Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Bảo vệ độc lập dân tộc của việt nam trước mối đe dọa an ninh phi truyền thống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.09 KB, 29 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................................1
NỘI DUNG.................................................................................................................2
1. Một số vấn đề lý luận về mối đe dọa an ninh phi truyền thống và tác động của
nó đến độc lập dân tộc.................................................................................................2
1.1. Khái niệm an ninh phi truyền thống và mối đe dọa của an ninh phi truyền
thống............................................................................................................................2
1.2. Tính chất của mối đe doạ an ninh phi truyền thống.............................................3
1.3. Tác động của các mối đe dọa an ninh phi truyền thống đến độc lập dân tộc.......7
1.3.1. Tác động đến độc lập, chủ quyền và an ninh quốc gia............................7
1.3.2. Tác động đến thể chế chính trị đất nước và con đường phát triển của
dân tộc.........................................................................................................................8
1.3.3. Tác động đến nền kinh tế độc lập tự chủ của quốc gia...........................9
1.3.4. Tác động đến tài nguyên thiên nhiên và môi trường, sinh thái.............10
1.3.5. Tác động đến việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc..........11
2. Thực trạng mối đe dọa an ninh phi truyền thống ở Việt Nam từ năm 2001 đến
2019...........................................................................................................................12
2.1. Mối đe dọa an ninh phi truyền thống ở Việt Nam trước năm 2001....................12
2.2. Thực trạng mối đe dọa an ninh phi truyền thống ở Việt Nam từ năm 2001
đến 2019....................................................................................................................13
2.2.1. Từ biến đổi khí hậu...............................................................................13
2.2.2. Từ vấn đề kinh tế, tài chính...................................................................14
2.2.3. Từ vấn đề năng lượng............................................................................15
2.2.4. Từ vấn đề lương thực............................................................................16
2.2.5. Từ tội phạm công nghệ cao...................................................................17
2.2.6. Từ tội phạm xuyên quốc gia..................................................................18
3. Những thành tựu về bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam trước mối đe dọa an
ninh phi truyền thống từ năm 2001 đến nay..............................................................20


3.1. Nhận thức và ý thức trách nhiệm đối với nhiệm vụ bảo vệ độc lập dân tộc,


bảo vệ Tổ quốc trước các mối đe dọa an ninh phi truyền thống ngày càng được
nâng cao, đầy đủ và rõ ràng.......................................................................................20
3.2. Độc lập dân tộc, chủ quyền và an ninh quốc gia, lợi ích dân tộc trước mối đe
doạ an ninh phi truyền thống được giữ vững và bảo đảm.........................................21
3.3. Sức mạnh tổng hợp và khả năng bảo vệ độc lập dân tộc trước mối đe dọa an
ninh phi truyền thống được tăng cường.....................................................................23
KẾT LUẬN...............................................................................................................25
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................26


LỜI MỞ ĐẦU
Sau chiến tranh lạnh, cục diện thế giới có nhiều thay đổi, xu thế hịa
bình hợp tác phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, trong xu thế toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế, nền độc lập dân tộc của các quốc gia đang phải đối mặt với
những thách thức mới từ mối đe dọa “an ninh phi truyền thống”. Mối đe dọa
an ninh phi truyền thống (ANPTT) đã trở thành vấn đề tồn cầu, mang tính
nguy hiểm cao, có sức ảnh hưởng lớn. Tính chất nguy hiểm của mối đe dọa
ANPTT không chỉ biểu hiện ở mức độ hủy hoại, sự tàn phá của nó đối với
cuộc sống của con người, mà còn đối với sự ổn định xã hội, đối với độc lập
dân tộc (ĐLDT) của các quốc gia, sự an nguy của chế độ chính trị, sự tồn
vong của cộng đồng nhân loại trên tất cả các lĩnh vực của đời sống.. Khủng
bố, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm công nghệ cao, những vấn đề tài
chính, năng lượng, lương thực… ngày càng thử thách nghiệt ngã năng lực
điều hành của các chính phủ, ĐLDT của các nước, sự vững chắc của các thể
chế chính trị và các nền kinh tế, kể cả nền kinh tế giàu mạnh nhất, cũng như
tính khả thi của các liên kết quốc tế.
Từ năm 2001 đến năm 2019, Việt Nam đã thực hiện nhiều nội dung,
biện pháp ứng phó với mối đe doạ ANPTT để bảo vệ ĐLDT, đạt được thành
cơng nhất định và thu được những kinh nghiệm có giá trị. Việc nhìn nhận,
đánh giá các mối đe doạ ANPTT; làm rõ những nội dung, biện pháp mà Đảng

và Nhà nước Việt Nam thực hiện bảo vệ ĐLDT trước mối đe doạ ANPTT là
đòi hỏi cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. Làm rõ các vấn đề đó sẽ có cơ sở
để rút ra những kinh nghiệm bổ ích cho thời gian tới nhằm thực hiện tốt và
hiệu quả hơn việc bảo vệ ĐLDT trước mối đe dọa ANPTT đối với Việt Nam,
cũng như các nước đang phát triển. Vì những lý do trên, tơi đã chọn đề tài
“Bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam trước mối đe dọa an ninh phi truyền
thống từ năm 2001 đến năm 2019” làm bài thu hoạch cho môn học Giáo dục
Quốc phòng – An ninh. Do kiến thức và tầm hiểu biết còn hạn chế nên bài
viết của tơi khơng tránh khỏi sai sót rất mong được thầy, cơ giáo xem xét và
góp ý kiến cho bài tiểu luận được hoàn thiện.
1


Hà Nội, ngày 29 tháng 9 năm 2019.

2


NỘI DUNG
1. Một số vấn đề lý luận về mối đe dọa an ninh phi truyền thống và tác
động của nó đến độc lập dân tộc
1.1. Khái niệm an ninh phi truyền thống và mối đe dọa của an ninh phi
truyền thống
An ninh phi truyền thống là khái niệm nhằm phân biệt với an ninh truyền
thống, dùng để chỉ các mối đe dọa phi truyền thống đối với an ninh quốc gia, cuộc
sống con người và cộng đồng nhân loại, không xuất phát trực tiếp từ yếu tố quân
sự, nảy sinh từ các yếu tố tự nhiên và xã hội, diễn ra và tác động trên nhiều lĩnh
vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, thơng tin, mơi trường..., mang
tính tổng hợp, xun quốc gia và có tính nguy hiểm cao đe dọa tới độc lập dân tộc,
chủ quyền quốc gia.

Khái niệm ANPTT nêu trên phản ánh những vấn đề cơ bản, từ nội dung,
nguồn gốc nảy sinh, tính chất và mối quan hệ giữa ANPTT với ANTT. ANPTT
vừa là một bộ phận của ANQG vừa là sự mở rộng của khái niệm ANQG. ANPTT
theo các cách tiếp cận trên là xem xét nó với tư cách là “các mối đe dọa”, “các
nguy cơ đe dọa” đến con người, cộng đồng, đến quốc gia dân tộc và tồn nhân
loại. Nó bao gồm các vấn đề phát sinh từ tự nhiên, bởi tự nhiên; và những vấn đề
do con người gây nên, cũng như sự “cộng hưởng” của cả tự nhiên và xã hội, có nội
hàm rất phong phú, đa dạng. Từ những khái niệm nêu trên chúng ta có thể hiểu:
Mối đe dọa ANPTT : là những thách thức trên mọi lĩnh vực đối với không
chỉ độc lập dân tộc,chủ quyền quốc gia, mà còn đối với vận mệnh sống cịn của
lồi người và mơi trường sống trên trái đất.
Cũng như khái niệm ANPTT, các mối đe dọa ANPTT đối với ĐLDT có nội
hàm rộng, đa dạng, phức tạp nhưng lại tùy thuộc vào quan niệm, nhận thức của
mỗi quốc gia và bị chi phối, quyết định bởi lợi ích quốc gia, dân tộc cùng các lợi
ích chính trị, kinh tế, đối ngoại, quốc phịng, an ninh của từng nước, nên cách tiếp
cận, xem xét, đánh giá về mức độ, tính chất, sự cấu thành và phạm vi ảnh hưởng
của nó cũng khác nhau. Mặc dù còn nhiều quan niệm, quan điểm khác nhau,

