Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Bai du thi 130 nam thanh lap tinh Hoa Binh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.33 KB, 27 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>BÀI DỰ THI: Tìm hiểu 130 năm thành lập tỉnh Hoà Bình (1886 - 2016) Đây chỉ là những câu trả lời mang tính chất gợi ý. Có thể thêm các sự kiện tuỳ ý. Riêng câu 8, mỗi cá nhân hãy tự thể hiện Quách Diệu Nhất - Trường Tiểu học Phú Thành - Lạc Thuỷ - Hoà Bình Câu 1. Bạn hiểu nền " Văn hoá Hoà Bình"như thế nào? Phân biệt sự khác nhau giữa nền " Văn hoá Hoà Bình"với " Văn hoá các dân tộc tỉnh Hoà Bình" . Những giá trị tiêu biểu của V " ăn hoá Mo Mường"đối với người Mường ở tỉnh Hoà Bình là gì? Trả lời "Văn hóa Hòa Bình" "Văn hóa Hòa Bình" thời khởi thủy, được dùng để nói đến nền văn hóa cuội được ghè đẽo trên khắp chu vi hòn cuội để tạo ra những dụng cụ từ thời đá cũ đến thời đá mới. Qua thời gian, tất nhiên cụm từ này đã được đề nghị mang những tên khác nhau và có những ý nghĩa cũng khác nhau. Văn hóa Hoà Bình thuộc thời Đồ đá cũ sang Đồ đá mới (cách ngày nay 15.000 năm, kéo dài đến 2.000 năm trước Công Nguyên). Trên vùng đất xen núi đá vôi, thuộc phía Tây châu thổ ba con sông lớn thuộc Bắc Bộ Việt Nam. Với không gian rộng lớn, Văn hoá Hoà Bình tiêu biểu cho cả vùng Đông Nam Á và Nam Trung Quốc. Tại hội nghị "60 năm sau Hoabinhian" tổ chức tại Hà Nội, các nhà khảo cổ học thống nhất quan điểm về thuật ngữ Văn hóa Hòa Bình được xem như một khái niệm để chỉ một nền văn hóa có cùng một kỹ thuật chế tác mà không xem như là nguồn gốc. " Văn hóa các dân tộc tỉnh Hòa Bình" Văn hóa các dân tộc tỉnh Hòa Bình là một nền văn hoá đa dân tộc, trong đó dân tộc Mường chiếm tỉ lệ khá lớn với hơn 60% dân số. Văn hóa Mường và những nền văn hóa khác đã tập hợp lại và làm nên những nét riêng của văn hóa Hòa Bình. Bản sắc văn hóa Hòa Bình bao gồm: Văn hóa Trống Đồng, văn hóa Cồng Chiêng, các truờng ca, văn hóa ăn, ở, mặc cùng các loại hình văn hóa khác. Cồng chiêng tham gia hầu hết vào mọi sinh hoạt hàng ngày của cộng đồng như hội Sắc bùa, lễ cưới, lễ tang, cuộc đi săn, kéo gỗ, mừng nhà mới, hội xuống đồng, khi thiên tai địch họa. Đặc biệt trong lễ hội mùa Xuân ở Hòa Bình thường có những phường Chiêng, phường Cồng đi chúc Tết các gia đình ( gọi là phường Sắc Bùa ). Trong sinh hoạt dân gian nổi lên lễ xướng trường ca Đẻ đất Đẻ nước vừa diễn tả, giải thích nguồn gốc vũ trụ, con người, muôn loài với quan niệm linh thiêng đầy chất huyền thoại..

<span class='text_page_counter'>(2)</span> Người Mường Hòa Bình thường ở nhà sàn, theo truyền thuyết dân gian gọi là nhà rùa: có 4 mái 3 tầng mô phỏng theo quan niệm vũ trụ dân gian 3 tầng 4 thế giới của người Mường, Cũng chính ở đất Mường tồn tại một loại dịch độc đáo gọi là sao Đoi, trong đó ngày lùi đi một ngày, tháng tiến trước 3 tháng nên thường gọi là lịch ngày lùi tháng tiến. Trong ẩm thực người Mường xưa thường ăn cơm đồ, uống rượu cần. Trang phục phụ nữ Mường đầy độc đáo gợi cảm. Đặc biệt, cạp váy Mường có đường nét hoa văn rất tinh tế được mô tả theo hoa văn trên mặt trống Đồng Đông Sơn. Người Thái Hòa Bình cũng làm nhà sàn như người Mường song nhà sàn Thái rộng hơn, sắp xếp quy củ hơn. Trang phục của người Thái đa dạng và hết sức độc đáo. Trang phục phụ nữ Thái có những hoa văn trang trí mang biểu tượng thiên nhiên đa dạng : chim muông, cây cỏ. mặt trời. Đai thắt lưng và khăn Piêu là những tác phẩm nghệ thuật hoàn hảo. Dân tộc Thái có nhiều lễ hội mang sắc thái riêng: lễ ra lửa. lễ cưới, lễ cơm mới, lễ hội ném còn, múa quạt. Đặc biệt xòe Thái là hấp dẫn nhất. Dân tộc H’Mông Hòa Bình sống trên các đỉnh núi cao. Trang phục của người H’Mông có kết cấu hoa văn khác lạ. Con trai H’Mông có tục “ Bắt vợ ” rất thú vị và là quy ước để nâng cao giá trị người con gái. Người H’Mông là tác giả của tục chơi cù quay, một trò chơi sôi động cuốn hút nhiều người tham dự. Tiếng khèn và những điệu múa khèn mang nhiều sắc thái tình cảm, văn hóa rất độc đáo. Cái khèn kà người bạn tâm tình của người H’Mông, nó đã ăn sâu vào từng phong tục, nếp sống của người H’Mông. Người Dao mỗi khi có cháu bé chào đời thường tổ chức lễ “ Dâng hương cúng Mạ ” để cầu mong cho cháu bé được lơn lên trong sự đùm bọc yêu thương. “Tết nhảy” là một nét độc đáo của người Dao mang sắc thái gia đình. Tết tổ chức ở một vài nhà nhưng được bản coi như tết chung. Tất cả mọi người đều ăn uống, nhảy múa vui vẻ trong 3 ngày liền. Như vậy, có thể thấy "Văn hoá Hoà Bình" được xem như một khái niệm để chỉ một nền văn hóa có cùng một kỹ thuật chế tác mà không xem như là nguồn gốc, là toàn bộ những giá trị về đời sống văn hoá, vật chất của con người trong một giai đoạn lịch sử cụ thể. Còn văn hoá các dân tộc tỉnh Hoà Bình là tập hợp những nét đặc trưng của các nền văn hoá riêng biệt của các dân tộc cùng sinh sống trong địa bàn tỉnh Hoà Bình. Văn hóa các dân tộc tỉnh Hòa Bình là một nền văn hoá đa dân tộc, trong đó dân tộc Mường chiếm tỉ lệ khá lớn với hơn 60% dân số. Văn hóa Mường và những nền văn hóa khác đã tập hợp lại và làm nên những nét riêng của văn hóa Hòa Bình. Bản sắc văn hóa Hòa Bình bao gồm: Văn hóa Trống Đồng, văn hóa Cồng Chiêng, các truờng ca, văn hóa ăn, ở, mặc cùng các loại hình văn hóa khác. Những giá trị tiêu biểu của " Văn hoá Mo Mường"đối với người Mường ở tỉnh Hoà Bình.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> Mo Mường là một hiện tượng văn hóa đặc sắc của người Mường đã được bồi đắp, gìn giữ từ lâu đời. Mo Mường được truyền dạy từ thế hệ này sang thế hệ khác, đồng thời được sáng tạo không ngừng cùng với tiến trình phát triển của dân tộc. Trên thực tế, Mo Mường được coi là di sản văn hóa phi vật thể “đang sống” và là biểu đạt sống do tổ tiên ông cha truyền lại cho con cháu. Mo Mường là một chỉnh thể nguyên hợp bao gồm nhiều thành tố văn hóa: Phong tục tập quán, tín ngưỡng, nghệ thuật âm nhạc, nghệ thuật tạo hình, lối sống, ngôn ngữ, văn chương, diễn xướng … phản ánh đặc trưng riêng mang bản sắc văn hóa của người Mường. Mo Mường, trong quá trình diễn xướng được xem như là một phương tiện giao tiếp và bày tỏ lòng tôn kính đến các lực lượng siêu nhiên; mặt khác Mo Mường phục vụ như một phương tiện để truyền đạt tư tưởng triết lý về thiên nhiên và vũ trụ của người Mường, về tri thức và tập quán xã hội. Toàn bộ phần Mo Sử thi bao gồm 18 câu chuyện là một pho thần thoại phản ánh một cách kỳ diệu nhận thức về vũ trụ, về công cuộc đấu tranh với thiên nhiên, sinh hoạt xã hội và tư duy xã hội của thời cổ sơ. Chuyện Đẻ đất, đẻ trứng Điếng; Chia năm tháng, đẻ pèl, nước lụt nước cạn phản ánh nhận thức của con người về sự ra đời của trời đất trong vũ trụ, quá trình kiến tạo trái đất, quá trình biển tiến, biển lùi trong lịch sử; Chuyện Đẻ Tá Cài, Đẻ Tá Cần phản ánh sự phát triển của xã hội loài người, về mối quan hệ giữa con người với con người đấu tranh để bước đầu manh nha hình thành xã hội có giai cấp; Chuyện Xin lửa kể về sự phát minh ra lửa; Chuyện Đẻ bát, sanh, ninh, đẻ dầu đèn, đẻ tlống thôm, làm nhà đều là những câu chuyện về những sáng tạo của con người trong quá trình tạo dựng cuộc sống để tồn tại và phát triển. Chuyện Lấy vợ cho Lang Cun Cần và Đẻ Dịt Dàng phản ánh xã hội loài người thời kỳ quần hôn và trải qua những đớn đau của quá trình sàng lọc nòi giống. Chuyện Tìm Chu tìm Lội, kéo cây chu đồng làm nhà kể về quá trình đấu tranh với thiên nhiên để kiến lập cuộc sống tốt đẹp, câu chuyện này cũng phản ánh bài học về sự đoàn kết, về văn hóa tổ chức và lãnh đạo của con người. Chuyện Đốt nhà Dịt Dàng phản ánh mối quan hệ giữa con người với con người trong mối tương quan cộng đồng, giai cấp và bài học về sự vong ơn bội nghĩa sẽ dẫn đến những thất bại khôn lường trong cuộc sống. Chuyện Săn muông cũng là những bài học kinh nghiệm về sự đoàn kết và văn hóa tổ chức lãnh đạo để đấu tranh với thiên nhiên và cuộc sống. Chuyện Vườn hoa núi Cối là câu chuyện tình yêu trong thời kỳ chế độ phong kiến đã bước vào giai đoạn suy vong. Kể về mối tình của hai chàng trai Anh Khói, Anh Hoa đã có gia đình và hai cô gái Nàng Thờm, Nàng Tiên. Câu chuyện đậm màu sắc bi thương của lễ giáo phong kiến dẫn đến kết quả tất cả cùng đau khổ và tình yêu không lối thoát. Phần Mo nghi lễ thể hiện khát vọng chinh phục thiên nhiên gắn với các chuyến đi vào các thế giới trên trời, đó là Mo lên trời gồm 5 chương hồi với 42 trường đoạn, dưới đất hay còn gọi là đi Quốc Nam và mường Chiểng Chạ. Trong Mo Mường phản ánh rõ nét những dấu ấn giai đoạn sớm nhất của xã hội loài người, những chứng tích, những tư liệu giúp chúng ta khai thác, phục.