế, đặc biệt là giao thông, điện và nước đã được Nhà nước hết sức
quan tâm, song so với yêu cầu phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, cần
được nâng cao hơn nữa cả về lượng và chất.
Trong những năm gần đây, biến đổi khí hậu (BĐKH) làm cho
thiên tai và các hiện tượng khí hậu cực đoan đang ngày càng gia tăng
về số lượng, cường độ và mức độ ảnh hưởng. Trong đó, khu vực miền
núi phía Bắc là khu vực mà đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) - đối
tượng thuộc nhóm xã hội nhạy cảm, dễ bị tổn thương - chiếm tới hơn
62% dân số, thì những hệ lụy xã hội do BĐKH đưa đến lại càng lớn.
Ở khu vực miền núi phía Bắc, biến đổi khí hậu được thể hiện qua hiện
tượng nắng nóng kéo dài hơn, rét đậm kéo dài hơn, mưa lớn tập trung
hơn, lũ ống/lũ quét, sạt lở đất... Điều này kéo theo những tác động lớn
đến các hoạt động sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Bên
cạnh đó, khu vực miền núi Đông Bắc đã và đang phải đối mặt với
nhiều vấn đề nổi cộm khác, như sức ép không ngừng gia tăng về dân

số; sự suy giảm mơi trường tự nhiên; sự chậm phát triển; nghèo đói và
trì trệ về kinh tế - xã hội... Tất cả những yếu tố này là những rào cản
cho sự phát triển bền vững miền núi Đông Bắc.
Đối với DTTS ở miền núi Đơng Bắc, điều kiện tự nhiên chính là
nền tảng quan trọng nhất để hình thành khơng gian văn hóa - xã hội
tộc người. Mọi hoạt động kinh tế truyền thống của người dân đều
được hình thành và phát triển trên cơ sở các đặc điểm môi trường tự
nhiên nơi họ cư trú. Sự tác động qua lại giữa con người với mơi
trường tự nhiên, hay nói cách khác, sự tác động giữa hệ thống tự nhiên
và hệ thống xã hội, đã tạo nên những đặc trưng sinh thái nhân văn rất
riêng của cộng đồng DTTS vùng núi Đông Bắc. Trong đó, một số đặc
trưng thể hiện sự thích ứng cao của người dân với môi trường tự nhiên
trong các hoạt động sản xuất, cũng như trong ứng phó với điều kiện
thời tiết khắc nghiệt nơi vùng núi cao, có điều kiện khó khăn. Bài viết
tập trung nghiên cứu khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu của
nhóm dân tộc Tày, Dao và H’Mông qua nghiên cứu điểm tại hai tỉnh
Lạng Sơn và Hà Giang.
124


1. TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐẾN CÁC ĐẶC TRƯNG
SINH THÁI NHÂN VĂN CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI
ĐƠNG BẮC
Biến đổi khí hậu trong những năm qua đã tác động và gây thiệt
hại lớn đến hoạt động sản xuất và đời sống của cư dân miền núi phía
Bắc nói chung và của cộng đồng dân tộc thiểu số vùng Đơng Bắc nói
riêng. Trong vịng 10 năm nay, khí hậu đã có những diễn biến ngày
càng phức tạp và mức độ gây thiệt hại ngày càng lớn, thể hiện rõ nhất
trong hoạt động trồng trọt, chăn nuôi và những thiệt hại về người và
tài sản.

1.1. Tác động của biến đổi khí hậu đến hoạt động sản xuất
1.1.1. Tác động của biến đổi khí hậu đến trồng trọt
Biến đổi khí hậu, mà biểu hiện của nó là hiện tượng thay đổi
thất thường của thời tiết, đã làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất
của người dân trên địa bàn. Các tác động đó thơng qua một số khía
cạnh như:
Suy giảm diện tích và chất lượng đất canh tác: lũ quét, sạt lở đất,
hạn hán, rét đậm, rét hạn đã làm giảm và phá hủy nhiều diện tích đất
gieo trồng, từ đó làm giảm năng suất, sản lượng lương thực của người
dân. Theo báo cáo của Ban Chỉ huy PCLB&TKCN tỉnh Hà Giang
(2011), hạn hán kéo dài trên địa bàn tỉnh, khiến cho diện tích gieo trồng
chỉ đạt 93% so với kế hoạch, tồn tỉnh có 1.820 ha lúa bị hạn/tổng diện
tích là 36.524 ha, trong đó có khoảng 120 ha lúa phải gieo cấy lại, diện
tích mất trắng lên đến 20 ha.
Biến đổi khí hậu cịn làm biến đổi đặc tính của đất, làm suy thối
đất và ảnh hưởng đến sự thích hợp sinh trưởng của các loại cây trồng.
Nhiều loại cây khơng thể thích ứng kịp với sự thay đổi của thời tiết.
Nhiệt độ tăng làm thay đổi mùa vụ, cũng như sự phân bố cây
trồng, từ đó làm giảm năng suất và chất lượng cây trồng. Đồng thời,
nhiệt độ tăng còn làm gia tăng nguy cơ xuất hiện các loại dịch bệnh và
các loại sâu hại trên cây trồng. Qua khảo sát thực tế tại Lạng Sơn và
Hà Giang cho thấy, dịch bệnh cây trồng được xác định là một trong
những hậu quả do tác động của BĐKH gây nên. Tại Hà Giang, vụ
mùa năm 2009, dịch sâu cuốn lá nhỏ hại lúa xuất hiện trên địa bàn
tồn tỉnh, với diện tích trên 5.200 ha; vụ mùa năm 2011, diện tích trên
5.000 ha lúa của các huyện, thành phố trong toàn tỉnh đã bị nhiễm
dịch sâu cuốn lá nhỏ, gây ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất và sản
125



lượng lúa của tỉnh (UBND tỉnh Hà Giang, 2011). Tại Lạng Sơn năm
2010, xuất hiện dịch sâu róm thơng trên cây trồng lâm nghiệp; trên
cây trồng nông nghiệp, đã xuất hiện dịch bệnh lùn sọc đen vàng lùn,
lùn xoắn lá hại lúa trên địa bàn 35 xã, thị trấn thuộc 5 huyện (UBND
tỉnh Lạng Sơn, 2010).
1.1.2. Tác động của biến đổi khí hậu đến chăn ni
Trong lĩnh vực chăn ni, ảnh hưởng của giá rét kéo dài là nguyên
nhân gây ra rất nhiều thiệt hại cho ngành trong bối cảnh BĐKH hiện
nay. Nhiệt độ thấp (rét đậm và rét hại) làm giảm khả năng đề kháng
của cơ thể, tăng nguy cơ mắc bệnh, từ đó gây chết vật ni. Đợt lạnh ở
vùng núi phía Bắc vào năm 2008 đã làm chết hơn 54.000 con trâu bị,
trong đó riêng tỉnh Hà Giang có 18.000 con trâu bị chết (Ban Chỉ huy
PCLB&TKCN tỉnh Hà Giang, 2008).
Nền nhiệt độ và độ ẩm thất thường là nguyên nhân làm tăng nguy
cơ về dịch bệnh. Ví dụ, dịch lở mồm long móng, diễn ra vào cuối năm
2015 ở tỉnh Lạng Sơn, gây thiệt lại lớn đến chăn ni trâu bị và lợn
của tỉnh. Kết quả điều tra nhóm DTTS tại tỉnh Hà Giang cho thấy,
dịch bệnh ở trâu bò và lợn xảy ra ngày càng nhiều hơn, thậm chí dịch
bệnh xảy ra trên cả gia súc đã được tiêm phòng. Theo số liệu của Bộ
NN&PTNT (2016) cho thấy, dịch lở mồm long móng đã xuất hiện
nhiều hơn trong giai đoạn 2006-2015 ở các tỉnh Đông Bắc, trong đó
các tỉnh thường xuyên mắc bệnh này có Hà Giang, Cao Bằng và Lạng
Sơn. Dịch lở mồm long móng xảy ra mới đây nhất vào đầu năm 2016
tại tỉnh Bắc Kạn. Virus gây bệnh lở mồm long móng ở Bắc Kạn là một
chủng mới thuộc type A, lần thứ nhất xảy ra năm 2015 tại huyện Ba
Bể và Pác Nặm, khiến cho 238 con trâu, bò bị mắc bệnh; lần thứ 2 xảy
ra làm 44 con trâu, bò mắc bệnh tại huyện Ngân Sơn (Báo Bắc Kạn
Online, 2015).
Biến đổi khí hậu cịn ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn cung cấp
thức ăn cho chăn nuôi. Nhiệt độ xuống thấp hoặc tăng cao đều làm

giảm diện tích đồng cỏ cho chăn nuôi gia súc và giảm năng suất cây
trồng cung cấp lương thực cho gia súc. Như tại tỉnh Hà Giang, theo
thống kê của Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Hà Giang,
trong tháng 1 năm 2016, do rét đậm, rét hại, có tới 60/120 xã có băng
tuyết đã gây ảnh hưởng đến cỏ trồng và cỏ tự nhiên (Sở NN&PTNT
tỉnh Hà Giang, 2016).