3


nhưng tựu chung lại, nhận thức về mối đe dọa ANPTT của nhiều quốc gia, của khu
vực Đông Nam Á có ba điểm chung cơ bản sau:
Thứ nhất, các mối đe dọa ANPTT xuất phát từ những vấn đề đe dọa nghiêm
trọng đến sự phát triển bền vững, ổn định xã hội, môi trường sinh thái và thể chế
xã hội; làm suy giảm tăng trưởng kinh tế, sức khoẻ con người, tác động tiêu cực
đến đời sống sinh hoạt của đông đảo nhân dân và làm gia tăng các hiểm họa tự
nhiên.
Thứ hai, các mối đe dọa ANPTT có phạm vi tác động rộng, liên quan đến
nhiều lĩnh vực, nhiều quốc gia, chủ thể, vượt ra khỏi lợi ích, phạm vi ANTT và trở

thành vấn đề toàn cầu, tác động cả trực tiếp, gián tiếp, cả trước mắt và lâu dài đối
với ANQG.
Thứ ba, giải quyết, ứng phó với các mối đe dọa ANPTT đòi hỏi sự quan
tâm, hợp tác, nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế và trách nhiệm của từng quốc
gia, với hệ thống giải pháp phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, pháp luật, khoa
học - kỹ thuật, ngoại giao và an ninh, quốc phòng…
Đối với Việt Nam, căn cứ vào quan điểm của Đảng và Nhà nước; xuất phát
từ thực tiễn vấn đề ANPTT cùng các mối đe dọa của nó từ năm 2001 đến nay,bài
thu hoạch tập trung vào các mối đe dọa ANPTT đối với ĐLDT của Việt Nam trên
sáu nội dung chính: biến đổi khí hậu; an ninh kinh tế, tài chính; an ninh năng
lượng; an ninh lương thực; tội phạm cơng nghệ cao; tội phạm xun quốc gia.
1.2. Tính chất của mối đe doạ an ninh phi truyền thống
Thứ nhất, các mối đe doạ ANPTT vừa có nguồn gốc tự nhiên vừa có nguồn
gốc xã hội, mang tính tổng hợp; vừa mang tính phi bạo lực vừa mang tính bạo
lực,vừa đe dọa trực tiếp vừa đe dọa gián tiếp đến ĐLDT.
ANPTT nảy sinh từ các yếu tố tự nhiên bao gồm: thảm hoạ thiên nhiên, cạn
kiệt tài nguyên, môi trường, bão lụt, nước biển dâng...; từ các yếu tố xã hội gồm
khủng bố, dịch bệnh, tội phạm công nghệ cao, tội phạm xuyên quốc gia... Tuy
nhiên, cũng có vấn đề tác động “cộng hưởng” do cả tự nhiên và xã hội. Nước biển
dâng là do yếu tố tự nhiên, nhưng do sự xâm phạm và hủy hoại môi trường của
con người làm cho sự dâng lên của nước biển càng trở nên nguy hiểm. Vì thế, các
4


mối đe doạ ANPTT mang tính tổng hợp, nó cịn bao gồm an ninh trên các lĩnh vực
như tài nguyên, kinh tế, tài chính tiền tệ, khoa học kỹ thuật, thơng tin, xã hội, văn
hố. ANPTT có thể chia làm hai phương diện có tính chất bạo lực và tính chất phi
bạo lực. Về tính chất bạo lực, đó là các vấn đề đặc trưng như chủ nghĩa khủng bố,
buôn lậu ma t, tội phạm có tổ chức; về tính chất phi bạo lực, đó là những vấn đề
như ơ nhiễm mơi trường, khủng hoảng tài chính tiền tệ, bệnh dịch.

Thứ hai, các mối đe doạ an ninh phi truyền thống lan tràn nhanh, mang tính
xun quốc gia.
Vấn đề tồn cầu hay toàn nhân loại được quan niệm là những vấn đề mà tác
động của nó có liên quan trực tiếp đến vận mệnh của tất cả các quốc gia dân tộc,
khơng phân biệt chế độ chính trị - xã hội, biên giới quốc gia. ANPTT là vấn đề
toàn cầu, mang tính xuyên quốc gia do những uy hiếp và nhân tố phi chính trị, phi
quân sự gây ra và ảnh hưởng đến an ninh các nước, sự “lan toả” hoặc ảnh hưởng
từ vấn đề nội bộ của một nước mà gây ra mất an ninh cho nước khác, hoặc khu
vực đó và cả tính đa dạng trong cách thức giải quyết vấn đề. Tính xuyên quốc gia,
hoặc “mối uy hiếp xuyên quốc gia” của ANPTT là rõ ràng, nó chỉ vấn đề ảnh
hưởng đến an ninh của một số quốc gia, khu vực và toàn cầu như chủ nghĩa khủng
bố, bệnh dịch, buôn lậu ma tuý, di dân phi pháp, ô nhiễm môi trường, tội phạm
công nghệ cao. Những vấn đề đó là một loại uy hiếp mới, vượt qua biên giới quốc
gia của tư duy ANTT. Những uy hiếp đó rất phức tạp, liên hệ lẫn nhau, đa tầng và
phi quân sự. Các hoạt động tội phạm, khủng bố quốc tế, nhất là khủng bố bằng vũ
khí sinh học, hóa học, bệnh dịch…, lây lan có quy mơ xun biên giới.
Trong bối cảnh tồn cầu hóa, tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia tăng
lên, thế giới dường như trở nên nhỏ bé hơn, nhưng lại khó kiểm sốt hơn, kém an
tồn hơn bởi các mối đe dọa ANPTT có mức độ nguy hiểm cao hơn, sức ảnh
hưởng lớn hơn. Tính chất lan tràn nhanh và xuyên quốc gia đặt ra những thách
thức mới đối với việc bảo vệ ĐLDT của đất nước, địi hỏi phải có biện pháp phù
hợp.
Thứ ba, các mối đe doạ ANPTT ảnh hưởng lẫn nhau, tác động cộng hưởng;
có thể bùng phát đột xuất, kích thích lây lan.
5


Các mối đe doạ ANPTT có đặc điểm tác động và ảnh hưởng lẫn nhau. Vấn
đề an ninh của một phương diện nào đó đều có thể dẫn đến hoặc kích thích sự
bùng phát của vấn đề an ninh khác, khiến cho sự ảnh hưởng và mức độ nguy hại

của các mối đe doạ ANPTT ở cấp độ cao hơn, gay gắt hơn. Chẳng hạn sự nghèo
đói, xung đột bộ tộc ở một số khu vực châu Phi liên quan đến vấn đề nạn di dân
phi pháp; các hoạt động tội phạm và chủ nghĩa khủng bố cũng như tin tặc dưới
nhiều hình thức câu kết với nhau; những vấn đề như buôn lậu ma túy và rửa tiền
phi pháp, kinh tế ngầm; tội phạm có tổ chức và di dân phi pháp; mơi trường suy
thối và nạn nhân mơi trường đều có liên hệ với nhau. Trong một số vấn đề đã
hình thành “chuỗi xích” của “vấn đề - khủng hoảng - xung đột”, có thể kích thích
lẫn nhau và tạo thành hiệu ứng nguy hại mang tính dây chuyền với phạm vi lớn
hơn, đồng thời tạo thành “uy hiếp” song trùng hoặc nhiều hơn đối với ANQG và
an ninh quốc tế, như vấn đề tôn giáo dân tộc, vấn đề chủ nghĩa khủng bố... Các
vấn đề ANPTT thường là bùng phát đột xuất dưới hình thức khủng hoảng, từ đó
tạo thành mối đe doạ nghiêm trọng trực tiếp đối với ANQG, như khủng hoảng
kinh tế, tiền tệ, bệnh dịch, khủng bố, nên chúng càng trở nên khó kiểm sốt, khó
giải quyết.
Thứ tư, các mối đe doạ ANPTT mang tính nguy hiểm cao, phạm vi rộng,
trực tiếp uy hiếp, gây hậu quả nghiêm trọng đối với sinh mệnh con người, đời sống
xã hội các nước và toàn nhân loại.
Các vấn đề ANPTT đều trực tiếp cấu thành uy hiếp đối với sinh mệnh con
người, đời sống xã hội của các nước và an ninh toàn nhân loại, ANQG, an ninh
khu vực cũng như an ninh tồn cầu, tuy có sự khác nhau về phương thức, mức độ,
thời gian và hậu quả. Tính chất nguy hiểm của các mối đe dọa ANPTT không chỉ
biểu hiện ở mức độ hủy hoại, sự tàn phá của nó đối với cuộc sống của con người,
mà còn đặt ra nhiều thách thức đối với sự ổn định xã hội, sự tồn vong của cả cộng
đồng, hiệu quả thực tế của hợp tác và hội nhập tồn cầu; thậm chí cịn làm nảy
sinh các vấn đề về an ninh quân sự.
Khủng hoảng tài chính tiền tệ không chỉ trực tiếp đem đến nguy hại kinh tế,
như ngân hàng sụp đổ, doanh nghiệp phá sản, công nhân thất nghiệp, thâm hụt tài
6