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> hồi lại được diện mạo sinh hoạt, diện mạo xã hội và tư duy xã hội xa xưa. Thông qua sử thi huyền thoại Mo Mường, chúng ta thấy được phương thức cảm nhận thế giới rất đặc trưng; hình thái biểu hiện một cách tập trung và khái quát thế giới quan của người xưa. Các yếu tố tri thức và xúc cảm, lý trí và tín ngưỡng, hiện thực và tưởng tượng,... hòa quyện vào nhau, diễn tả thế giới quan của tộc người Mường thời xa xưa. Mo trong đám tang Mường do ông mo điều khiển. Như vậy Mo có hai bộ phận: Các nghi lễ và lời ca (lễ ca) đều do ông Mo điều khiển. Mo, đứng về lễ ca là một thể loại đặc biệt được cử hành trong đám tang với những giai điệu riêng. Nó không lẫn với các loại như đơm ma (cúng) khấn (khần), lởi, làm vía, cầu mát (khống nhá). Người Mường có quan điểm: sống cho ra kiếp người, chết cho ra kiếp ma và: Chết không thẹn với ma trong đống, sống không xấu hổ với người trần gian. Người Mường cho rằng chết không phải là hết, chết là tiếp tục “sống” ở một cõi, kiếp khác. Người Mường quan niệm người chết thì không còn là con người, nhưng chưa thành ma, chỉ khi có được mo lên trời để chuộc số, tức là đổi số sống sang số chết và xin đuông trở thành một kiếp khác mới thành ma thực sự. Việc làm cho linh hồn người quá cố làm sao phải nghe theo để thực hiện những nghi lễ của tang ma chỉ có thể là ông mo cậy nhờ vào quyền năng của “nổ” mới có thể làm được việc đó. Vì vậy, ông Mo được coi là linh hồn của đám tang ở Mường Bi. Khi được nổ mo đưa lên trời, người chết còn được ngắm nhìn lại đất mường quê hương biết đường đi lối về. Mo còn là để hồn người thăm lại, nhìn nhận lại họ hàng nội ngoại bên ma và “tìm đất ở, làm ăn” chốn bên kia thế giới. Mo còn là để qua lời ông Mo, người quá cố nhắn nhủ lại con cháu anh em ở lại thương yêu nhau, sống với nhau cho thiện, cho đẹp. Một nghi lễ quan trọng để bắt linh hồn nghe theo ông Mo gọi là Lễ đạp ma hay còn gọi là Lễ dậm bước. Lễ đạp ma được tiến hành như sau: Sau khi mo bài mo Thiển Thẳn (Bài mo kể về sức mạnh của ông mo và sức mạnh của túi Khót), ông Mo không dừng lại mà mo tiếp đoạn Mo đạp ma. Hành động đạp như sau: Ông Mo mo đoạn mo trên ở vị trí cạnh chỗ nằm của người quá cố trong tư thế tay phải giữ chiếc gươm vác trên vai, tay trái cầm quạt phe phẩy ngang trên bụng mình, chân đứng như bình thường nhưng ngón chân cái của bàn chân phải đeo một chiếc vòng chuôi dao. Khi chấm dứt đoạn mo trên ông hú một tiếng, gọi tên người quá cố một lần rồi co chân phải lên dậm mạnh xuống sàn nhà rồi lấy gót chân phải làm tâm điểm, xoay bàn chân phải chếch sang khoảng 60º – 70º. Sau Lễ đạp ma thì linh hồn người quá cố tuân thủ theo sự dẫn dắt điều khiển của ông Mo để thụ lễ. Trong mười hai ngày đêm của nghi lễ, mỗi một bữa trưa và bữa chiều của từng ngày đều có lễ dâng ăn uống. Việc mo trong tang lễ thực chất là nhằm thuyết phục, hướng dẫn linh hồn người chết “thực thi” các nghi lễ như vừa kể trên hoàn toàn bằng lời mo. Nếu như mo sai, thì hồn không thể “thực thi” được nghi lễ, như thế sẽ không hoàn tất được các thủ tục, sẽ rơi vào tình trạng luẩn quẩn. Hồn không thể đoạn tuyệt với thế giới người sống mà cũng không thể gia nhập vào thế giới người chết. Người.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> ta sợ trong hoàn cảnh dở dang ấy linh hồn người chết sẽ quay về quấy phá hành tội con cháu trong nhà. Và điểm nổi bật nhất trong nghi thức tang ma người Mường là qua những nghi thức đó, người Mường muốn những thế hệ tiếp nối của cộng đồng vượt qua những tổn thất do một thành viên của cộng đồng đã phải ra đi vĩnh viễn thêm gắn bó với quê hương đất nước và gìn giữ những kỉ cương, tập tục đã giúp cộng đồng trường tồn và phát triển. Mo là thực hiện một nghi thức với người quá cố của người Mường. Riêng ca từ của mo là một hệ thống tác phẩm văn học dân gian mà ở đó có nhiều giá trị: Trí tưởng tượng phong phú của người xưa, vạch ra được lộ trình lên trời, ngôn ngữ Mường trong mo khá cổ mà diễn tả được ý tình rõ ràng, khúc chiết. Tính chất nhân văn của các loại mo thấm đẫm tình người. Lời buồn đau mà không làm con người quỵ xuống. Đặc biệt tính minh triết của mo t’lêu. Đây là bộ sử thi được đưa vào mo. Đó là một thiên sử thi đồ sộ, đầy đủ gần như toàn bộ những gì mà con người cần biết. Lễ nghi với những người quá cố có thể thay đổi, nhưng ca từ mo và nhất là bộ sử thi là một tài sản vô cùng quý giá phải được giữ gìn, phát huy trong cuộc sống ngày hôm nay. Câu 2. Bạn hãy nêu những thay đổi về địa giới hành chính tỉnh Hòa Bình từ năm 1886 đến nay (đơn vị hành chính cấp huyện, cấp tỉnh)? Tên gọi tỉnh Hòa Bình"có nguồn gốc xuất xứ như thế nào? " Trả lời Hòa Bình là một tỉnh miền núi thuộc vùng tây bắc Việt Nam, có vị trí ở phía nam Bắc Bộ, giới hạn ở tọa độ 20°19' - 21°08' vĩ độ Bắc, 104°48' - 105°40' kinh độ Đông, tỉnh lỵ là thành phố Hòa Bình nằm cách trung tâm thủ đô Hà Nội 73 km. Hòa Bình hiện có 1 thành phố và 10 Huyện, Trong đó có với 210 đơn vị hành chính cấp xã, gồm có 11 thị trấn, 8 phường và 191 xã: 1. Tỉnh lỵ: Thành phố Hòa Bình 2. Huyện Lương Sơn, huyện lỵ thị trấn Lương Sơn 3. Huyện Cao Phong, huyện lỵ thị trấn Cao Phong 4. Huyện Đà Bắc, huyện lỵ thị trấn Đà Bắc 5. Huyện Kim Bôi, huyện lỵ thị trấn Bo 6. Huyện Kỳ Sơn, huyện lỵ thị trấn Kỳ Sơn 7. Huyện Lạc Sơn, huyện lỵ thị trấn Vụ Bản 8. Huyện Lạc Thủy, huyện lỵ thị trấn Chi Nê 9. Huyện Mai Châu, huyện lỵ thị trấn Mai Châu.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> 10.Huyện Tân Lạc, huyện lỵ thị trấn Mường Khến 11.Huyện Yên Thủy, huyện lỵ thị trấn Hàng Trạm Tỉnh Hòa Bình được thành lập ngày 22 tháng 6 năm 1886 theo nghị định của Kinh lược Bắc Kỳ với tên gọi là tỉnh Mường, tách phần đất có người Mường cư trú từ các tỉnh Hưng Hóa, Sơn Tây, Hà Nội và Ninh Bình. Tỉnh lỵ đặt tại thị trấn Chợ Bờ (thuộc châu Đà Bắc) nên cũng còn gọi là tỉnh Chợ Bờ, đến tháng 11 năm 1886 chuyển về xã Phương Lâm (thuộc huyện Bất Bạt, phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây lúc bấy giờ). Tháng 4 năm 1888 được đổi tên thành tỉnh Phương Lâm, do Công sứ Pháp cai trị. Ban đầu tỉnh gồm cả Mộc Châu, Yên Châu và Phù Yên Châu (tháng 7 năm 1888, cắt 3 châu này để nhập vào Đạo Quan binh thứ tư, sau này thuộc Sơn La), cùng với vùng có dân tộc Mường thuộc hai châu Thanh Sơn và Yên Lập (tháng 10 năm 1888, cắt 2 châu này về tỉnh Hưng Hóa). Ngày 18 tháng 3 năm 1891 Toàn quyền Đông Dương ra nghị định đổi tên tỉnh Phương Lâm thành tỉnh Hòa Bình với 6 châu: Lương Sơn, Kỳ Sơn, Lạc Sơn, Lạc Thủy, Mai Châu (châu Mai) và Đà Bắc. Trong kháng chiến chống Pháp, Hòa Bình có 4 huyện: Lương Sơn, Kỳ Sơn, Lạc Sơn, Mai Đà, riêng huyện Lạc Thủy vẫn thuộc tỉnh Hà Nam, sau này mới trả về Hòa Bình. Ba huyện của Hòa Bình (Lương Sơn, Kỳ Sơn, Lạc Sơn) thuộc Liên khu 3, trong khi huyện Mai Đà lại thuộc Liên khu Việt Bắc từ tháng 11 năm 1949 cho đến ngày 9 tháng 8 năm 1950 mới trả về Liên khu 3. Ngày 27 tháng 12 năm 1975 tỉnh Hòa Bình hợp nhất với tỉnh Hà Tây thành tỉnh Hà Sơn Bình. Theo Nghị quyết của Quốc hội khóa VIII kỳ họp thứ 9 ngày 12 tháng 8 năm 1991, từ ngày 01/10/1991 tỉnh Hà Sơn Bình tách ra thành 2 tỉnh Hòa Bình và Hà Tây. Khi đó tỉnh có diện tích là 4.697 km², với dân số 670.000 người, gồm thị xã Hòa Bình và 9 huyện: Đà Bắc, Mai Châu,Lương Sơn, Kỳ Sơn, Lạc Sơn, Lạc Thủy, Kim Bôi, Tân Lạc, Yên Thủy. Câu 3. Hiện nay, tỉnh Hòa Bình có bao nhiêu Di tích lịch sử cách mạng, Di tích lịch sử văn hóa, Di tích lịch sử - danh thắng cấp quốc gia và cấp tỉnh? Hãy nêu sơ lược về các di tích lịch sử - danh thắng cấp quốc gia ? Trả lời Di tích lịch sử cách mạng ở Hòa Bình Hoà Bình có 168 di tích các loại, trong đó có 34 di tích lịch sử văn hoá và danh thắng đã được Bộ Văn hoá, Thông tin công nhận di tích cấp Quốc gia; Uỷ ban nhân dân tỉnh xếp hạng 9 di tích cấp tỉnh. Ngoài hệ thống các di tích lịch sử văn hoá, Hoà Bình còn có hàng vạn hiện vật, tài liệu được sưu tầm, bảo quản tại Bảo tàng tỉnh và trưng bày ở một số nhà truyền thống cấp huyện. Trong đó có.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> những sưu tập hiện vật quý giá của gần 100 chiếc trống đồng cổ, sưu tập trang phục các dân tộc Mường, Thái, Dao, Mông... Trong quá trình cách mạng tiến tới tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945, ở tỉnh Hoà Bình đã lần lượt hình thành 4 khu căn cứ địa cách mạng, nằm trong hệ thống chiến khu Hoà – Ninh – Thanh, bao gồm: - Khu căn cứ mường Khói và “Trường Sơn du kích kháng Nhật học hiệu” tại huyện Lạc Sơn. - Khu căn cứ Cao Phong - Thạch Yên ở huyện Kỳ Sơn (cũ) nay thuộc huyện Cao Phong. - Khu căn cứ Tu Lý - Hiền Lương ở huyện Đà Bắc. - Khu căn cứ Mường Diềm ở huyện Đà Bắc. Cùng với hoạt động ở các khu căn cứ là phong trào đấu tranh cách mạng mà dấu ấn còn để lại đến ngày nay, gồm các di tích lịch sử cách mạng. Nhà tù Hoà Bình: Địa danh lịch sử này gắn liền với tên tuổi các chiến sỹ cách mạng như: Lê Đức Thọ, Nguyễn Cơ Thạch, Nguyễn Đức Tâm, Lê Quốc Thân, Nguyễn Văn Hậu....Hoạt động trong Chi bộ nhà tù và các đồng chí Vũ Thơ, Vũ Đình Bản, Phan Lang là cán bộ của Xứ uỷ Bắc Kỳ được cử lên Hoà Bình lãnh đạo, tổ chức phong trào cách mạng ở Hoà Bình. Di tích Nhà tù Hoà Bình hiện nằm ở suối Đúng, cách bờ trái sông Đà 300m, thuộc phường Tân Thịnh, thành phố Hòa Bình.Nhà tù được xây dựng năm 1896 để giam giữ thường phạm. Đến năm 1943, thực dân Pháp chuyển một số tù chính trị từ Nhà tù Sơn La về đây giam giữ. Những năm 1943-1945, phong trào hoạt động cách mạng của Chi bộ Nhà tù do đồng chí Lê Đức Thọ là Bí thư đã có ảnh hưởng sâu sắc đến phong trào cách mạng ở Hoà Bình. Di tích Nhà tù Hoà Bình vừa là nơi ghi dấu tội ác của thực dân, vừa là nhân chứng cho tinh thần đấu tranh bất khuất, kiên cường của các chiến sĩ cách mạng Việt Nam. Di tích Nhà tù Hoà Bình đã được Bộ Văn hoá – Thông tin cấp bằng công nhận là di tích quốc gia. Tượng đài Anh hùng Cù Chính Lan Trong 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, quân và dân Hoà Bình đã có nhiều đóng góp to lớn về sức người, sức của cho cuộc kháng chiến. đã có nhiều tấm gương anh dũng hy sinh và nhiều trận đánh oanh liệt diễn ra dọc theo quốc lộ 6, đường 12, đường 21 và trên sông Đà. Ngày 13 - 12 – 1951 tại dốc Giang Mỗ, xã Bình Thanh, huyện Kỳ Sơn (nay là huyện Cao Phong), đã diễn ra một trận đánh quyết liệt. Trong trận đánh này, Anh Hùng Cù Chính Lan đã nêu một tầm gương chiến đấu dũng cảm làm nức lòng quân dân cả nước - một mình dùng lựu đạn tiêu diệt xe tăng Pháp. Địa điểm trận đánh và xác xe tăng bị anh hùng Cù Chính Lan tiêu diệt đã trở thành di tích lịch sử và được Bộ VH-TT công nhận năm 1993. Nhân dịp kỷ niệm 50.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> năm ngày thành lập QĐND Việt Nam, tương đài Anh hùng Cù Chính Lan đánh xe tăng trên đường số 6 đã được khanh thành đúng nơi diễn ra trận đánh xưa, do hoạ sỹ Mai Chí Tẩu thực hiện. Tượng đài Triệu Phúc Lịch Năm 1947, một trung đội du kích người Dao xã Toàn Sơn do Trung đội trưởng Triệu Phúc Lịch lãnh đạo đã anh dũng chống trả sự tấn công của một đội quân Pháp tại khu vực dốc Tra. Trong trận đánh này, Trung đội trưởng Triệu Phúc Lịch đã anh dũng hy sinh. Tại khu vực diễn ra trận đánh (Dốc Tra, Toàn Sơn, Đà Bắc), Nhà nước đã cho xây dựng tượng đài Triệu Phúc Lịch. Tượng được xây dựng năm 1979, do họa sỹ Nắng Mai thể hiện. Tượng đài có chiều cao hơn 3m, nằm ở sườn đồi bên phải đường lên thị trấn Tu Lý, được Bộ VH-TT công nhận di tích năm 1996. Tượng đài Tây Tiến Đầu năm 1947, đoàn quân Tây Tiến (Trung đoàn 52) được thành lập có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, đánh tiêu hao địch ở thượng Lào để hỗ trợ cho cuộc kháng chiến ở những vùng khác trên đất Lào. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến rất rộng, gồm vùng rừng núi Tây Bắc Việt Nam và Thượng Lào: từ Châu Mai, Châu Mộc, sang tận Sầm Nừa rồi vòng về qua miền tây Thanh Hoá. Những nơi này lúc đó rất hoang vu và hiểm trở, núi cao, sông sâu, rừng rậm, nhiều thú dữ. Sinh hoạt của những người lính Tây Tiến hết sức gian khổ, ốm đau không có thuốc men, tử vong vì sốt rét và trận mạc. Tại một ngọn đồi ở xóm Châu Trang, xã Thượng Cốc, huyện Lạc Sơn ( Nơi đặt Trạm Quân y Trung đoàn), đã có hơn 200 chiến sỹ của đoàn quân Tây Tiến nằm lại trong tiếng cồng thương tiếc của người dân Mường Vang. Năm 1991, huyện uỷ, UBND huyện Lạc Sơn đã xây dựng tượng đài Tây Tiến để tưởng niệm những chiến sỹ trong đoàn quân Tây Tiến đã hy sinh vì tổ quốc. Trên tấm bia đá dựng ở chân tượng đài có khắc đoạn thơ trích từ bài thơ Tây Tiến nổi tiếng của nhà thơ Quang Dũng nói về cái chết bi tráng của những người lính Tây Tiến: “Rải rác biên cương mùa viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Di tích và danh thắng Hòa Bình Bia Lê Lợi: Nguyên trước kia, Bia Lê Lợi ở núi đá bên thác bờ, thuộc xã Hào Tráng huyện Đà Bắc. Khi tiến hành ngăn sông Đà để xây dựng nhà máy thuỷ điện Hòa Bình, toàn bộ khu vực thác Bờ thuộc lòng hồ sông Đà bị ngập nước. Để bảo tồn.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> di tích, Sở VH-TT Hà Sơn Bình đã di chuyển Núi Thơ (Bia Lê Lợi) về bảo quản tại Bảo tàng Hoà Bình. Đền thác Bờ: Trước khi xây đập thuỷ điện Hoà Bình, đền thác Bờ có vị trí ở đoạn ngang giữa của thác Bờ. Nhân dân địa phương đã chuyển đền lên cao, nhường chỗ cho khu vực lòng hồ sông Đà. Ở bên trái sông Đà, đền thác Bờ được dựng lại trên đỉnh đồi hang Thầu, thuộc xã Vầy Nưa, huyện Đà Bác. Ở bên bờ phải sông Đà, đến thác Bờ được dựng lại tại quả đồi thuộc xã Thung Nai, huyện Kỳ Sơn (Nay là huyện Cao Phong). Ngày hội chính của đến thác Bờ là mùng bảy tháng giêng âm lịch hàng năm. Trong đền hiện có 38 pho tượng lớn, nhỏ, trong đó có hai pho tượng đồng. Các pho tượng này hiện đã được sửa chữa, bổ sung, làm mới một phần. Hang Bụt: Hang Bụt nằm ở dãy núi đá vôi thuộc thị trấn Mường Khến, huyện Tân Lạc. Trước kia ở ngã ba Mãn Đức có một ngôi chùa gọi là chùa lim. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, chùa bị phá, nhân dân địa phương đã rước bát hương, tượng phật vào hang để thờ cúng nên hang này được gọi là hang Bụt. Cửa hang cách đường quốc lộ khoảng 200 m. Hang Bụt có ba vòm động, Động phía ngoài thờ Thánh Mẫu, Chúa Thượng Ngàn và Thuỷ Cung Công chúa. Phía dưới bệ thờ có bàn thờ vua Hổ. Động thứ hai nối với vòm động thứ nhất bằng một lối vào khá rộng. Trên đường vàop có một khối nhũ trông giống như một ngôi mộ cổ. Trong vòm động thứ hai này có bàn thờ Phật Thiên Thủ Thiên Nhãn và Phật Quan Âm Bồ Tát. Từ động thứ hai rẽ trái, qua một bức mành đá, rủ từ trên xuống phía dưới, có khối nhũ hình đầu voi phủ phục, vào vòm động thứ ba. Ở ngay giữa nền động thứ ba này là một cây nhũ đá mọc thẳng, cao 2,5m. Phái trong động có bàn thờ đá thờ Cô, thờ Cậu. Trong hang Bụt có vô vàn các khối nhũ rủ xuống, nhô ra thiên hình vạn trạng, gần phía cửa có một lối thông thiên, ánh sáng ngoài trời chiếu vào mờ ảo. Hang Chùa và chùa Hang. Nằm trên trục lộ 436 cách Thành phố Hoà Bình 80km, cách Nho Quan (Ninh Bình) 13 km, ở địa phận thôn Á Đồng, xã Yên Trị, huyện Yên Thuỷ Có một quả núi sừng sững tên là Lăng Tiêu. Nằm trong lòng núi là động Văn Quang và 2 ngôi chùa cổ kính. Từ động Văn Quang bước lên ba bậc đá có một ngôi chùa. Chùa được làm bằng mái gỗ, mái lợp ngói, trên những bước cuốn là đường nét trạm trổ cầu kỳ mang phong cách nghệ thuật thời nguyễn. Phía trước chùa có một bệ thờ bằng đá và xa nữa là một bàn cờ khắc trên phiến đá tự nhiên. Chùa còn có tên chữ là Thanh Lam Tự. Cách chùa này trừng 20 bậc đá là một ngôi chùa khác nằm ấn mình trong vòm hang đá. Chính vì lẽ đó mà cả hai ngôi chùa ở đay còn có tên là chùa hang. Qua cửa chùa sâu vào các hang động là những khối nhũ muôn hình muôn vẻ, những vòm động thông thoáng, càng đi lên cao không khí càng mát lành..

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Lễ hội chùa Hang diễn ra vào tháng giêng. Thắng cảnh Hang chùa đã được bộ văn hoá – Thông tin xếp hạng di tích lịch sử - văn hoá năm 1994. Đền và miếu Trung Báo Đây là khu đền, miếu ở thôn Trung Báo, xã Cao Thắng, huyện Kim Bôi, cách chợ Bến 3 km theo đường 21. Miếu xưa làm bằng gỗ lợp tranh, đến năm Khải Định thứ 2 (1917) được xây dựng lại theo kiến trúc hình chữ Nhất, phía trước có bức đại tự ghi: Bảo Sơn Dục Tú. Trong miếu thờ Tản Viên Sơn Thánh. Đền Trung báo được dựng giữa hai làng, cách miếu chừng 300 m. Đền cũ đã bị phá huỷ trong chiến tranh, nay nhân dân địa phương dựng lại đền mới, tường xây, ba gian lợp ngói. Đền Trung Báo thờ ba vị: Tản Viên Sơn Thánh, Quốc Mẫu, thành hoàng làng. Lễ hội chính tổ chức 3 năm một lần vào thượng tuần tháng giêng. Đền Thượng Từ thành phố Hoà Bình theo quốc lộ 6 đến ngã ba Mãn Đức, rẽ trái theo quốc lộ 436 tới thị trấn Vụ Bản, qua chợ Vụ Bản qua ngược đồi chừng 100 m theo bậc đá là tới đền thượng. Đền thượng có kiến trúc kiểu chữ Đinh, nằm ẩn mình dưới các tán cây cổ thụ thâm nghiêm và yên tĩnh. Nguyên trước kia đền được xây dựng bằng tranh tre nứa lá, đến năm Bảo Đại thứ 6 (1931) được xây dựng bằng gạch ngói. Đền thượng thờ mẫu Thượng Ngàn, thờ Cô, thờ Cậu là một tục thờ tín ngưỡng cổ xưa của người dân trong vùng. Di tích văn hóa – lịch sử Thủy điện Hòa Bình: Nhà máy thủy điện Hòa Bình nằm ở thành phố Hòa Bình, trên dòng sông Đà, tỉnh Hòa Bình. Là công trình thủy điện lớn nhất của Việt Nam do Liên Xô (cũ) giúp xây dựng, công trình được khởi công ngày 06/1/1979. Ngoài ý nghĩa là một công trình công nghiệp quan trọng, nhà máy thuỷ điện Hoà Bình còn là một điểm tham quan du lịch hấp dẫn đối với du khách. Nhiều hạng mục công trình có giá trị như: Tượng đài chủ tịch Hồ Chí Minh uy nghi trên đồi ông Tượng, bằng đá granít cao tới 18 m; nhà truyền thống nơi lưu giữ bức thư thế kỷ gửi thế hệ mai sau; đài tưởng niệm những công dân Việt Nam và chuyên gia Liên Xô hi sinh trên công trình thủy điện, du thuyền lòng hồ thăm đền Thác Bờ. Khu Du lịch Suối Ngọc – Vua Bà Suối Ngọc - Vua Bà là một trong những địa danh du lịch của tỉnh Hòa Bình. Theo đường cao tốc Láng - Hòa Lạc, khu du lịch Suối Ngọc - Vua Bà cách Hà Nội khoảng 40 km, là một quần thể du lịch sinh thái mới ra đời trên diện tích 300 ha. Ở đây có rừng cây xanh gồm mỡ, keo, thông và nhiều cây ăn quả... phủ kín những quả đồi. Theo truyền thuyết, Suối Ngọc - Vua Bà là nơi xưa kia Hai Bà Trưng luyện quân đánh giặc. Động Đá Bạc.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> Động Đá Bạc thuộc xã Liên Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình. Ðộng Ðá Bạc là tác phẩm nghệ thuật tạo hình kỳ lạ của tạo hóa, là sự kết hợp tinh tế giữa điêu khắc và hội họa, giữa tính hoành tráng khỏe khắn với sự duyên dáng thơ mộng. Ðộng Ðá Bạc được phát hiện năm 1990 do sự tình cờ của người dân đi lấy củi. Ban đầu cửa động là một khe nhỏ vừa một người chui vào, sau dân địa phương mở rộng cửa động để dễ bề đi lại. Bước vào trong động theo đường lát gạch khoảng 6m, du khách sẽ đến động Cô Tiên. Ðộng có 2 ngăn. Ngăn ngoài thoáng rộng, vòm trần có nhiều nhũ đá rủ xuống kết thành nhiều dải uốn lượn mềm mại như bức màn nhung. Dưới chân các khối nhũ đá, theo năm tháng, những giọt nước không ngừng nhỏ xuống tạo thành hai bể nước thiên tạo đầy ăm ắp. Phía sau bể nước là hệ thống các ruộng bậc thang được đá uốn lượn, đẽo gọt chạm khắc kỳ phu tạo nên những bức chạm nổi thiên nhiên sinh động. Ngăn trong nhỏ nhắn, kín đáo và thanh thoát như buồng ngủ. Những dải đá rỗng phía trong thanh mảnh mềm mại buông xuống như tấm ri đô. Chỉ chừng đó thôi cũng khiến ta bất chợt thấy mình gần gũi với đá, với thiên nhiên. Khi ta gõ vào những dải đá mỏng rỗng ấy như vang lên tiếng cồng, tiếng chiêng, tiếng trống đồng, tiếng đàn tơ rưng. Vào mùa mưa, ban công mênh mông nước. Nhũ từ vòm trần rủ xuống, các cột đá từ nền "ban công" mọc lên như các tòa lâu đài cổ nguy nga dưới thủy cung. Các cột trụ đều được chạm khắc công phu. Mỗi vòm, mỗi cung nhỏ là một tác phẩm nghệ thuật kỳ lạ làm du khách không khỏi ngỡ ngàng... Ðộng Long Tiên thông ra cửa phụ có ánh sáng ban ngày hắt vào dịu mát như ánh đèn nê-ông, hoặc chập chờn như ánh trăng hư ảo. Động Thác Bờ Động Thác Bờ có cửa hang cao, rộng, hang sâu, nhiều tầng, thạch nhũ muôn hình lung linh soi bóng nước, có âm sắc của đàn đá, dàn cồng chiêng Mường tạo vẻ đẹp hiếm có. Đặc biệt động toạ lạc ven hồ sông Đà kỳ vĩ, gắn với quần thể di tích đền Bờ thờ Bà Chúa thượng ngàn có công giúp vua Lê Lợi dẹp phản loạn, từ lâu đã thu hút du khách thập phương đến bái vọng và thưởng ngoạn. Động Thác Bờ được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích danh thắng quốc gia. Khu du lịch nước khoáng Kim Bôi Khu du lịch suối khoáng Kim Bôi mở cửa chính thức vào ngày 5-111975, nằm trên địa phận thuộc xóm Mới Đá - xã Hạ Bì - huyện Kim Bôi - tỉnh Hoà Bình, cách thủ đô Hà Nội 75 km (theo tuyến đường Hà Nội - Hà Đông - Ba La - Xuân Mai - Lương Sơn - Bãi Lạng - Bãi Chạo - Kim Bôi). Khu du lịch Suối khoáng Kim Bôi độc đáo hấp dẫn bởi nguồn nước khoáng từ ngàn xưa trong vắt, không mùi, vô khuẩn, khi vừa lộ thiên nhiệt độ 34 - 36 0C, thành phần chính là Bicacbonat Sunphat Canxi - Magie, thuộc loại nước khoáng giải khát chữa bệnh.