126


1.1.3. Tác động của biến đổi khí hậu đến các hoạt động khai thác
nguồn lợi tự nhiên
Cộng đồng DTTS Đông Bắc, với đặc điểm canh tác và sinh sống
dựa vào rừng núi, khai thác các nguồn lợi tự nhiên từ rừng, sự tác
động gián tiếp của biến đổi khí hậu đến tài nguyên rừng, như cháy
rừng, lũ lụt, lũ quét, xói lở, làm giảm lượng tài nguyên cung cấp từ
rừng, giảm các loại lương thực, thực phẩm, dược liệu, gây ảnh hưởng
trực tiếp đến thu nhập cũng như đời sống của người dân nơi đây.
1.2. Tác động của biến đổi khí hậu đến đời sống người dân các
dân tộc thiểu số
Bên cạnh tác động đến sản xuất nông nghiệp, biến đổi khí hậu tác
động tiêu cực đến tính mạng và sức khỏe, nhà cửa, tài sản, thu nhập
của người DTTS miền núi Đông Bắc.
Ở vùng núi Đông Bắc, thiên tai như bão, tố, nước dâng, ngập lụt,
hạn hán, mưa lớn và sạt lở đất... ngày càng gia tăng về cường độ và
tần suất, từ đó làm tăng số người bị thiệt mạng và ảnh hưởng gián tiếp
đến sức khỏe thông qua ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sự phát
triển kinh tế - xã hội, việc làm và thu nhập của người dân.
Theo Báo cáo quốc gia về giảm nhẹ thiên tai ở Việt Nam năm
2005, trong vòng 10 năm từ 1994 - 2003, ở miền núi phía Bắc, có 453

người chết hoặc mất tích, 277 người bị thương. Ước tính tổng thiệt hại
cơ sở hạ tầng lên đến 1.700 tỷ đồng (ADC, 2014). Trong những năm
gần đây, thiên tai và biến đổi khí hậu tiếp tục gây nhiều thiệt hại cho
các tỉnh trong vùng. Tại Lạng Sơn, năm 2015, có 16 người chết, 6
người bị thương, ước tỉnh tổng giá trị thiệt hại khoảng 628 tỷ đồng
(UBND tỉnh Lạng Sơn, 2015). Tại Hà Giang, năm 2015, ảnh hưởng
của mưa lũ đã gây thiệt hại ước tính đến gần 120 tỷ đồng, trong đó
chủ yếu là thiệt hại về người, nhà cửa, gia súc và hoa màu (UBND
tỉnh Hà Giang, 2015).
Đơng Bắc là khu vực có số ngày nóng gia tăng nhiều nhất trên cả
nước. Sự gia tăng về số ngày nắng nóng và nhiệt độ tác động tiêu cực
đến sức khỏe của người dân, làm tăng khả năng xảy ra một số bệnh
nhiệt đới như sốt rét, sốt xuất huyết, làm tăng tốc độ sinh trưởng và
phát triển của nhiều loại vi khuẩn và côn trùng.
127


2. KHẢ NĂNG THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU CỦA CÁC DÂN
TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI ĐÔNG BẮC
2.1. Trong trồng trọt
2.1.1. Thích ứng trong kỹ thuật canh tác
Canh tác nương rẫy là một trong những loại hình thích ứng với
môi trường trong sản xuất nông nghiệp, cũng như ứng phó với điều
kiện thời tiết khắc nghiệt nơi vùng núi cao. Lê Trọng Cúc (2003) cho
rằng, canh tác nương rẫy vẫn là phương thức có hiệu quả nhất đối với
các nước vùng nhiệt đới ẩm. Thực tế canh tác nương rẫy đang được
duy trì như một hệ nơng nghiệp chủ yếu ở vùng nhiệt đới và đóng vai
trị quan trọng, chứa đựng sự đa dạng về truyền thống, văn hóa và con
người. Điều đặc biệt hơn, các tác giả trên đây cịn khẳng định, các hệ
thống nơng nghiệp này là sự thích ứng rất tốt đối với những diễn biến