chính, dự trữ ngoại hối tổn thất, GDP giảm sút, mà cịn đem đến những nguy hại
chính trị, an ninh to lớn. Lịch sử cho thấy, hậu quả của khủng hoảng tài chính tiền
tệ là quyền lực của đảng cầm quyền bị giảm xuống; thậm chí mất quyền lãnh đạo
đất nước. Khủng hoảng tài chính tiền tệ cịn làm nảy sinh những nguy hại xã hội to
lớn, khiến cho quốc gia đang phát triển có thể trở nên kiệt quệ và dẫn đến động
loạn xã hội cục bộ, xung đột giữa chủng tộc, tơn giáo và đồn thể xã hội khác nhau
gia tăng. Các thảm họa thiên tai, động đất, sóng thần, bão lụt, dịch bệnh, cạn kiệt
tài nguyên thiên nhiên… ngày càng thách thức các thành tựu của khoa học, kỹ
thuật hiện đại và khả năng, nỗ lực của con người. Khủng bố, tội phạm xuyên quốc
gia, tội phạm cơng nghệ cao, những vấn đề tài chính, năng lượng, lương thực…
đang thử thách nghiệt ngã năng lực điều hành của các chính phủ, sự ổn định xã
hội, sự vững chắc của các thể chế chính trị và các nền kinh tế, kể cả nền kinh tế
giàu mạnh nhất, và tính khả thi của các liên kết hợp tác quốc tế, khiến cho khơng
một quốc gia nào có thể n ổn phát triển.
Các mối đe dọa ANPTT đang diễn biến ngày càng khó lường, với quy mơ,
tần suất ngày càng gia tăng, tạo ra những hệ quả kinh tế - xã hội sâu rộng. Phạm vi
tác động của các mối đe dọa ANPTT là tồn thế giới, khơng kể riêng một quốc gia
nào. Nó trở thành những thách thức mang tính tồn cầu, bởi hoạt động của tội
phạm xun quốc gia, khủng bố quốc tế, nhất là khủng bố bằng vũ khí sinh học,
hóa học, bệnh dịch, nước biển dâng là khơng biên giới, nó vượt ra khỏi biên giới
lãnh thổ và lợi ích ANQG của một nước.
Trong bối cảnh bùng nổ cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, q trình
tồn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ đã làm cho biên giới địa lý giữa các quốc gia trở
nên “mềm” hơn, dễ vượt qua hơn; mạng internet đã tạo ra một “thế giới ảo” với
các xa lộ thông tin tồn cầu, khơng cịn biên giới ngăn cách. Cùng với đó là sự hủy
hoại của chính con người đối với tự nhiên, môi trường; sự phát triển kinh tế thiếu
kiểm sốt, chạy theo lợi nhuận thuần túy, lợi ích trước mắt; sự chi phối của những
tư tưởng chính trị cực đoan, sự tha hóa và suy thối về đạo đức của bản thân con
người… đã làm cho những vấn đề mà ngày nay được gọi là các mối nguy cơ
ANPTT, càng trở nên trầm trọng hơn, phức tạp hơn, có quy mô lớn hơn rất nhiều.

7


Nhân tố ANPTT biến hố khơng ngừng. Ví dụ, cùng với sự không ngừng leo thang
của các hành động tấn công khủng bố của chủ nghĩa khủng bố, việc chống khủng
bố trở thành bộ phận cấu thành quan trọng trong công cuộc bảo vệ ANQG.
1.3. Tác động của các mối đe dọa an ninh phi truyền thống đến độc lập dân
tộc
Tác động của các mối đe dọa ANPTT đến ĐLDT là sự tác động tổng hợp,
toàn diện đến toàn bộ nội dung cấu thành độc lập dân tộc. Ở đây, bài thu hoạch tập
trung nghiên cứu tác động trên những vấn đề chính sau:
1.3.1. Tác động đến độc lập, chủ quyền và an ninh quốc gia
Các mối đe dọa ANPTT tác động mạnh mẽ đến độc lập, chủ quyền và an
ninh quốc gia trong các quan hệ quốc tế. Đây là một hướng tác động sâu sắc, gây
nhiều ảnh hưởng đối với ĐLDT của đất nước. Một loạt các mối đe dọa ANPTT
như khủng bố, tội phạm công nghệ cao, tội phạm xuyên quốc gia, rửa tiền, di dân
trái phép, buôn bán người, dịch bệnh, an ninh lương thực, các vấn đề môi trường,
sinh thái, thảm họa thiên nhiên... đe dọa trực tiếp đến độc lập, chủ quyền và
ANQG. Trên thực tế, vấn đề khủng bố không chỉ gây hậu quả trực tiếp đến
ANQG, mà việc giải quyết nó, việc chống khủng bố nhiều khi lại là “cái cớ” cho
sự can thiệp của các thế lực bên ngồi vào cơng việc nội bộ, kể cả sự can thiệp
bằng vũ lực.
Độc lập, chủ quyền và ANQG trong điều kiện đó bị uy hiếp nghiêm trọng,
thậm chí bị xâm phạm. Các nước, đặc biệt là các nước nhỏ có thể bị “cuốn theo”
một cách tự phát vào vịng xốy của chống khủng bố, dễ dẫn đến bị lệ thuộc và
phụ thuộc vào các nước lớn trong các quan hệ quốc tế. Thậm chí cả những việc
cộng đồng quốc tế “góp sức” vào giải quyết các vấn đề dịch bệnh, khắc phục thảm
họa thiên nhiên ở một nước nào đó, khu vực nào đó, cũng là “điều kiện” để các
nước lớn can thiệp sâu vào đời sống chính trị -kinh tế - xã hội đất nước.
Xu thế tồn cầu hóa hiện nay đang chịu sự chi phối, lũng đoạn của các thế

lực tư bản phương Tây, trước hết là Mỹ, các nước tư bản phát triển và các tập đoàn
tư bản độc quyền xuyên quốc gia. Điều này cũng có nghĩa là áp lực ngày càng lớn,
nguy cơ ngày càng cao đối với ANQG, đối với ĐLDT của các nước vừa và nhỏ..
8


Sự uy hiếp, xâm phạm độc lập dân tộc, chủ quyền và an ninh quốc gia dưới tác
động của các mối đe dọa ANPTT là mạnh mẽ và trực tiếp, nhưng không phải dễ
dàng nhận thức đầy đủ và càng khơng dễ dàng khắc phục mối đe dọa này, thậm
chí, để giải quyết các mối đe dọa từ ANPTT đối với ĐLDT các nước phải gia tăng
hợp tác,hội nhập về mọi mặt, nhất là trên lĩnh vực khoa học, công nghệ đối với các
nước phát triển.
1.3.2. Tác động đến thể chế chính trị đất nước và con đường phát triển của dân
tộc.
Giữ vững và kiên định thể chế chính trị đất nước và con đường phát triển
của dân tộc là một vấn đề cơ bản cốt lõi trong nội dung và yêu cầu bảo vệ ĐLDT
của các quốc gia. Không thể có ĐLDT thực sự, nếu khơng giữ vững được, khơng
kiên định thể chế chính trị đất nước và con đường phát triển.
Sự tác động và uy hiếp của mối đe dọa an ninh phi truyền thống đến thể chế
chính trị đất nước và con đường phát triển của dân tộc thể hiện trên những vấn đề
chính là: thứ nhất, nó buộc nước phải có sự “điều chỉnh” về thể chế chính trị, điều
chỉnh hệ thống pháp luật theo hướng mang tính “quốc tế” hơn; thứ hai, nó đặt ra
và “u cầu” các nước phải xem xét lại mơ hình, thậm chí con đường phát triển
của dân tộc mình; thứ ba, nó “địi hỏi” phải du nhập những khn khổ, mơ hình
của bên ngồi, trên thực tế là từ các nước phương Tây, Mỹ. Chủ nghĩa khủng bố
tác động mạnh mẽ đến tâm lý của người bị hại, tạo nên tâm lý hoảng sợ của con
người, khiến cho người ta có thể phải từ bỏ sự ủng hộ đối với chính phủ.
Trong điều kiện tồn cầu hóa, trước các mối đe dọa ANPTT các vấn đề tác
động trên càng trở nên rõ ràng và cụ thể, thường gắn với sự chống phá của các thế
lực thù địch bằng “diễn biến hịa bình”, đặc biệt đối với các nước như Việt Nam.