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> có lợi cho sức khoẻ con người. Nước khoáng Kim Bôi nằm sâu trong lòng đá tự phun lên chảy vào các bể tắm lớn có mái che, dung tích mỗi bể 300 m3. Lễ hội truyền thống Quần thể Di tích Chùa Tiên - Phú Lão. Quần thể di tích Chùa Tiên - Phú Lão phía Đông và phía Bắc giáp xã Hương Sơn và An Phú - huyện Mỹ Đức (Hà Nội), phía Tây và Tây Bắc giáp xã Hưng Thi và xã Phú Thành, phía Nam giáp xã Cố Nghĩa, phía Đông giáp xã Ba Sao, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, nằm trên phần phía Bắc huyện Lạc Thủy. Lễ Mụ Thố của người Mường Lễ vía mụ Thố là một lễ nghi chỉ được tổ chức cho người già lúc ốm đau bệnh tật. Gia đình sợ vía của người già đi xa mất, mọi người tổ chức làm vía cho người già để cầu mong sức khoẻ. Lễ cơm mới của người Mường Lễ cơm mới được tiến hành sau khi thu hoạch vụ mùa tháng 10 âm lịch tại xã Mường Bi, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình. Lễ vật là bánh chưng và cá để cúng vía lúa. Cũng trong lễ cơm mới này, người Mường cúng giỗ cha mẹ, ông bà. Hội chùa Kè Hội diễn ra vào ngày 16/2 âm lịch tại xã Phú Vinh, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình nhằm suy tôn Đá (tàn dư tín ngưỡng vạn vật hữu linh đã được Phật hóa). Trong ngày hội, mọi người tổ chức vui chơi với các trò như ném còn, đánh quay, thi bắn cung. Hội Cầu Phúc Hội được tổ chức vào tháng 8 âm lịch ở huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình. Đây là hội cầu phúc của người Thái Mai Châu. Các nhà đều sắm cỗ cúng bày ở miếu thờ chung theo nguyên tắc: Năm trước cúng gà, năm sau cúng lợn. Đến.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> chiều, mỗi nhà mổ 2 con gà để cúng Thổ công (để trong nhà) và cúng Thổ địa (đặt ngoài ruộng. Câu 4. Hãy nêu những đóng góp, thành tích tiêu biểu của nhân dân các dân tộc tỉnh Hoà Bình trong khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8/1945 và trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ? Nêu khái quát một số trận đánh tiêu biểu của quân dân tỉnh Hòa Bình trong thời kỳ này? Trả lời Hòa Bình nằm trên con đường thực dân Pháp áp giải các đoàn tù chính trị từ Hà Nội lên Sơn La. Phố Phương Lâm, Chợ Bờ, Suối Rút... nằm trên trục đường số 6 là những điểm dừng chân của các đoàn tù chính trị. Từ những năm 1930-1931, nhiều đoàn tù chính trị đã bị giải qua đây. Khi Chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ, thực dân Pháp khủng bố phong trào cách mạng, số tù chính trị bị đầy lên Sơn La qua đây càng nhiều. Mặc dù bị giám sát chặt chẽ, trên đường đi và tại điểm dừng chân, các chiến sĩ cách mạng vẫn tìm mọi cách, mọi cơ hội để tiếp xúc với nhân dân, tuyên truyền đường lối cách mạng của Đảng. Nhân dân cũng từng được chứng kiến các cuộc đấu tranh của tù chính trị phản đối hành động đàn áp, ngược đãi tù nhân của bọn thực dân, binh lính đi áp giải. Trong những ngày cuối tháng 7 đầu tháng 8-1945, khí thế cách mạng trong toàn tỉnh sôi sục cao độ. Một số nơi lực lượng cách mạng đã có những hoạt động công khai mạnh mẽ. Tự vệ Nật Sơn, có lực lượng từ Mỹ Đức vào hỗ trợ, đã tổ chức một cuộc đấu tranh tuần hành trên địa bàn xã để biểu dương lực lượng. Ngay tại thị xã Hòa Bình, quần chúng cũng sôi nổi chuẩn bị lương thực, thực phẩm, may cờ, băng chuẩn bị để đón quân khởi nghĩa từ các khu căn cứ tiến về. Tại một số khu phố, quần chúng hoạt động hầu như công khai. Nhân nước sông Đà lên to tràn cả vào phố, Mặt trận Việt Minh đã tổ chức đột nhập kho lương thực của Nhật tại phố Đúng lấy được hàng tấn thực phẩm chia cho nhân dân... Hòa Bình là một trong số ít tỉnh bên cạnh lực lượng bán vũ trang đã xây dựng thành công lực lượng vũ trang tập trung cùng với xây dựng các khu căn cứ cách mạng. Mặc dù sự rèn luyện tập dượt trong thực tế chiến đấu giáp mặt với kẻ thù còn bị hạn chế, song lực lượng vũ trang, bán vũ trang cách mạng địa phương được xây dựng trên cơ sở lực lượng chính trị vững mạnh, được chú ý huấn luyện và trang bị nên đã giữ vững vị trí là lực lượng quan trọng có vai trò xung kích trong cuộc vùng dậy dùng bạo lực cách mạng giành chính quyền khi thời cơ đến. Đầu tháng 8-1945, cục diện Chiến tranh thế giới lần thứ II đã bước vào thời điểm quyết định với sự sụp đổ hoàn toàn của chủ nghĩa phát xít. Ở châu Âu, phát xít Ý, phát xít Đức đã bị tiêu diệt. Sau khi tấn công vào hang ổ, tiêu diệt phát xít Đức (5-1945), ngày 9-8-1945, Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật. Chỉ trong tuần lễ đầu tiên, Hồng quân Liên Xô anh hùng đã tiêu diệt hoàn toàn đội quân Quan Đông tinh nhuệ nhất của phát xít Nhật..

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Trước nguy cơ thất bại không thể nào tránh khỏi, từ ngày 12-8-1945, Chính phủ Nhật đã phải tính đến việc đầu hàng và ngày 18-8-1945 chính thức công bố đầu hàng quân Đồng minh vô điều kiện. Thắng lợi của Hồng quân Liên Xô có ý nghĩa quyết định dẫn đến sự đầu hàng của phát xít Nhật, tạo thời cơ cho nhân dân ta cũng như các thuộc địa của Nhật ở Đông Nam Á đứng lên giành độc lập dân tộc. Tin phát xít Nhật đầu hàng làm cho tinh thần binh lính sĩ quan Nhật sa sút nghiêm trọng. Chính quyền bù nhìn thân Nhật từ chóp bu đến cơ sở hoang mang rệu rã đến cực độ. Ngược lại, cán bộ quần chúng vô cùng phấn khởi, sẵn sàng chờ lệnh nhất tề vùng lên lật đổ chính quyền tay sai phát xít. Thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền đã chín muồi. Đêm ngày 13-8-1945, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc ra Quân lệnh số một truyền lệnh tổng khởi nghĩa trên phạm vi cả nước. Đại hội quốc dân quyết định thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng tức Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Trong khi đó, được tin phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh, chiều 15-81945, Xứ ủy Bắc kỳ khẩn cấp họp hội nghị tại Vạn Phúc, một cơ sở thuộc ATK của Xứ ủy ở Hà Đông. Mặc dù chưa nhận được lệnh tổng khởi nghĩa của Trung ương, nhưng căn cứ vào tinh thần chỉ đạo của Đảng thể hiện trong chỉ thị ngày 12-3-1945, Xứ ủy Bắc kỳ đã quyết định tiến hành khởi nghĩa ở một số nơi có điều kiện chắc thắng. Tiếp đó, đêm ngày 17-8-1945, Xứ ủy Bắc kỳ lại họp và quyết định khởi nghĩa trong toàn xứ. Ngày 18-8-1945, lệnh khởi nghĩa của Xứ ủy được truyền tới Hòa Bình giữa lúc cán bộ và quần chúng trong tỉnh đang sôi sục chuẩn bị hành động. Ngay ngày hôm đó, đồng chí Vũ Thơ, Trưởng ban chỉ huy khởi nghĩa đã kịp thời phát lệnh khởi nghĩa, giao nhiệm vụ cụ thể cho từng khu căn cứ, chi bộ thị xã và các cơ sở mạng trong toàn tỉnh. Thực hiện phương án đã dự kiến là tập trung lãnh đạo khởi nghĩa ở một điểm chắc thắng rồi từ đó tiến lên giành chính quyền ở tỉnh lị và các châu khác, Ban chỉ huy khởi nghĩa quyết định trước hết đánh chiếm châu Lạc Sơn. Việc huy động lực lượng từ khu căn cứ cách mạng Mường Khói, vận động nhân dân thị trấn Vụ Bản và các làng xóm chung quanh được tiến hành khá khẩn trương. Đồng thời với việc chuẩn bị gấp rút giành chính quyền châu Lạc Sơn, Ban chỉ huy khởi nghĩa cấp tốc giao nhiệm vụ cho chi bộ, Mặt trận Việt Minh thị xã Hòa Bình kịp thời lãnh đạo nhân dân giành chính quyền châu Kỳ Sơn (đóng tại Phương Lâm nay là Ủy ban nhân dân tỉnh), chuẩn bị phối hợp với lực lượng từ các khu căn cứ cách mạng tiến về giành chính quyền tỉnh. Lực lượng ở chiến khu cách mạng Cao Phong - Thạch Yên có nhiệm vụ phối hợp cùng lực lượng cách mạng từ Lạc Sơn tiến lên giành chính quyền ở tỉnh lị. Đối với Mai Đà, Ban.