thời tiết vốn khơng thuận hịa của các khu vực rừng nhiệt đới.
Các cộng đồng dân tộc thiểu số sống ở vùng núi đá cao, trong đó
chủ yếu là người H’Mơng ở Hà Giang, thường có tập quán canh tác
thổ canh hốc đá. Đây là hình thức canh tác trên vùng đất xen lẫn đá,
người dân thường dùng đá xếp quanh đất để che chắn, chống xói mịn,
rửa trơi đất; nhiều hốc đá tự nhiên được người dân gùi đất đổ vào và
trở thành hốc canh tác. Nhờ sáng tạo ra hình thức thổ canh hốc đá và
kỹ thuật trồng ngơ trên nương đá, kỹ thuật xen canh các loại cây hoa
màu, mà bà con thích nghi được với điều kiện tự nhiên nơi đây để ổn
định cuộc sống. Đến nay, thổ canh hốc đá vẫn là phương thức chủ đạo
trong hoạt động sản xuất của đồng bào vùng cao nguyên đá Hà Giang.
Ruộng bậc thang cũng là hình thức canh tác điển hình của cộng
đồng DTTS vùng núi Đơng Bắc. Kinh nghiệm canh tác ruộng bậc
thang là sản phẩm tri thức địa phương trong hoạt động sản xuất nông
nghiệp từ xa xưa của các tộc người H’Mông, người Dao... ở các tỉnh
miền núi Đông Bắc (Lạng Sơn, Bắc Kạn, Hà Giang...), đúc kết từ đời
này sang đời khác. Đồng bào đã sớm biết cách xây dựng hệ thống
ruộng bậc thang, nhằm vừa giữ được nước, độ ẩm, độ phì nhiêu của
đất trong điều kiện địa hình dốc, vừa góp phần ổn định sự cân bằng
sinh thái. Đây là biện pháp bảo vệ đất, chống xói mịn và đang được
áp dụng rộng rãi ở nhiều nơi trên vùng cao nước ta.
2.1.2. Thích ứng trong trồng luân canh - xen canh gối vụ
Gieo trồng luân canh - xen canh gối vụ đã trở thành nếp canh tác
quen thuộc của các cư dân sống trên vùng núi cao Đông Bắc. Cách
trồng như vậy có nhiều tác dụng, vừa tận dụng hết khả năng của đất,
128


luôn tạo ra một lớp phủ thực vật trên bề mặt đất, chống xói mịn và thu
hoạch nhiều loại cây trồng trong cùng một thời gian để nâng cao tổng

sản phẩm trên một đơn vị diện tích đất canh tác.
Qua nghiên cứu thực tế tại Hà Giang và Lạng Sơn, nhóm dân tộc
Tày, Dao, H’Mơng ở đây đều có kinh nghiệm trồng xen canh, gối vụ cây
lương thực với các cây họ đậu trên các loại đất. Ở Quản Bạ, Hà Giang,
đồng bào có kinh nghiệm trồng gừng, củ đậu xen chuối tiêu. Kỹ thuật
này rất hiệu quả trong việc thích ứng với thiên tai, biến đổi khí hậu.
Bảng 1. Kinh nghiệm xen canh của một số dân tộc thích ứng với
thiên tai, biến đổi khí hậu
TT

Kỹ
thuật

Dân tộc

Kinh nghiệm
áp dụng

Thích ứng với thiên tai, BĐKH

1

Trồng
Tày,
ngô xen Dao,
cây họ H’ Mông
đậu

- Sử dụng giống đậu
tương địa phương, có khả

năng chống chịu sâu
bệnh và điều kiện ngoại
cảnh tương đối tốt.
- Người Tày thường dùng
tro bếp bảo quản hạt đậu
giống.
Người Dao: Bảo quản hạt
giống bằng lá xoan: Hạt
sau khi phơi khô được
cho vào chum/vại, sau đó
bỏ một nắm lá xoan lên
trên và buộc kín lại, đảm
bảo chống mốc và tỷ lệ
nảy mầm cao trong năm
sau.