Những “yêu cầu”, “khuyến nghị” đối với Việt Nam rằng, cần phải từ bỏ sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phải thực hiện “đa nguyên, đa đảng”; xây dựng
nhà nước pháp quyền theo kiểu phương Tây; thực hiện “xã hội dân sự”; cần phải
đi theo con đường và mơ hình dân chủ tư sản... trong thời gian gần đây, đã cho
thấy sự tác động, đặc biệt là sự lợi dụng những tác động từ các mối đe dọa ANPTT
đến ĐLDT là rất to lớn. Những lo ngại mất độc lập, tự chủ về chính trị mà khơng
9


dám tích cực hội nhập quốc tế; hoặc yêu cầu phải đẩy nhanh hơn nữa quá trình hội
nhập quốc tế, mà không quan tâm đầy đủ đến độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia;
địi đẩy mạnh cải cách chính trị, thậm chí phải thực hiện “đa đảng đối lập”; những
luận điệu rằng, lúc này mà nhấn mạnh đến độc lập, tự chủ là “lạc hậu”, làm “mất
cơ hội” phát triển, … đang là suy nghĩ ở một số người, một số nơi trong xã hội.
1.3.3. Tác động đến nền kinh tế độc lập tự chủ của quốc gia.
Trước tác động của các mối đe dọa ANPTT, tính độc lập tự chủ của nền
kinh tế đất nước bị uy hiếp, dễ rơi vào phụ thuộc, lệ thuộc vào bên ngoài. Tác
động của các mối đe dọa ANPTT đến độc lập tự chủ của kinh tế là tác động trực
tiếp trên các vấn đề: lợi ích kinh tế; chủ quyền kinh tế; định hướng phát triển kinh
tế; thể chế kinh tế; sự ổn định kinh tế, đặc biệt là về tài chính, tiền tệ và quan hệ
hợp tác kinh tế thương mại quốc tế của quốc gia. Nền kinh tế đất nước ln phải
đối mặt với nguy cơ lợi ích kinh tế quốc gia bị đe doạ; phương hướng phát triển
nền kinh tế có thể bị xáo trộn.
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thối kinh tế tồn cầu năm 2008 bắt đầu
từ nước Mỹ, nhanh chóng lan rộng là nhiều nước, kéo cả nền kinh tế thế giới rơi
vào tình trạng suy thối, là một thí dụ sự tác động của các mối đe dọa ANPTT đến
tính độc lập và khả năng ứng phó của các nền kinh tế dân tộc. Trong điều kiện tồn
cầu hóa, chỉ dựa vào sức mạnh bản thân, một quốc gia không thể bảo đảm được an
ninh kinh tế, mà cần phải tăng cường hợp tác song phương, khu vực và đa phương;
cần phải đặt an ninh kinh tế của quốc gia vào trong khung cảnh chính trị, kinh tế

của khu vực hoặc tồn cầu, để suy tính một cách tồn diện nhằm đạt được mục
tiêu an ninh kinh tế. Trong điều kiện đó, ngoại giao, đặc biệt là ngoại giao kinh tế
là biện pháp bảo đảm an ninh kinh tế mà các nước trên thế giới quen dùng. Cần
phải mở rộng các mối quan hệ như tăng cường hợp tác kinh tế quốc tế; hợp tác
kinh tế khu vực; hợp tác kinh tế nước lớn và hợp tác kinh tế song phương.
Báo cáo Chiến lược ANQG của Mỹ năm 1988 cho rằng: “Một nền kinh tế
ngày càng tăng trưởng, có tính đàn hồi và có tiềm lực khoa học kỹ thuật là hết sức
quan trọng đối với ANQG”; ANQG và thực lực kinh tế khơng thể tách rời nhau.
Điều đó cho thấy, tác động của các mối đe dọa ANPTT làm cho an ninh kinh tế nổi
10


lên thực sự như là bộ phận cấu thành quan trọng trong hệ thống ANQG, là một nội
dung then chốt trong bảo đảm an ninh quốc gia. Khủng hoảng tài chính tiền tệ cịn
làm nảy sinh những nguy hại xã hội rất to lớn, với những hậu quả khó lường,
khiến cho các quốc gia đang phát triển có thể trở thành kiệt quệ và dẫn đến mất ổn
định xã hội cục bộ, hoặc xung đột giữa các dân tộc, tôn giáo và đồn thể xã hội
khác nhau. Chính điều này lại tác động mạnh mẽ và đe dọa trực tiếp, dù là khách
quan hay chủ quan, đến sự ổn định và tính độc lập tự chủ và cả thể chế của nền
kinh tế đất nước.
Một vấn đề cần chú ý là, thông qua phối hợp giải quyết các mối đe dọa
ANPTT, đẩy mạnh các hoạt động đầu tư, liên doanh, liên kết kinh tế, các thế lực
thù địch đẩy mạnh phát triển khu vực kinh tế tư nhân, làm biến đổi dần cơ sở kinh
tế - xã hội, thực hiện “diễn biến hịa bình” về kinh tế, chống phá cách mạng Việt
Nam. Chúng triệt để khai thác, lợi dụng các chủ trương cổ phần hoá, mở thị trường
chứng khoán để hỗ trợ, tác động, thúc đẩy kinh tế tư bản tư nhân phát triển, từng
bước làm suy yếu, vô hiệu hố, mất dần vai trị chủ đạo của kinh tế Nhà nước, đưa
nền kinh tế phát triển chệch định hướng XHCN; cổ súy cho kinh tế thị trường
TBCN, khuếch trương vai trị kinh tế tư bản tư nhân, khuyến khích tư nhân hố.
Thơng qua các tổ chức quốc tế và khu vực để “hoà nhập” Việt Nam vào các cơ sở

kinh tế, tài chính, an ninh, chính trị TBCN. Thơng qua các khoản viện trợ kinh tế,
cho vay ưu đãi, hiệp định thương mại và các quan hệ kinh tế khác để tăng cường
gây sức ép về chính trị, can thiệp nội bộ, từng bước chuyển hoá theo quỹ đạo
TBCN. Chúng cịn dùng sức mạnh kinh tế thơng qua hợp tác để thực hiện ý đồ
chuyển hố chế độ chính trị; thực hiện tư tưởng chỉ đạo: “Đầu vào kinh tế, đầu ra
chính trị”.
1.3.4. Tác động đến tài nguyên thiên nhiên và môi trường, sinh thái.
Tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái là những nhân tố dễ bị tác
động bởi sự tác động từ các mối đe dọa ANPTT có nguồn gốc từ chính con người.
Vấn đề mơi trường, cạn kiệt nguồn tài nguyên, khan hiếm nguồn nước sạch, vấn
đề biến đổi khí hậu, nước biển dâng… đơi khi lại đe dọa nhiều hơn đối với cuộc
sống của người dân ở những quốc gia không phải là “thủ phạm” gây ra những biến
11