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> chỉ huy khởi nghĩa ra lệnh ngoài nhiệm vụ khởi nghĩa giành chính quyền địa phương phải huy động một bộ phận lực lượng vũ trang từ các khu căn cứ cách mạng bí mật về mai phục tại phía tây bắc thị xã sẵn sàng phối hợp và hỗ trợ cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền tỉnh. Lệnh khởi nghĩa truyền đi tới đâu là ở đấy cán bộ và quần chúng phấn khởi, khẩn trương hành động. Khắp núi rừng trong tỉnh dấy lên một khí thế cách mạng sục sôi chưa từng có. Theo đúng kế hoạch đã định, ngày 20-8-1945, đơn vị vũ trang tập trung, tự vệ chiến đấu và hàng trăm quần chúng từ khu căn cứ cách mạng Mường Khói rầm rộ tiến ra Vụ Bản. Nhân dân thị trấn Vụ Bản, nhân dân các xóm xã khu vực xung quanh thị trấn vũ trang bằng nỏ, dao, gậy... biểu tình phối hợp cùng lực lượng của khu căn cứ cách mạng Mường Khói tiến hành chiếm châu lị Lạc Sơn. Viên tri châu Quách Hàm trước đó đã quan hệ thiện cảm với Việt Minh, lại nhận được lệnh của Ban chỉ huy khởi nghĩa phải đầu hàng nên đã chuẩn bị sẵn sổ sách, dấu ấn để giao nộp cho quân khởi nghĩa. Đồn trưởng và toàn bộ lính bảo an ở đồn Vụ Bản đóng gần châu đường không dám chống lại quân khởi nghĩa, xin đầu hàng và giao nộp toàn bộ vũ khí gồm trên 50 khẩu súng, nhiều đạn dược cho quân cách mạng. Do vậy, việc giành chính quyền châu Lạc Sơn diễn ra thuận lợi, nhanh gọn. Chiều 20-8-1945, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức tại sân châu đường. Đồng chí Trương Đình Dần, đại diện Ban chỉ huy khởi nghĩa tuyên bố xóa bỏ chính quyền bù nhìn tay sai phát xít, thành lập chính quyền cách mạng, hô hào nhân dân đoàn kết ủng hộ Mặt trận Việt Minh, ủng hộ chính quyền nhân dân, tiếp tục tiến lên giành chính quyền tỉnh. Thắng lợi tại châu Lạc Sơn, nơi phất cờ khởi nghĩa đầu tiên ở Hòa Bình có sức cổ vũ mạnh mẽ cán bộ, quần chúng phấn khởi tiếp tục tiến lên giành thắng lợi lớn hơn, quyết định hơn nhằm mục tiêu giành chính quyền tỉnh. Sáng 21-8-1945, đoàn quân khởi nghĩa gồm hàng trăm người từ Vụ Bản rầm rập theo đường 12A hướng về thị xã. Đến Mãn Đức, đoàn khởi nghĩa tạm dừng lại trú quân. Tại đây, quân khởi nghĩa đã bắt giữ một ô tô của giặc Nhật từ Nho Quan (Ninh Bình) chạy qua. Sáng 22-8-1945, đoàn quân khởi nghĩa lại tiếp tục lên đường. Trong khi đó, đơn vị vũ trang và lực lượng tự vệ chiến đấu từ khu căn cứ Thạch Yên - Cao Phong cũng rầm rộ vũ trang biểu tình tiến ra đường 12A. Hai cánh quân gặp nhau tại Phố Bằng (Cao Phong, Kỳ Sơn) hợp lại thành một lực lượng hùng hậu cùng hăng hái tiến bước. Đoàn biểu tình vũ trang khởi nghĩa đi đến đâu, nhân dân các dân tộc ở các xóm làng dọc đường 12A nô nức vũ trang gia nhập. Đoàn biểu tình vũ trang khởi nghĩa càng đi càng được tăng cường thêm lực lượng lên tới hàng ngàn người, đội ngũ chỉnh tề kéo dài hàng.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> cây số, cờ đỏ sao vàng phấp phới với một rừng gươm, giáo, nỏ xen lẫn hỏa mai, súng kíp, súng trường, với những nhịp chân rung chuyển núi rừng. Theo đường 12A tiến ra thị xã, vượt qua dốc Cun là chặng đường trở ngại nhất, vì giặc Nhật có một đại đội chốt giữ đoạn đường hiểm trở, cửa ngõ ra vào thị xã ở hướng này. Phát xít Nhật đã bại trận, lính Nhật hoang mang, suy sụp tinh thần, song với bản chất ngoan cố, hiếu chiến, chúng không dễ dàng từ bỏ địa vị thống trị. Đơn vị Nhật đóng tại Cun đang chuẩn bị lực lượng và có khả năng chặn đánh đoàn quân khởi nghĩa. Chiều 22-8-1945, đoàn quân khởi nghĩa tạm dừng tại đồn điền Đốc Thịnh thuộc xã Cao Phong, chờ giải quyết khó khăn khi vượt qua dốc Cun. Tại thị xã Hòa Bình, tin Nhật đầu hàng truyền đến, tiếp đó, tin tức khởi nghĩa thắng lợi từ các tỉnh, Hà Nội dội tới làm cho bọn phát xít và chính quyền bù nhìn vô cùng hoang mang dao động. Tên quan năm chỉ huy Nhật bãi bỏ lễ chào cờ hàng ngày theo thường lệ, ra lệnh thu súng của lính bảo an đưa về kho để đề phòng bất trắc, đề phòng rơi vào tay Việt Minh. Ngót 1.000 binh lính Nhật đóng ở trên 15 vị trí trong và quanh thị xã đều tỏ ra ngao ngán không còn tinh thần chiến đấu. Bộ máy chính quyền bù nhìn rã rời chỉ còn trừ một số ít tên lừng chừng nghe ngóng còn hầu hết có thiện cảm với cách mạng. Ngay tên phó chỉ huy bảo an trước đây vẫn ôm chân Nhật nay cũng muốn tìm cách liên lạc với Việt Minh. Anh em Binh lính cứu quốc, Công chức cứu quốc công khai tuyên truyền vận động công chức, binh lính ngả theo cách mạng. Các tầng lớp nhân dân đều náo nức mong chờ ngày hội đổi đời. Ngày 19-8-1945, chi bộ thị xã tiếp nhận được lệnh của ban chỉ huy khởi nghĩa tỉnh. Tối ngày 19-8-1945, chi bộ triệu tập Hội nghị cán bộ, họp tại nhà một đảng viên ở phố Đồng Nhân. Hội nghị cử ra Ban chỉ huy khởi nghĩa, bàn kế hoạch phát động nhân dân bên phía phải sông Đà vũ trang giành chính quyền châu Kỳ Sơn, chuẩn bị lực lượng phương tiện đón và phối hợp với quân khởi nghĩa từ các căn cứ tiến về. Bên phía bờ trái sông Đà tiến hành khởi nghĩa ở một số xã, đẩy mạnh vận động nắm công chức, binh lính làm lực lượng nội ứng bên trong phối hợp cùng lực lượng từ căn cứ về giành chính quyền tỉnh. Trong 3 ngày, từ 19 đến 21-8-1945, thị xã Hòa Bình, cả hai khu vực bên bờ phải và bờ trái sông Đà, cả các phố và các xóm xã xung quanh sôi sục không khí chuẩn bị khởi nghĩa. Cán bộ, quần chúng cứu quốc công khai phổ biến kế hoạch khởi nghĩa trong nhân dân, hướng dẫn nhân dân chuẩn bị vũ khí, băng, cờ đón chờ ngày nổi dậy. Tự vệ chiến đấu, tự vệ cứu quốc cắt dây điện thoại, tổ chức tuần tra, canh gác các khu phố, các xóm làng. Tổ tự vệ khu phố Phương Lâm đã đột nhập kho vũ khí của giặc Nhật tại phố An Hòa lấy được 27 khẩu súng, có cả trung liên và nhiều đạn dược. Ban chỉ huy khởi nghĩa chỉ đạo chặt.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> chẽ việc theo dõi sát sao thái độ và hành động của bọn chỉ huy Nhật, bọn đầu sở bù nhìn châu, tỉnh. Để tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc biểu tình giành chính quyền của nhân dân, đại diện Ban chỉ huy khởi nghĩa thị xã đã trực tiếp gặp chỉ huy quân đội Nhật yêu cầu họ không can thiệp vào công cuộc giành chính quyền của nhân dân. Viên chỉ huy quân đội Nhật chấp thuận, hứa không gây khó khăn, trở ngại, sẽ cấm không cho binh lính ra khỏi doanh trại. Sau đó các đồng chí cùng tự vệ cứu quốc đến gặp chánh hội đồng thị xã, tri châu Kỳ Sơn, yêu cầu họ phải đầu hàng cách mạng, nếu chống lại sẽ bị trừng trị. Họ đều ngoan ngoãn chấp thuận. Kẻ thù hầu như tê liệt. Ở nhiều phố, xóm, tổ chức Việt Minh công khai đứng ra điều hành mọi công việc. Sáng 22-8-1945, đông đảo nhân dân thị xã, vũ trang thô sơ, nòng cốt là tự vệ cứu quốc xông thẳng vào trụ sở của bọn hội đồng thị xã. Trước sức mạnh của quần chúng cách mạng, bọn chúng phải đầu hàng, giao nộp đồng triện, bằng sắc và tài liệu sổ sách... cho quân cách mạng. Đông đảo nhân dân vô cùng phấn khởi, từ các ngả đường phố và các xóm làng xung quanh vũ trang tập trung tại chợ Phương Lâm tham dự cuộc mít tinh mừng khởi nghĩa thị xã thắng lợi. Đại diện Ban chỉ huy khởi nghĩa tuyên bố: Chính quyền tay sai Nhật đã bị đập tan, từ nay chính quyền thị xã thuộc về nhân dân và thành lập Ủy ban cách mạng lâm thời thị xã Hòa Bình. Sau đó, cuộc mít tinh biến thành cuộc biểu tình vũ trang tiến lên chiếm châu đường Kỳ Sơn. Tự vệ chiến đấu, tự vệ cứu quốc nai nịt gọn gàng, vũ khí trong tay, đội ngũ chỉnh tề dẫn đầu hàng trăm quần chúng nối theo kết thành một khối rầm rập tiến vào châu đường. Tri châu cùng nha lại, binh lính đã xếp hàng đón quân khởi nghĩa, giao nộp 30 khẩu súng trường, toàn bộ sổ sách giấy tờ cho Ban chỉ huy khởi nghĩa, xin cách mạng khoan hồng. Trong niềm vui vô hạn của quần chúng trước thắng lợi, một đại diện Mặt trận Việt Minh thị xã tuyên bố: Từ nay chính quyền châu Kỳ Sơn hoàn toàn thuộc về nhân dân các dân tộc và đề cử Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời châu gồm một số ủy viên là hội viên cứu quốc và cử một nhân sĩ người Mường67 làm Chủ tịch thực hiện chính sách Mặt trận đoàn kết rộng rãi của cách mạng. Chiều 22-8-1945, nhân dân phấn khởi, sôi nổi tiếp tục chuẩn bị giành chính quyền tỉnh. Bên bờ phải sông Đà, hàng nghìn quần chúng có tự vệ chiến đấu, tự vệ cứu quốc làm nòng cốt, vũ trang bằng đủ thứ vũ khí thô sơ, sẵn sàng trong tư thế chiến đấu đề phòng sự phản ứng của phát xít Nhật và giành chính quyền bù nhìn đầu tỉnh ở phía tả ngạn tấn công sang. Lực lượng chiến đấu được bố trí áp sát bờ sông, từ đồi ông Tượng qua phố Trang Nghiêm đến Sủ Bến..