- Đa dạng sản phẩm và giảm
thiểu rủi ro do tác động của
BĐKH. Giúp người dân tăng thu
nhập.
- Sử dụng giống đậu tương bản
địa thích ứng với điều kiện hạn,
điều kiện địa phương.
- Thân lá cây đậu tương có thể
làm phân bón giàu đạm cho cây
trồng vụ mùa, cải tạo đất.
- Tạo lớp phủ bề mặt chống xói
mịn, rửa trôi đất.
- Không phải sử dụng thuốc bảo
vệ thực vật hoặc với hàm lượng

thấp. Do đó, khơng có lượng
thuốc bảo vệ thực vật tồn dư
trong đất, trong sản phẩm và
không ảnh hưởng tới môi trường.

2

Trồng
Dao (Hà
gừng, củ Giang)
đậu, xen
chuối
tiêu

- Sử dụng giống cây
trồng địa phương: chuối
tiêu hồng, gừng và củ
đậu địa phương.
- Kỹ thuật cắt ngọn cây
chuối 1/3 giúp giảm tỷ lệ
chết khi trồng để thích
ứng hạn trên đất dốc.
- Trồng vào đầu mùa mưa
để tận dụng nước.

- Nâng cao hiệu quả sử dụng đất
do trồng các loại cây trên một
đơn vị diện tích trong cùng một
thời điểm.
- Tăng cường khả năng giữ ẩm

cho đất giúp cây trồng thích ứng
tốt hơn đối với hạn hán.
- Tác dụng giảm xói mịn rửa trôi
do kết hợp nhiều tầng cây của các
loại cây có tác dụng tăng độ che
phủ mặt đất.

Nguồn: Tổng hợp của tác giả, 2016.

129


2.1.3. Sử dụng giống, loại cây trồng thích ứng với biến đổi khí hậu
Bảng 2. Giống cây trồng và đặc điểm thích ứng
với biến đổi khí hậu
Các loại cây trồng

Nguồn gốc

Đặc điểm thích ứng BĐKH

Dân tộc Tày (Lạng Sơn)
Lúa Bao thai, Kim
Cương

Bản địa

Chịu được rét, sương muối

Ngô trắng


Bản địa

Chịu hạn, chịu rét

Đậu tương bản địa
(Thúa nằng)

Bản địa (thuần
hóa từ giống
DT84)

Chịu hạn tốt

Lúa nếp nương (Pbyau
Pbut pẹ)

Bản địa

Ít sâu bệnh, khơng sử dụng phân
hóa học thuốc trừ sâu; chịu hạn
khá tốt (20 ngày không mưa mới
bắt đầu héo lá)

Đậu mèo

Bản địa

Chịu được với điều kiện khô hạn


Chuối tiêu

Bản địa

Chịu hạn tốt, rễ có khả năng giữ
nước tốt

Dân tộc Dao (Hà Giang)

Dân tộc H’Mông (Hà Giang)
Ngô địa phương

Bản địa

Khả năng chịu hạn và chống sâu
bệnh đều tốt, chống được mốc khi
trời mưa

Lúa khẩu mang (người
dân tự nhân giống)

Bản địa

Chịu rét, chịu hạn tốt

Bản địa

Chịu được với điều kiện khô hạn

Lúa nếp địa phương

Đậu răng ngựa, đậu Hà
Lan, đậu côve

Nguồn: Tổng hợp của tác giả, 2016.

Trải qua nhiều năm, người dân tộc thiểu số miền núi Đơng Bắc
đều tự chọn cho mình được những bộ giống cây trồng có khả năng
chống chịu cao và năng suất ổn định. Nghiên cứu của nhà khoa học

130


cho thấy, các loại giống của bà con các tộc người thiểu số ở vùng
miền núi phía Bắc chứa đựng những giá trị to lớn, không chỉ đối với
sinh học (trong việc bảo tồn nguồn gen), mà cả trong điều kiện sản
xuất hiện nay (Vũ Văn Cần và cs., 2011). Tất cả các loại cây trồng
bản địa của họ đều có khả năng thích ứng với điều kiện tự nhiên nơi
cư trú.
2.1.4. Thích ứng trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng và mùa vụ
Trong vài năm gần đây, do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, hạn
hán kéo dài, thời tiết hay có mưa đá và sương muối, gây ảnh hưởng
khơng nhỏ đến thời vụ và thu hoạch. Chính vì thế, đồng bào DTTS đã
có sự điều chỉnh cơ cấu cây trồng, lịch mùa vụ, nhằm tránh được
những thay đổi bất thường về thời tiết, gây ảnh hưởng xấu đến mùa
màng. Như người H’Mông ở Hà Giang, do hạn hán kéo dài ảnh hưởng
đến diện tích gieo cấy lúa, người dân đã chủ động chuyển đổi những
chân ruộng thiếu nước sang trồng cây màu (ngô, lạc, đậu đỗ). Năm
2015, tại xã Thài Phìn Tủng, nơi có 100% dân số là dân tộc H’Mơng,
do mưa ít nên người dân đã chuyển 3 ha lúa sang trồng ngô. Kết quả
là đã đảm bảo được nguồn lương thực cho bà con nơi đây (phỏng vấn