đổi, cạn kiệt đó. Sự khai thác thiếu kiểm sốt, tình trạng ơ nhiễm mơi trường sinh
thái, “hiệu ứng nhà kính”, khí hậu nóng lên, tầng ơzon bị phá hoại và tổn hao, tính
đa dạng sinh vật giảm, đất hoang mạc hố, tình trạng nước biển dâng, bão, lụt,
sóng thần không những chỉ là xuất phát từ tự nhiên, bởi tự nhiên, mà chúng cịn
nói lên rất rõ sự trừng phạt của tự nhiên đối với con người, đối với những hành
động ứng xử thiếu văn hóa và thiếu trách nhiệm của con người đối với chính tự
nhiên.
Càng tác động vào thiên nhiên với mục đích cải tạo nó, hầu như con người
càng dấn sâu vào vòng luẩn quẩn và gánh chịu ngày càng nặng nề sự nổi giận “trả
thù” của chính thiên nhiên đúng như Ph.Ăngghen đã từng cảnh báo từ lâu. Trên
thực tế, con người đang phải đối mặt những nguy cơ từ chính sự “phát triển” của
mình. Ảnh hưởng của các vấn đề môi trường đối với ANQG biểu hiện ở chỗ, nó có
thể gậm nhấm “quốc thổ lành mạnh”, làm suy yếu năng lực phát triển bền vững
đất nước; gây ra “xung đột quốc tế”; gây hiệu ứng xun quốc gia của vấn đề mơi
trường; có thể gây ra cuộc chiến tranh đoạt tài nguyên. Trong điều kiện đó, vấn đề

bảo vệ độc lập dân tộc càng gặp khó khăn với nhiều thách thức khơng dễ dàng giải
quyết.
1.3.5. Tác động đến việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một nội dung, một yêu cầu
đặc biệt quan trọng của việc giữ gìn và củng cố ĐLDT của các quốc gia trong thời
đại ngày nay. Sự lợi dụng của các thế lực bên ngồi đối với vấn đề dân tộc, tơn
giáo, dân chủ, nhân quyền trong quá trình hợp tác quốc tế ứng phó với các mối đe
dọa ANPTT, đã đe dọa nhiều giá trị dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc. Sự hình
thành, phát triển của mọi nền văn hố cũng đều là sự thống nhất của tính riêng và
tính chung trong nền văn hố đó. Tính dân tộc không chỉ là đặc trưng cơ bản của
một nền văn hố, mà nó cịn là nội hàm cốt lõi của sức sống của nền văn hố ấy.
Giữ gìn tính dân tộc của văn hoá là điều kiện cơ bản của phát triển văn hố dân
tộc, đồng thời nó cũng là động lực nội tại của sự sinh tồn và phát triển dân tộc.
Trong bối cảnh tồn cầu hóa, các mối đe dọa ANPTT làm cho an ninh của
các quốc gia, bản sắc văn hoá của mỗi dân tộc, cho đến đời sống của mỗi cá nhân
12


con người trở nên mong manh hơn bao giờ hết, xâm hại nghiêm trọng đến những
giá trị vốn có của ĐLDT và chủ quyền quốc gia. Vấn đề giữ gìn những giá trị
truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc, thuần phong mỹ tục, những
giá trị đạo đức, lối sống gặp nhiều khó khăn. Việc bảo vệ và phát huy những giá trị
truyền thống của quốc gia dân tộc trên mọi lĩnh vực, không chỉ về kinh tế, chính
trị, mà cịn cả về văn hố, tư tưởng, xã hội, chống lại mọi mưu toan áp đặt đe doạ,
xâm lăng văn hóa của các thế lực đế quốc, thù địch là một vấn đề bức xúc, gay go
và rất phức tạp đối với mỗi quốc gia dân tộc.
2. Thực trạng mối đe dọa an ninh phi truyền thống ở Việt Nam từ năm 2001
đến 2019
2.1. Mối đe dọa an ninh phi truyền thống ở Việt Nam trước năm 2001
Từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, cùng với việc Chiến tranh lạnh kết thúc,

sự tác động của cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế tồn cầu hóa gia tăng
làm thay đổi nhanh chóng mọi mặt tình hình thế giới đồng thời xuất hiện mối quan
tâm về vấn đề ANPTT. Đây cũng là thời kỳ Việt Nam bắt đầu tiến trình đổi mới
tồn diện đất nước. Hội nghị Trung ương 3, khóa VII (6-1992) đã đề ra tư tưởng
chỉ đạo về an ninh và đối ngoại trước những diễn biến mới của khu vực và thế giới
“giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và CNXH, đồng thời phải rất sáng
tạo, năng động, linh hoạt phù hợp với vị trí và hồn cảnh của nước ta, cũng như
diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đối tượng ta có thể
quan hệ”.
Như vậy là, từ khi Chiến tranh lạnh kết thúc các nguồn gốc phát sinh những
vấn đề ANPTT cùng các mối đe dọa của nó từ dạng tiềm tàng đã hiện hữu đe dọa
an ninh của mỗi quốc gia và cuộc sống con người.Tuy nhiên, trong thời gian này ở
Việt Nam chưa có nhận thức đầy đủ, tồn diện về ANPTT, mà về cơ bản chúng ta
mới chỉ nhận thức về nó qua các mối đe dọa mang tên gọi là “những vấn đề toàn
cầu”. Các mối đe dọa mang tính tồn cầu trong thập niên 90 được Việt Nam quan
tâm nghiên cứu, hợp tác quốc tế cùng nhau giải quyết chủ yếu tập chung vào các
vấn đề: Biến đổi khí hậu; hiệu ứng nhà kính làm trái đất nóng lên; ơ nhiễm mơi

13


trường; chênh lệch giàu nghèo; bệnh tật hiểm nghèo; “tự diễn biến” “tự chuyển
hóa”...
Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị, khoá VIII về Chiến lược an ninh quốc gia
(năm 1998) đã cảnh báo và chỉ ra các yếu tố thách thức đối với ANQG của Việt
Nam, trong đó có vấn đề ANPTT. Bước sang thế kỷ XXI, Đảng và Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã chú trọng và từng bước đề ra những chủ trương,
đối sách thích hợp đối với ANPTT và gắn các chủ trương, đối sách đó với các
quan điểm, tư duy đổi mới kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh và đối ngoại
trong thời kỳ đổi mới đất nước.

2.2. Thực trạng mối đe dọa an ninh phi truyền thống ở Việt Nam từ năm 2001
đến 2019
2.2.1. Từ biến đổi khí hậu
Công ước khung của Liên Hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) cho
rằng, biến đổi khí hậu là: “sự biến đổi của khí hậu Trái đất và những hiệu ứng
nguy hại của nó là mối quan tâm chung của nhân loại”. Biến đổi khí hậu cùng với
suy thối tài nguyên, ô nhiễm môi trường là những thách thức lớn nhất của nhân
loại trong thế kỷ XXI. Nó đã, đang và sẽ làm thay đổi toàn diện, sâu sắc các hệ
sinh thái tự nhiên, đời sống kinh tế - xã hội, quá trình phát triển, đe dọa nghiêm
trọng đối với an ninh môi trường, năng lượng, nguồn nước, lương thực… đối với
mọi quốc gia trên phạm vi toàn cầu. Từ cuộc cách mạng công nghiệp đến nay, con
người sử dụng một khối lượng lớn nhiên liệu khoáng vật như dầu lửa, than và
phân hoá học, đã gây ra hiệu ứng nhà kính trong khí quyển, nhiệt độ khơng khí
tăng 0,6 độ và nếu khí thải vẫn duy trì như hiện tại thì đến năm 2025, nhiệt độ tăng
1độ, cuối thế kỷ có thể là 3 độ. Trái đất nóng lên, băng tan, nước biển nâng lên 60100 cm, uy hiếp nghiêm trọng đối với 1 tỷ người sống trên các quốc đảo và thành
phố ven biển. Những vấn đề khí hậu nóng lên; tầng ozon bị phá hoại và tổn hao;
tính đa dạng sinh vật giảm; đất hoang mạc hố; thảm thực vật rừng bị phá hoại;
khủng hoảng nguồn nước và tài nguyên hải dương bị phá hoại; ô nhiễm mưa axít;
thiên tai bão lụt, hạn hạn... là những hệ lụy từ biến đổi khí hậu.