tại xã Thài Phìn Tủng, 2015).
Đối với chuyển đổi mùa vụ, một số DTTS trên địa bàn nghiên
cứu đã chuyển đổi mùa vụ để thích ứng với những thay đổi về thời
tiết. Như dân tộc Tày ở Lạng Sơn, đầu năm 2016, do chịu ảnh hưởng
của giá rét, người dân cấy lúa xuân muộn hơn 1 tháng so với lịch
nơng vụ thơng thường để tránh rét. Cịn dân tộc H’Mông ở Đồng
Văn, Hà Giang cũng chủ động cấy vụ hè muộn hơn 1,5 tháng so với
lịch nông vụ để đón mưa; lùi thời vụ trồng đậu răng ngựa trong vụ
xuân vào cuối tháng 3, khi đất đã đủ ẩm và thời tiết bắt đầu ấm lên,
để tránh phải gieo đi gieo lại nhiều lần, giúp cây sinh trưởng và phát
triển nhanh.
Cộng đồng DTTS miền núi Đơng Bắc cịn có kinh nghiệm trong
việc dự báo thời tiết. Những kinh nghiệm này đã giúp cộng đồng ở
đây phòng chống được một số thiệt hại trong cuộc sống hàng ngày,
phần nào biết được trước một số hiện tượng thời tiết cực đoan hay
thiên tai để phòng tránh.

131


Bảng 3. Hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu dựa trên
kinh nghiệm dự báo thời tiết
Nội
dung
Dự báo
lũ, ngập
lụt

Dân tộc
Tày

Dao
H’ Mơng

Bố trí
mùa vụ

Tày

Dao

Kinh nghiệm

Đặc điểm
thích ứng BĐKH

Măng tre ra rễ nhiều, có màu Tránh được tác động của
trắng thì dễ bị lũ lụt
hiện tượng thời tiết cực
đoan, giảm tính dễ bị tổn
Cua ở suối bò lên nhiều là
thương của cộng đồng
sắp có lũ lớn
Ví dụ: Khơng cấy ở những
ruộng gần suối, có nguy cơ
Chim chào mào giữa trưa
bị lũ làm mất mùa
đậu cao hơn thường ngày thì
trời sắp ngập úng

Mắc mật quả đốm vàng cấy

vụ mùa

Tránh được rét và hạn hán
đầu vụ

Hoa gạo rụng hết thì gieo
mạ Đồn kết

Ví dụ: gieo lúa sớm để khi
hạn là thu hoạch rồi

Hoa xoan nở thì gieo đậu
xanh
Năm nào trám sai quả thì
hạn tháng 8

H’ Mông

Hoa đào, lê, mận nở từ ngọn Tránh được sâu bệnh và hạn
trở xuống chỗ phân nhánh
hán
thì gieo trồng sớm hơn từ
25/2 âm lịch
Hoa đào, lê, mận nở chỗ
Tránh được sương lạnh của
phân nhánh trở lên ngọn thì thời tiết lập thu
trong tháng 3 phải gieo hạt
xong

Nguồn: Tổng hợp của tác giả, 2016.


2.2. Trong chăn nuôi
Trong những năm gần đây, do chịu ảnh hưởng của BĐKH, tình
trạng rét đậm rét hại kéo dài và xảy ra thường xuyên hơn, số lượng
trâu, bò, gia cầm bị thiệt hại nặng nề. Sự kiện rét đậm, rét hạn kéo dài
132


năm 2008, làm hơn 54.000 trâu bò bị chết rét ở khu vực miền núi phía
Bắc là một bài học đau xót cho tất cả mọi hộ dân (Ban Chỉ huy
PCLB&TKCN tỉnh Hà Giang, 2008). Sau đợt thiệt hại đó, hầu hết các
hộ dân đều cảnh giác và chủ động hơn trong việc thích ứng với điều
kiện thời tiết. Ví dụ, đợt rét năm 2010 có cường độ mạnh khơng kém
năm 2008, nhưng hầu như thiệt hại về gia súc rất thấp, khoảng 17.000
con trâu bò (Đài Phát thanh - Truyền hình Vĩnh Phúc Online, 2011).
Bảng 4. Một số hoạt động thích ứng với rét đậm, rét hại của
dân tộc thiểu số miền núi Đơng Bắc
Vật ni

Hoạt động thích ứng với BĐKH



- Để tránh rét cho đàn gà, vịt vào mùa lạnh, bà con phủ một lớp trấu
lên nền chuồng
- Tích trữ củi hoặc dùng lõi ngơ làm chất đốt để sưởi ấm cho gia súc

Trâu, bò,
lợn, ngựa


- Che chắn chuồng trại
- Tận dụng các hang động tự nhiên để làm chỗ tránh rét cho trâu bò
- Dự trữ cỏ bằng cách muối cỏ để dành cho mùa đông; mùa hè cắt
cỏ vùi xuống đất, rắc muối, đến mùa mưa rét đào lên lấy cỏ làm thức
ăn cho trâu bò (H’Mông)
- Tận dụng thân cây chuối trộn với cám gạo, cám ngơ và muối cho
trâu, bị ăn trong mùa rét, không thả rông gia súc (Tày)
- Vào mùa lạnh trâu, bò thường bị cước chân, khi bệnh mới ở giai
đoạn đầu, dùng gừng giã nhỏ hòa với rượu và xoa bóp hàng ngày sẽ
hết bệnh

Nguồn: Tổng hợp của tác giả, 2016.

Trong vụ rét 2010, nhiều gia đình người H’Mơng ở Đồng Văn
(tỉnh Hà Giang) đã chủ động che chắn chuồng trại, dự trữ vỏ ngô, cây
ngô khô để làm thức ăn và tận dụng các hang động tự nhiên để làm
chỗ tránh rét cho trâu bò. Hay ở Bắc Kạn, người Tày cịn tích trữ củi
hoặc dùng lõi ngơ làm chất đốt để sưởi ấm cho gia súc.
Đặc biệt, DTTS miền núi Đơng Bắc cịn sử dụng các giống vật
ni thuần, có khả năng chống chịu cao và năng suất ổn định. Nghiên
cứu của nhóm cán bộ khoa học đến từ Viện Khoa học Nông nghiệp
Việt Nam đã chứng minh được tính vượt trội của các giống vật ni
bản địa, như bị của người H’Mơng khỏe và chịu lạnh tốt hơn so với
các giống ngoại nhập, hay giống gà Mông chân đen, xương đen, cho
thịt ngon và có giá trị kinh tế cao, phù hợp với điều kiện khí hậu địa
phương. Người Dao ở Hà Giang cũng có giống lợn hung phù hợp với
kinh tế của gia đình, thích hợp với điều kiện khí hậu địa phương.
133



Người Tày ở Bắc Kạn đang sử dụng 3 giống vật ni bản địa phổ biến
(lợn, gà, bị), người Dao ở Bắc Kạn cũng đang sử dụng 4 giống vật
nuôi bản địa trong phát triển sinh kế. Các giống bản địa này góp phần
quan trọng, giúp cho người dân giảm nhẹ được những tác động của
hiện tượng thời tiết cực đoan và biến đổi khí hậu gây ra.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Trong những năm gần đây, BĐKH đã gây những tác động lớn đến
hoạt động sản xuất nông nghiệp, đến đời sống của người dân các dân
tộc thiểu số vùng Đông Bắc, gây tác động đến phát triển kinh tế - xã
hội chung của vùng. DTTS ở miền núi Đông Bắc đã hình thành nên
các đặc trưng sinh thái nhân văn, hay các kinh nghiệm để ứng xử,
thích ứng linh hoạt với điều kiện tự nhiên nơi mình sinh sống qua
hàng thế kỷ. Các đặc trưng sinh thái nhân văn hay các kinh nghiệm
này đóng vai trị quan trọng trong thích ứng với BĐKH. Điều này
được thể hiện rõ nét qua kỹ thuật canh tác trong điều kiện khí hậu cực
đoan, như canh tác nương rẫy, làm ruộng bậc thang. Các hoạt động
thích ứng với BĐKH dựa trên kinh nghiệm của người dân còn được áp
dụng phổ biến là sử dụng các giống cây trồng vật nuôi bản địa, giúp
giảm sâu bệnh, phù hợp với khí hậu. Đặc biệt, những kinh nghiệm về
thay đổi thời vụ gieo trồng và dự báo thời tiết khí hậu bất lợi đã giúp
cho các cộng đồng dân tộc thiểu số giảm thiểu thiệt hại do thiên tai.
Đây là những yếu tố quan trọng, giúp cho sản xuất của người dân
được ổn định. Việc vận dụng các kinh nghiệm của DTTS ở miền núi
Đông Bắc là một trong các giải pháp có hiệu quả trong thích ứng với
BĐKH. Do đó, các cấp chính quyền địa phương cần có các chính sách
hỗ trợ để phát huy những kinh nghiệm của DTTS trong việc ứng phó
với BĐKH ở miền núi Đông Bắc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.