14


Biến đổi khí hậu, với những tác động ngày một gia tăng và khó lường ở
nhiều lĩnh vực, các địa phương sẽ làm gia tăng mức độ cạn kiệt tài ngun và suy
thối mơi trường; làm tăng khả năng bị tổn thương, là nguy cơ làm chậm quá trình
phát triển kinh tế - xã hội, hoặc làm mất đi nhiều thành quả kinh tế, xã hội mà Việt
Nam đã đạt được.
Các nguy cơ, rủi ro bởi biến đổi khí hậu cần được tính đến trong q trình
xây dựng, hồn thiện và thực hiện các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát

triển kinh tế - xã hội của đất nước, cũng như trong kế hoạch phát triển của các
ngành và các địa phương. Tuy nhiên, khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu của
Việt Nam vẫn cịn nhiều hạn chế; tình trạng ngập lụt ở một số thành phố lớn chậm
được khắc phục; khả năng phòng tránh, giảm nhẹ tác hại của thiên tai đối với sản
xuất và đời sống, nhất là sản xuất nơng nghiệp cịn nhiều hạn chế.
2.2.2. Từ vấn đề kinh tế, tài chính

Tài chính tiền tệ là một bộ phận cấu thành quan trọng của kinh tế quốc dân,
cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, địa vị của tài chính tiền tệ trong kinh
tế quốc dân ngày càng cao. Tài chính tiền tệ là phong vũ biểu của nền kinh tế.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, nhiều vấn đề kinh tế thơng qua tình hình tài
chính tiền tệ biểu hiện ra như sự lên xuống của giá cổ phiếu, dao động của lãi suất.
Vấn đề an ninh kinh tế, tài chính của các nước đang phát triển, đặc biệt là nền kinh
tế mới nổi, xuất hiện trong quá trình “tiểu tuần hoàn” tư bản trong nước bị nạp vào
“đại tuần hoàn” của tư bản quốc tế, làm nảy sinh an ninh tài chính tiền tệ chính là
tự do hố tài chính tiền tệ không thoả đáng, đặc biệt là thị trường tài chính tiền tệ
mở cửa nhanh và quá sớm. Những cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong thập
niên 80, 90 thế kỷ XX đã cho thấy rõ sự rối loạn của tài chính tiền tệ, đó là kết quả
tích tụ lâu dài của nguy cơ tài chính tiền tệ, khi biến thành khủng hoảng tài chính
tiền tệ dẫn đến suy thoái kinh tế, hơn nữa dẫn đến khủng hoảng xã hội và chính trị;
khiến cho quốc gia đang phát triển có thể kiệt quệ và dẫn đến xung đột xã hội.
Đối với Việt Nam, vấn đề an ninh kinh tế, tài chính thực sự mới đặt ra một
cách cụ thể trong những năm gần đây. Trong quá trình hội nhập quốc tế, thị trường
15


tài chính của Việt Nam phát triển với quy mơ và tốc độ rất nhanh. Sự phát triển
của thị trường tiền tệ và ngân hàng, tính ổn định chưa cao, lạm phát kéo dài trong
nhiều năm, đã tạo bất ổn cho nền kinh tế vĩ mô, nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn
trong sản xuất kinh doanh, nợ quá hạn của các ngân hàng có xu thể tăng, một số

ngân hàng thanh khoản khó khăn, một số phải sáp nhập, cơ cấu lại theo hướng sáp
nhập với ngân hàng lớn hoặc có thể phải có sự can thiệp trực tiếp của Ngân hàng
Nhà nước… Thị trường tiền tệ và ngân hàng Việt Nam hoạt động về cơ bản tính
ổn định chưa cao, an tồn ở mức thấp và phát triển khó khăn, có khả năng lâm vào
khủng hoảng do nợ quá hạn của các ngân hàng thương mại tăng cao. Thị trường
chứng khoán Việt Nam mới phát triển từ năm 2000 nhưng đã có sự mất ổn định
hoạt động, chưa thật an toàn và hiệu quả. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, nền
kinh tế gặp nhiều khó khăn, nợ xấu ngân hàng tăng cao là nguy cơ gây mất ổn
định thị trường, nếu không xử lý tốt dễ dẫn đến khủng hoảng thị trường tiền tệ và
ngân hàng, tác động đến khủng hoảng thị trường tài chính. Trong khi đó, việc thực
thi các giải pháp về phòng, chống tội phạm nói chung và phịng chống rửa tiền nói
riêng về cơ bản chưa đáp ứng đầy đủ các chuẩn mực quốc tế, do đó hệ thống tài
chính Việt Nam rất dễ bị lợi dụng để tội phạm sử dụng như khu vực để rửa tiền và
phạm tội, gây tổn thất cho thị trường tài chính. Một trong những thách thức lớn
nhất là làm sao kiểm sốt tình hình tài chính quốc gia ổn định, an toàn, tạo nền
tảng thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển nhanh và bền vững trong bối cảnh nền
kinh tế khu vực và thế giới còn tiềm ẩn những nguy cơ bất ổn. Hiện nay, Việt Nam
đang nằm trong danh sách cảnh báo về thị trường tài chính gặp nhiều rủi ro trong
giao dịch tài chính quốc tế.
2.2.3. Từ vấn đề năng lượng

Năng lượng vốn được coi là “chìa khóa” để mỗi quốc gia và nền kinh tế của
mình được “bảo vệ” khỏi các nguy cơ có thể ảnh hưởng đến trạng thái kinh tế - xã
hội của quốc gia và làm chậm hoặc ngăn cản đà tăng trưởng kinh tế. Từ giữa thập
niên 80 thế kỷ trước, nhận thức của con người về vấn đề an ninh năng lượng
không chỉ giới hạn trong việc cung ứng mà còn về vấn đề sử dụng năng lượng. An
16


ninh năng lượng, đầu tiên được lý giải giản đơn là an ninh cung ứng năng lượng, ở

đó tính ổn định của cung ứng trở thành mục tiêu cơ bản của an ninh năng lượng
quốc gia.
An ninh năng lượng với ý nghĩa hiện đại là gắn bó chặt chẽ với sự phát triển
bền vững, an ninh năng lượng là một trạng thái thực hiện bảo đảm năng lượng, là
sự thống nhất hữu cơ của an ninh cung ứng năng lượng và an ninh sử dụng năng
lượng. Tình hình mỗi nước khác nhau, song chiến lược an ninh năng lượng của các
nước đều lấy bảo đảm an ninh dầu lửa làm hạt nhân, tích cực mở rộng cung ứng
dầu lửa; thiết lập và tăng cường dự trữ; thực hiện chính sách tiết kiệm; tích cực
khai thác năng lượng mới; hạ thấp tiêu thụ dầu lửa, thúc đẩy mạnh mẽ việc sử
dụng năng lượng tinh khiết.
Việt Nam là một nước có tốc độ tăng trưởng khá nhanh, nhưng tiêu hao
năng lượng nhiều. Điều chú ý là tiêu hao năng lượng cho một đơn vị sản phẩm
trong nhiều ngành công nghiệp của Việt Nam cao hơn so với các nước khu vực.
Cường độ năng lượng trong công nghiệp của Việt Nam cao hơn Thái Lan và
Malaysia khoảng 1,5 - 1,7 lần. So với các nước phát triển, tỷ lệ giữa nhu cầu năng
lượng so với tăng trưởng GDP của Việt Nam cao gấp gần 2 lần, trong khi ở các
nước phát triển tỉ lệ này là dưới 1. Năng lượng là huyết mạch cho phát triển kinh tế
và nâng cao đời sống nhân dân, với bối cảnh chung toàn cầu và điều kiện cụ thể
của Việt Nam, an ninh năng lượng ngày càng trở nên quan trọng và cấp thiết hơn.
Chính phủ Việt Nam đã có những cơ chế năng động và hiệu quả để năng lượng
được đảm bảo cung cấp ngày càng đầy đủ với giá cả hợp lý, đảm bảo đủ năng
lượng cho công cuộc đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
2.2.4. Từ vấn đề lương thực
An ninh lương thực quốc gia được hiểu là sự đảm bảo mỗi quốc gia về
nguồn cung cấp lương thực cho người dân để hạn chế và đẩy lùi tình trạng thiếu
lương thực, nạn đói và tình trạng phụ thuộc vào lương thực nhập khẩu. Theo FAO,
an ninh lương thực là mọi người có quyền tiếp cận với lương thực, các thực phẩm
một cách an toàn, bổ dưỡng, đầy đủ mọi lúc, mọi nơi để duy trì cuộc sống khỏe
mạnh và năng động.
17