3.
4.

134

Ban Chỉ huy Phịng chống Lụt bão và Tìm kiếm Cứu nạn
(PCLB&TKCN) tỉnh Hà Giang, 2008. Báo cáo cơng tác phịng chống
thiên tai và tìm kiếm cứu nạn.
Ban Chỉ huy PCLB&TKCN tỉnh Hà Giang, 2011. Báo cáo cơng tác
phịng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn.
Báo Bắc Kạn Online, 2015. Tập trung dập dịch lở mồm long móng trên
đàn gia súc. (28/01/2015).
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT), 2016. Chương
trình Quốc gia phịng chống bệnh lở mồm long móng giai đoạn 20162020. Bộ NN&PTNT, Hà Nội.


5.
6.
7.

8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.

Vũ Văn Cần và cs., 2011. Chia sẻ kết quả nghiên cứu kiến thức và
giống cây trồng bản địa. CARE. />webfm_send/2529.

Lê Trọng Cúc, 2003. Đa dạng sinh học và đời sống con người. Hội thảo
Đa dạng sinh học và xóa đói giảm nghèo vùng núi Việt Nam.
Đài Phát thanh - Truyền hình Vĩnh Phúc Online, 2011. Miền núi phía
Bắc tiếp tục gánh chịu hậu quả rét hại kéo dài. />Sở NN&PTNT tỉnh Hà Giang, 2016. Báo cáo làm việc với đồn Viện
Địa lý nhân văn về tình hình sản xuất nơng nghiệp và những thiệt hại
do biến đổi khí hậu trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
Tổng cục Thống kê, 2015. Niên giám thống kê năm 2015. Tổng cục
Thống kê, Hà Nội.
Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Nông Lâm nghiệp Miền núi (ADC),
2014. Tài liệu hướng dẫn xác định và sử dụng kiến thức bản địa trong
thích ứng với biến đổi khí hậu dựa vào cộng đồng. Thái Nguyên.
Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Hà Giang, 2011. Kế hoạch hành động
ứng phó với biến đổi khí hậu tỉnh Hà Giang.
UBND tỉnh Hà Giang, 2015. Báo cáo tổng kết sản xuất nông lâm
nghiệp năm 2015, phương hướng giải pháp thực hiện năm 2016.
UBND tỉnh Lạng Sơn, 2010. Kế hoạch hành động ứng phó với biến
đổi khí hậu tỉnh Lạng Sơn.
UBND tỉnh Lạng Sơn, 2015. Báo cáo tổng kết sản xuất nông nghiệp
tỉnh Lạng Sơn năm 2015.

Abstract
ADAPTED ABILITY OF SOME ETHNIC MINORITIES
GROUPS TO CLIMATE CHANGE IN THE NORTHEAST
MOUNTAIN, VIETNAM
An article raised a number of adaptation possibilities of the ethnic minorities
(EM) to climate change in the Northeast Mountains through case studies of
Tay, Dao, H’Mong in Lang Son and Ha Giang. Results showed that
adaptable activity of northeast mountain EMs reflected: technical measures
such as terracing farming, shifting cultivation; through using of native
variety plants-animals; relay and intercroping experience; especially the

knowledge of season calenda and unfavorable weather forecast helped the
minority community to minimize the damage caused by natural disasters.

135



×