Việt Nam là một nước nông nghiệp, với hơn 70% dân số là nông dân, lao
động nông nghiệp chiếm hơn 76% lao động của cả nước, đóng góp từ 25% -27%
GDP của cả nước…vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nơng dân có tầm quan trọng
đặc biệt.
Ở một nước nơng nghiệp như Việt Nam, an ninh lương thực được coi là mục
tiêu hàng đầu. Kể từ khi Việt Nam tiến hành công cuộc cải cách nền kinh tế, nhờ
việc phát triển đúng hướng các ngành kinh tế, trong đó đẩy mạnh phát triển nông
nghiệp và sản xuất lương thực, thực phẩm với mục tiêu đẩy lùi nạn đói nghèo,
mưu sinh bền vững và nâng cao mức sống cho người dân. An ninh lương thực và
mưu sinh bền vững quốc gia đã được thiết lập và đạt được nhiều thành tựu. Vấn đề
đói nghèo. Tuy có sự phát triển, nhưng tỷ lệ nghèo đói của Việt Nam vẫn cịn cao,
đặc biệt là đồng bào ở các tỉnh miền núi. Năm 2012, tỷ lệ hộ nghèo ở Tây Bắc là
28,55%; vùng miền núi Đông Bắc là 17,39%; ở Tây Nguyên là 15,58%; ở các tỉnh
Bắc Trung Bộ là 15,01%, trong khi tỷ lệ hộ nghèo chung của cả nước là 9,64%. Hệ
thống cung cấp và tiếp cận các dịch vụ cơ bản như giáo dục, y tế, thơng tin truyền
thơng… cịn nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là ở vùng sâu,
vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Chất lượng nguồn nhân lực vùng đồng bào dân
tộc, miền núi còn thấp. Vấn đề suy dinh dưỡng. Trong khi Việt Nam khơng cịn là
quốc gia có nạn đói tràn lan, thặng dư sản xuất lúa gạo ngày càng tăng thì an ninh
dinh dưỡng, đảm bảo an tồn, chất lượng lương thực tiêu dùng của người dân chưa
được đảm bảo. Việt Nam vẫn đối mặt với “nạn đói tiềm ẩn”, người dân hàng ngày
vẫn đối mặt với tình trạng thiếu vitamin A, mất cân bằng dinh dưỡng. Gần 1/3 trẻ
em nơng thơn cịi cọc, có chiều cao rất thấp so với lứa tuổi. Tỷ lệ trẻ em suy dinh
dưỡng và bà mẹ ni con bú thiếu chất cịn cao. Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng khá phổ
biến, không chỉ ở vùng sâu, vùng xa, vùng nghèo và khó khăn mà ngay cả các
vùng sản xuất lương thực lớn nhất nước như đồng bằng sông Cửu Long. Nguyên
nhân cơ bản là thiếu sự chăm sóc y tế và chế độ ăn uống không đảm bảo cân bằng
về dinh dưỡng.


18


2.2.5. Từ tội phạm công nghệ cao
Tội phạm công nghệ cao là khái niệm mới xuất hiện trong thời gian gần đây,
nhằm chỉ các loại tội phạm trong lĩnh vực công nghệ cao, sử dụng các phương tiện
kỹ thuật công nghệ cao để phá hủy, tấn công, đe dọa nguy hiểm đối với ANQG, tổ
chức và cá nhân. Nó được tiến hành trong một môi trường phạm tội mới, bên cạnh
các môi trường phạm tội truyền thống khác. Môi trường phạm tội của tội phạm
công nghệ cao là môi trường trên mạng máy tính - khơng gian điều khiển. Tội
phạm này khác hẳn các tội phạm truyền thống với đặc điểm chính là khó nhận biết
đích danh. Đó là loại tội phạm mới, có đặc thù riêng, rất khó phát hiện và xử lý
dấu vết, chứng cứ.
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của cơng nghệ thơng tin mà cốt lõi là kĩ
thuật máy tính, mạng máy tính ngày càng đóng vai trị quan trọng trong đời sống
chính trị, kinh tế, văn hoá và cuộc sống con người... Một khi mạng máy tính bị tiến
cơng và bị phá hủy, sẽ gây hậu quả khủng khiếp, hoạt động của các cơ sở quân sự,
chính trị, kinh tế bị ngưng trệ, xã hội rối loạn; sức chiến đấu của quân đội sẽ giảm
đi nhanh chóng, thậm chí là bị tê liệt, đặc biệt là đối với quân đội của các nước quá
phụ thuộc vào mạng.
Ở Việt Nam, tội phạm công nghệ cao là loại tội phạm mới xuất hiện những
năm gần đây, nhưng lại có sự gia tăng ngày càng nhanh cả ở số lượng và tính chất
nguy hiểm. Phần đơng đối tượng phạm tội loại tội phạm này là người nước ngồi,
một số vụ cịn có sự tham gia của nhiều đối tượng trong nước. Lúc đầu đối tượng
phạm tội ở Việt Nam chỉ là một số ít người nước ngồi hoặc Việt kiều nhưng thời
gian gần đây thì người Việt Nam phạm tội cũng nhiều, phần lớn là trẻ tuổi, có hiểu
biết sâu về cơng nghệ thơng tin nhưng lại khơng đem những kiến thức có được để
làm những việc có ích mà lại sử dụng làm phương tiện phạm tội.
Tội phạm công nghệ cao xuất hiện ở Việt Nam cùng với q trình phát triển

cơng nghệ thơng tin. Từ năm 2001 đến nay, hệ thống máy tính phát triển mạnh mẽ,
loại tội phạm cơng nghệ cao cũng có sự phát triển. Tình hình mất an tồn thơng tin
số diễn biến phức tạp, xuất hiện nhiều nguy cơ đe dọa nghiêm trọng đến việc ứng
dụng công nghệ thông tin phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc
19


phịng, an ninh. Xu hướng tội phạm cơng nghệ cao ở Việt Nam chuyển dần từ phá
hoại sang trục lợi một cách tinh vi. Việt Nam đứng thứ 5 thế giới về mức độ rủi ro
khi người dân dùng mạng tin học.
2.2.6. Từ tội phạm xuyên quốc gia
Những năm gần đây, tình hình tội phạm xuyên quốc gia trên thế giới diễn
biến phức tạp. Các hình thức tội phạm xuyên quốc gia tăng nhanh chóng, đặc biệt
là bn bán ma túy và các loại tội phạm mang lại lợi nhuận cao như hoạt động
bn bán vũ khí, bn người, rửa tiền, tội phạm kinh tế quốc tế và tội phạm cơng
nghệ cao... Khi thương mại tồn cầu tăng nhanh, luồng hàng hóa phi pháp tăng
lên. Các hoạt động kinh doanh phi pháp của tội phạm xun quốc gia mang tính
tồn cầu hóa, ngày càng mở rộng địa bàn, tận dụng ưu thế của các thị trường;
những dịch vụ phi pháp cho hoạt động tội phạm xuyên quốc gia như: cung cấp
giấy tờ giả mạo, cung cấp dịch vụ tài chính, kế toán và pháp luật cũng phát triển.
Tội phạm xuyên quốc gia khai thác triệt để việc giảm bớt các quy định quốc tế,
kiểm soát biên giới và việc khuyến khích tự do để mở rộng phạm vi hoạt động; câu
kết với nhau ngày càng chặt chẽ hơn, tận dụng điểm mạnh, hạn chế điểm yếu của
mỗi tổ chức, phân chia các hoạt động, giảm thiểu nguy cơ bị phát hiện.
Sau khi là thành viên WTO và hội nhập ngày càng sâu rộng, Việt Nam có
nhiều yếu tố, điều kiện thuận lợi bảo đảm ANQG, nhưng các cá nhân và tổ chức
tội phạm quốc tế lợi dụng xu thế hội nhập, hợp tác của Việt Nam tiến hành các
hoạt động tội phạm ngay trên lãnh thổ Việt Nam hoặc lợi dụng lãnh thổ Việt Nam
làm địa bàn trung gian. Tội phạm trong nước tăng cường móc nối với tội phạm ở
nước ngồi tiến hành phạm tội. Những năm qua, tình hình tội phạm xuyên quốc

gia liên quan đến Việt Nam có xu hướng tăng dần về cả số vụ, việc lẫn tính chất,
mức độ nghiêm trọng, đặc biệt là những hoạt động của các băng nhóm tội phạm có
tổ chức mang tính xuyên quốc gia.
Trong các loại tội phạm xuyên quốc gia ở Việt Nam, đáng chú ý: Một là, tội
phạm bn bán phụ nữ, trẻ em ra nước ngồi, sử dụng hộ chiếu giả để đưa phụ nữ
và trẻ em ra nước ngoài hoạt động mại dâm, bán làm vợ người nước ngồi, bóc lột
sức lao động... tập trung một số nước, vùng lãnh thổ, như Nga, Trung Quốc, Hồng
20


Kông, Hàn Quốc, Đài Loan, Campuchia, Malaixia... Hai là, tội phạm đưa người ra
nước ngoài trái phép. Trong những năm tới, tình hình tội phạm có tổ chức, tội
phạm xun quốc gia ở Việt Nam sẽ diễn biến phức tạp. Các đối tượng phạm tội
thường tập trung vào các lĩnh vực mà Việt Nam còn thiếu nhiều kinh nghiệm quản
lý, cũng như đấu tranh phòng, chống, với những thủ đoạn hết sức tinh vi. Ngày
càng xuất hiện nhiều trường hợp Việt kiều hoặc người nước ngoài đến Việt Nam
đầu tư kinh doanh, nhưng thực chất là lừa đảo chiếm đoạt tài sản của cá nhân
người Việt Nam và của Nhà nước. Tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia đang là
một thách thức lớn trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.
3. Những thành tựu về bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam trước mối đe dọa
an ninh phi truyền thống từ năm 2001 đến nay
3.1. Nhận thức và ý thức trách nhiệm đối với nhiệm vụ bảo vệ độc lập dân tộc,
bảo vệ Tổ quốc trước các mối đe dọa an ninh phi truyền thống ngày càng
được nâng cao, đầy đủ và rõ ràng
Một trong những thành tựu nổi bật là Đảng, Nhà nước Việt Nam đã triển
khai thực hiện nhiều chủ trương, giải pháp hữu hiệu để làm cho nhận thức và trách
nhiệm bảo vệ Tổ quốc XHCN nói chung, bảo vệ ĐLDT trước các mối đe dọa
ANPTT nói riêng của mọi tầng lớp nhân dân và cả hệ thống chính trị khơng ngừng
được nâng cao. Ý thức bảo vệ ĐLDT trước các mối đe dọa ANPTT, ý thức bảo vệ
Tổ quốc của mọi tầng lớp nhân dân đã nâng cao được một bước quan trọng.

Nhận thức và ý thức trách nhiệm đối với nhiệm vụ bảo vệ ĐLDT, bảo vệ Tổ
quốc trước mối đe dọa ANPTT thể hiện ở việc đã thực hiện quán triệt đầy đủ và
giáo dục sâu rộng mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc theo tinh thần Đại hội IX, X
và XI của Đảng Cộng sản Việt Nam cho toàn xã hội, đặc biệt là cho cán bộ, đảng
viên. Đã tổ chức nghiên cứu, tuyên truyền, trao đổi thông tin về các mối đe dọa
ANPTT và yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ ĐLDT trước mối đe dọa này một cách
thường xuyên.
Thực tế từ 2001 đến nay, Việt Nam đã kết hợp khá nhuần nhuyễn yêu cầu
bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ với yêu cầu bảo vệ chế độ XHCN,
bảo vệ Đảng, giữ vững môi trường quốc tế thuận lợi để xây dựng và phát triển đất
21


nước. Việt Nam ln kiên trì chủ trương đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong ứng phó
với mối đe doạ ANPTT trên ngun tắc tơn trọng lẫn nhau, cùng có lợi. Đồng thời,
đấu tranh với những biểu hiện lợi dụng việc hợp tác ứng phó với mối đe doạ
ANPTT xâm hại độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia dân tộc, góp phần giữ vững
hịa bình, an ninh khu vực và thế giới, tạo mơi trường hịa bình, ổn định cho phát
triển đất nước.
Quan điểm quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam: “Sự ổn định và phát
triển bền vững mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội là nền tảng vững chắc của quốc
phòng - an ninh” được quán triệt ngày càng sâu sắc đối với tất cả các chủ thể, cả
hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân trong ứng phó với mối đe doạ ANPTT.
Trên cơ sở đó, việc phát triển bền vững, bảo đảm an sinh xã hội, cơng bằng xã hội,
xóa đói giảm nghèo, phát triển văn hóa, y tế, giáo dục, khoa học công nghệ, chăm
lo đời sống vật chất, tinh thần và sức khỏe của nhân dân, tăng cường quốc phòng
và an ninh... là những vấn đề cơ bản nhằm tạo nền gốc vững chắc cho việc đối phó
với các mối đe dọa ANPTT, để bảo vệ ĐLDT, ngày càng được quan tâm thực hiện
tốt. Sự nghiệp đổi mới đất nước gần ba mươi năm qua đã đạt được những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo điều kiện vững chắc cho Việt Nam bảo vệ ĐLDT

trước các mối đe dọa ANPTT.
3.2. Độc lập dân tộc, chủ quyền và an ninh quốc gia, lợi ích dân tộc trước mối
đe doạ an ninh phi truyền thống được giữ vững và bảo đảm
Đây là một trong những thành tựu cơ bản, nổi bật, khẳng định các mục tiêu,
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc XHCN, các nội dung bảo vệ ĐLDT trước các mối đe
dọa ANPTT được thực hiện tốt trong thực tiễn. Suốt 15 năm qua, Độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, ĐLDT và định hướng XHCN của Việt Nam
được giữ vững; mơi trường ổn định, hồ bình và an ninh cho sự phát triển được
đảm bảo; Việt Nam đã làm thất bại nhiều âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế
lực thù địch, góp phần quan trọng vào quá trình đổi mới đất nước, nâng cao vị thế
và uy tín trên trường quốc tế.
Đại hội X của Đảng năm 2006 đánh giá: “Chính trị - xã hội ổn định. Quốc
phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng
22


nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia tăng lên rất nhiều”. Những thành tựu
về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc được Đại hội XI của Đảng năm 2011
nhận định rõ thêm: “Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ xã
hội chủ nghĩa, an ninh chính trị, trật tự, an tồn xã hội được giữ vững. Thế trận
quốc phịng tồn dân và thế trận an ninh nhân dân được củng cố; tiềm lực quốc
phòng, an ninh được tăng cường, nhất là trên các địa bàn chiến lược, xung yếu,
phức tạp”.
Thành tựu nổi bật này là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố, cả khách quan
và chủ quan, trong đó có việc thực hiện những chủ trương, biện pháp bảo vệ
ĐLDT trước các mối đe dọa ANPTT. Mặc dù cịn có những khó khăn, hạn chế
nhất định, thậm chí cịn có nhiều phức tạp, nhưng thành tựu nêu trên như Đảng
Cộng sản Việt Nam đánh giá, là đáng ghi nhận, thực sự có ý nghĩa, cùng với
những thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội, tạo cho Việt Nam một diện mạo
mới, vị thế mới, tư thế mới trong đời sống quốc tế.

Đặt trong bối cảnh hơn 15 năm qua, ĐLDT của Việt Nam luôn bị thách
thức, bị đe dọa và uy hiếp từ nhiều phía, trong đó có sự tác động mạnh mẽ của các
mối đe dọa ANPTT và sự lợi dụng vấn đề này để chống phá Việt Nam, mới thấy
được ý nghĩa và giá trị thực sự của những thành tựu mà Việt Nam đạt được. Từ
năm 2001 đến nay, Tổ quốc Việt Nam XHCN luôn được bảo vệ vững chắc; chính
trị - xã hội ổn định, quốc phịng, an ninh được củng cố. Điều đó đã khách quan tạo
điều kiện thuận lợi căn bản và môi trường hồ bình cho sự nghiệp đổi mới, phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Có được thành tựu trên bởi vì, trong quá trình bảo vệ ĐLDT trước mối đe
dọa ANPTT, Việt Nam đã luôn tuân thủ nghiêm ngặt quan điểm, mục tiêu, nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định; quán triệt sâu sắc
yêu cầu: “Giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội; làm thất bại mọi
âm mưu chống phá của các thế lực thù địch và mọi ý đồ, hành động xâm phạm chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ; không để bị động, bất ngờ”. Việc Việt Nam chủ động
ứng phó với các mối đe dọa ANPTT, phịng chống tội phạm xuyên quốc gia; tội
phạm công nghệ cao; tích cực xóa đói giảm nghèo; phịng chống thiên tai, dịch
23


×