<span class='text_page_counter'>(18)</span> Hàng trăm quần chúng chuẩn bị trên 20 chiếc thuyền để phục vụ việc đưa mũi tiến quân chính vượt sông Đà sang chiếm tỉnh lị vào những ngày sau. Ngay hôm sau 24-8-1945, theo sự chỉ đạo của Ủy ban quân sự cách mạng, một cuộc mít tinh lớn lại được tổ chức tại chợ Phương Lâm. Một đại diện Ủy ban quân sự cách mạng72 lên công nhận Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời của thị xã Hòa Bình, châu Kỳ Sơn và các xã xung quanh được thành lập trong mấy ngày qua. Tại châu Mai Đà, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền do đồng chí Bình Huấn - Ủy viên Ban cán sự tỉnh chỉ đạo. Sau khi nhận được lệnh khởi nghĩa của Ban chỉ huy khởi nghĩa tỉnh, kế hoạch hành động được triển khai: Lực lượng chiến đấu tại khu căn cứ Tu Lý - Hiền Lương được chia làm hai bộ phận. Một bộ phận phối hợp cùng lực lượng của khu căn cứ Diềm tiến đánh Chợ Bờ, giành chính quyền châu rồi tiến lên giành chính quyền các thị trấn Suối Rút, Phố Vãng. Một bộ phận do đồng chí Bình Huấn trực tiếp chỉ huy về thị xã hỗ trợ cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền tỉnh. Sau khi thống nhất kế hoạch cả hai bộ phận đều khẩn trương hành động. Lạc Thủy thời gian này vẫn thuộc tỉnh Hà Nam, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở đây do Đảng bộ Hà Nam chỉ đạo. Ngày 22-8-1945, lệnh khởi nghĩa được truyền tới Lạc Thủy. Ngay chiều hôm đó, Mặt trận Việt Minh châu triệu tập cuộc họp cán bộ cơ sở Việt Minh trong châu tại Khoan Dụ để bàn kế hoạch khởi nghĩa. Hội nghị quyết định vận động đông đảo nhân dân vũ trang biểu tình giành chính quyền châu theo kế hoạch phối hợp lực lượng từ 3 hướng: Một lực lượng từ Yên Đội, Yên Bồng tiến lên, một lực lượng từ Khoan Dụ tiến sang và một lực lượng tại thị trấn Chi Nê cùng các xóm xã lân cận. Những đóng góp, thành tích tiêu biêu của nhân dân các dân tộc tỉnh Hoà Bình trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và đế quốc Mỹ. Từ tháng 3-1951, Hòa Bình được Liên khu ủy giao nhiệm vụ góp phần chuẩn bị phục vụ chiến dịch Quang Trung (Hà - Nam - Ninh). Với tinh thần trách nhiệm của hậu phương đối với tiền tuyến, Tỉnh ủy đã chỉ đạo các ngành, các địa phương một mặt vẫn bảo đảm các mặt công tác xây dựng, bảo vệ địa phương, một mặt phải huy động cao độ sức người,sức của để hoàn thành nhiệm vụ do Liên khu ủy đã giao. Vận động nhân dân đóng góp lương thực thực phẩm, vận chuyển và bảo quản lương thực, vũ khí từ các nơi khác về Hòa Bình, sẵn sàng chuyển ra mặt trận khi có lệnh của cấp trên, chuẩn bị lực lượng dân công đi phục vụ chiến trường... Chỉ trong tháng đầu tiên, toàn tỉnh đã huy động được 451.605 ngày công, trong đó riêng Đoàn thanh niên cứu quốc tỉnh lập một đội dân công thanh niên gồm 100 đoàn viên. Dân công ngày đêm sửa chữa cầu đường trên tuyến đường 12, xây dựng hàng chục kho tàng lán trại. Hai huyện Kỳ Sơn và Mai Đà làm được 310 cái bè, chuẩn bị 40 chiếc thuyền... Bộ đội, công an làm nhiệm vụ bảo vệ kho tàng, đường giao thông vận chuyển, phòng chống địch phá hoại v.v...

<span class='text_page_counter'>(19)</span> Cuối tháng 5-1951, Liên khu ủy III giao cho Đảng bộ, quân dân Hòa Bình nhiệm vụ phục vụ chiến trường. Ngày 11-5-1951, Thường vụ Tỉnh ủy đã họp với đại diện một số ban ngành, đoàn thể như Ty Tài chính, Ban Tuyên truyền, Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh bàn kế hoạch động viên, tổ chức quân dân địa phương đóng góp sức người sức của cho chiến dịch. Trong 2-5 và 6-1951, toàn tỉnh đã huy động trên 30 vạn lượt dân công, đóng góp 120m3 gỗ, 6.500 cây bương, 120.000m dây song... để sửa chữa đường sá, làm cầu phà, bè mảng bảo đảm bộ đội hành quân; dân công vận chuyển tiếp tế, tải thương, làm nhà kho, trạm đón tiếp cứu chữa thương binh v.v.. Nhân dân trong tỉnh còn ủng hộ, bán hàng chục tấn gạo, nhiều trâu bò, gia súc gia cầm khác. Với tinh thần nỗ lực, khắc phục khó khăn rất cao, Đảng bộ, quân dân Hòa Bình góp phần tích cực chuẩn bị một bước cho kế hoạch đông xuân 1953-1954 ở hướng Tây Bắc. Tháng 11-1953, bộ đội chủ lực bắt đầu tiến quân lên Tây Bắc, giải phóng Lai Châu, uy hiếp Thượng Lào. Đồng thời trên các hướng khác, quân dân ta cũng đẩy mạnh tiến công và giành thắng lợi lớn buộc thực dân Pháp phải bị động đối phó ở nhiều nơi. Trên hướng Tây Bắc, Nava đổ quân tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Bộ Chính trị quyết định đập tan tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của địch ở Đông Dương này. Đầu tháng 12-1953, công tác chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu với tinh thần “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”. Hòa Bình là địa bàn tiếp nhận, tập kết nguồn chi viện sức của, sức người từ đồng bằng Liên khu III, Liên khu IV rồi từ đây tổ chức vận chuyển qua Sơn La lên mặt trận. Vì vậy, công tác phục vụ chiến trường càng khẩn trương và khối lượng công việc ngày càng nhiều. Nhưng địch cũng ngày càng tăng cường uy hiếp, phá hoại, quấy rối Hòa Bình, đặc biệt là dùng máy bay bắn phá ác liệt các tuyến đường giao thông vận tải nhằn gây mất ổn định hậu phương, chặt đứt con đường vận chuyển của ta lên chiến trường Tây Bắc - Điện Biên Phủ. Ngày 13-3-1954, bộ đội ta bắt đầu nổ súng tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Yêu cầu phục vụ mặt trận lúc này càng khẩn trương, khối lượng công việc ngày một nhiều, một lớn. 56 ngày đêm bộ đội ta chiến đấu đầy gian khổ hy sinh, giành thắng lợi giòn giã tại Điện Biên Phủ cũng là những ngày Đảng bộ, quân dân Hòa Bình phát huy cao độ tinh thần vượt khó khăn gian khổ và cũng không ít hy sinh bảo đảm giao thông vận chuyển thông suốt trong mọi tình hướng, đóng góp sức người sức của mức cao nhất cho chiến thắng ngoài mặt trận. Trong chiến cuộc đông xuân 1953-1954, các đơn vị bộ đội tỉnh, huyện, các đơn vị thanh niên xung phong, hàng nghìn dân công ngày đêm bám đường, bám cầu phà dưới bom đạn giặc bảo đảm giao thông liên tục. Hàng vạn dân công, thanh niên xung phong và cả bộ đội vận chuyển hàng trăm tấn lương thực, thực phẩm, súng đạn ra tiền tuyến, đón và chăm sóc hàng trăm thương binh từ mặt trận trở về... Phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, toàn tỉnh đã huy động 381.292 lượt dân công, 905 xe đạp thồ, vận chuyển 4.900 tấn hàng từ Hòa Bình lên Yên Mao, 170.000 người ở.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> hậu phương xay giã 545 tấn thóc cho bộ đội. Cùng với sức người, nhân dân các dân tộc trong tỉnh cung cấp cho mặt trận 39.517kg bò, 1.840m3 gỗ, hàng vạn tre, bương... Ngày 7-5-1954, giặc Pháp ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đầu hàng. Thắng lợi to lớn vang dội của quân dân ta tại Điện Biên Phủ là đòn quyết định đập tan kế hoạch Nava. Thắng lợi đó cổ vũ mạnh mẽ quân dân ta thừa thắng xốc tới, đẩy thực dân Pháp lâm vào thế thất bại không gì cứu vãn nổi trên chiến trường Đông Dương. Là hậu phương trực tiếp của chiến trường Điện Biên Phủ, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Hòa Bình vô cùng phấn khởi, lại hăng hái bắt tay vào nhiệm vụ phục vụ giúp bộ đội sau chiến thắng; săn sóc, giúp đỡ thương bệnh binh vận chuyển chiến lợi phẩm, canh giữ bảo vệ tù, hàng binh v.v. Câu 5. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về thăm và làm việc tại tỉnh Hòa Bình mấy lần? Thời gian, địa điểm, nội dung chủ yếu của các lần Bác về thăm tỉnh). Trả lời Chủ Tịch Hồ Chí Minh người cha già của dân tộc. Người luôn luôn quan tâm đến đồng bào các dân tộc thiểu số Việt Nam. Đối với nhân dân các dân tộc Hòa Bình, Người đã dành thời gian đến thăm và khích lệ nhân dân tỉnh nhà nhiều lần. Ngay từ khi cách mạng còn đang trong thời kỳ trứng nước, Bác đã đến Đầm Đa–Lạc Thủy vào một ngày tháng 2/1946. Nhà máy in tiền đầu tiên của chính quyền cách mạng Việt Nam (1946 – 1947) được Chính phủ, Bộ Tài chính và Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn đặt tại Đồn điền Chi Nê nay thuộc địa bàn xã Cố Nghĩa - huyện Lạc Thủy – tỉnh Hòa Bình. Tại đây, những “tờ bạc tài chính Cụ Hồ” đầu tiên mang sứ mệnh lịch sử lớn lao trong những ngày đầu độc lập của chính quyền cách mạng đã ra đời, đây là nơi lưu giữ những dấu ấn lịch sử đầu tiên trong những năm tháng đầy khó khăn của chính quyền cách mạng nói chung và của Bộ Tài chính nói riêng. Khu di tích này được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích cấp quốc gia theo quyết định số 03/2007/QĐ-BVHTTDL ngày 27/8/2007. Đồn điền Đỗ Đình Thiện còn là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh nghỉ chân khi Người đi công tác ở tỉnh Thanh Hóa tháng 2-1947. Ba giờ sáng ngày 21-21947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở lại đồn điền Đỗ Đình Thiện. Sáng ngày 212-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng đồng chí Nguyễn Lương Bằng thăm Xưởng in tiền, thăm chợ Đầm Đa, thăm một số gia đình tại xóm Đồng Thung, xã Cố Nghĩa. Thăm chợ Đầm Đa, Người nhắc nhở Ủy ban hành chính Phú Lão: “Phải rời ngay đến nơi kín đáo đề phòng máy bay giặc bắn phá”. Thăm một số gia đình đồng bào Mường tại xã Cố Nghĩa, Người động viên bà con: “Cố gắng tăng gia sản xuất làm ra nhiều ngô, lúa để ăn và ủng hộ kháng chiến”.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> Với vị trí chiến lược, đồn điền Chi Nê đã hai lần vinh dự được đón Bác Hồ về thăm, làm việc và nghỉ lại. Trong chuyến thăm Lạc Thủy, Bác căn dặn: “Mình vào đây mới biết cơ sở cũng lớn và làm ăn quy củ, cũng lạ là địch nó chưa ném bom, và nó sẽ ném bom.”, “Đây là nhà in của ta, các chú giữ gìn cẩn thận, phải thi đua nhau làm việc để in được nhiểu tiền cho cả nước tiêu dùng vào công cuộc kháng chiến cứu quốc. Cán bộ và công nhân trong nhà máy phải đoàn kết thương yêu, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, phải hết sức chú ý bảo quản và tiết kiệm tiền bạc của nhân dân.” Chính tại nơi đây, tờ bạc 100 đồng Việt Nam, còn được gọi là tờ bạc “con trâu xanh” ra đời. Ngày 19-10-1958, Bác Hồ về thăm Hòa Bình, đây là một vinh dự lớn đối với nhân dân các dân tộc trong tỉnh. Bác dành thời gian lên thăm và nói chuyện gần hai tiếng đồng hồ với cán bộ và nhân dân các dân tộc Hòa Bình tại trường hợp tác hóa nông nghiệp Kỳ Sơn. Bác biết, Hòa Bình là một tỉnh miền núi thuần nông, tập quán canh tác còn lạc hậu vì vậy năng suất lúa, cây trồng rất thấp. Tại đây, Bác đã dành phần lớn thời gian nói về phát triển nông nghiệp. Bác căn dặn cán bộ, Đảng viên phải học văn hóa, khoa học kỹ thuật để làm tốt vai trò đầu tầu trong sản xuất. Cũng tại đây, Bác đã chỉ ra những tư tưởng hữu khuynh, ngại khó ngại khổ của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Bác nói: “Cán bộ là người lãnh đạo, hướng dẫn nhân dân làm theo đường lối của Đảng và Chính phủ. Nếu cán bộ không chịu khó rèn luyện và học tập, bị tụt lùi thì dân sẽ không tin. Do vậy, người cán bộ phải thường xuyên học tập văn hóa,chính trị, nghiệp vụ mới làm tốt được”. Bác lo lắng cho hàng chục triệu bà con nông dân nghèo khổ đã một lòng theo Đảng làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến trường kỳ nay vẫn chưa được no đủ. Trước thềm đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III Bác dành thời gian về lại Lạc Thủy. Đứng trên nền nhà của kho bạc trong kháng chiến năm xưa, Bác nói với cán bộ, công nhân nông trường, nông dân Lạc Thủy rằng: “Các cô, các chú phải đoàn kết xây dựng đơn vị trở thành nông trường nông nghiệp điển hình. Phải đẩy mạnh tăng gia sản xuất hơn nữa để nông dân ngày một no đủ, hạnh phúc”. Mấy năm sau, đến ngày 17/8/1962 Bác lại về thăm Hòa Bình. Trước gần một ngàn cán bộ, đảng viên, học sinh của trường thanh niên lao động XHCN Hòa Bình ở bến Mỵ - Yên Mông. Bác nhấn mạnh mục đích của nhà trường là: “Dạy cho thanh niên vừa học tập, vừa lao động để trở về phục vụ nông thôn, phục vụ hợp tác xã. Do vậy phải học những nghề,những ngành có quan hệ đến phát triển sản xuất nông nghiệp - đến nông thôn. Cần gì thì học nấy”. Trước lúc ra về Bác đã ghi vào sổ vàng truyền thống của nhà trường mấy dòng ngắn gọn nhưng mang tính định hướng rất quan trọng cho một mô hình đào tạo thế hệ trẻ đầu tiên ở Việt Nam:“Phải: Học tập tốt, lao động tốt Cố gắng mãi, tiến bộ mãi”.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> Trong khi cuộc kháng chiến của quân dân Miền Nam đang bước vào giai đoạn ác liệt. Miền Bắc XHCN chuẩn bị phải đối đầu với cuộc leo thang của đế quốc Mỹ. Tuy bận trăm ngàn công việc của đất nước nhưng Bác vẫn dành thời gian ngắn ngủi đến với nhân dân các dân tộc Hòa Bình. Đúng ngày 19/8/1964 Bác về thăm Huyện ủy Kim Bôi. Chính tại cuộc gặp lần này Bác rất băn khoăn khi biết rằng đời sống nông dân Kim Bôi cũng như nông dân nhiều nơi trong tỉnh còn rất khó khăn, nhiều nhà không có cơm ăn phải ăn củ rừng cho qua bữa nhưng sản xuất nông nghiệp lại độc canh, lãng phí đất đai. Bác đã chỉ ra rằng:“Kim Bôi có nhiều tiềm năng trong nông nghiệp, phải làm thế nào để đưa năng suất lên cao. Ba, bốn trăm mẫu ruộng một vụ phải trồng thêm màu. Có như vậy mới khắc phục được nạn thiếu lương thực. Kim Bôi cần phải tích cực trồng thêm cây công nghiệp như cây Sở. Bác thấy đất Kim Bôi thích hợp với cây Sở nên phải trồng nhiều hơn nữa. Ngoài ra phải trồng thêm Đỗ, Lạc, Đậu tương để cải thiện đời sống. Nhân dân Kim Bôi phải đủ ăn và dành một phần chi viện cho tiền tuyến”. Những lần Bác về thăm Hòa Bình còn khắc sâu trong trí nhớ biết bao người. Những lời Bác căn dặn cán bộ, Đảng viên, nhân dân các dân tộc Hòa Bình vẫn còn giá trị. Những nơi Bác đến thăm và nói chuyện tuy không có tượng đài lưu niệm nhưng hình ảnh Bác, lời nói của Người mãi mãi khắc ghi trong lòng nhân dân Hòa Bình. Câu 6. Tính đến năm 2016, tỉnh Hoà Bình đã có bao nhiêu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, có bao nhiêu cá nhân và tập thể Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng lao động được Nhà nước phong tặng (hoặc truy tặng)? Hãy giới thiệu về một tập thể hoặc cá nhân Anh hùng mà bạn tâm đắc nhất. Trả lời Đến nay, tỉnh ta vinh dự có 179 bà mẹ đã được Đảng, Nhà nước phong tặng, truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” (65 bà mẹ được phong tặng, truy tặng danh hiệu theo Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng” ngày 29/8/1994 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; 48 bà mẹ được phong tặng, truy tặng đợt 1 ngày 25/9/2014). Trong đợt II năm 2014, tỉnh ta có 66 bà mẹ được Chủ tịch nước phong tặng và truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng”, có 5 mẹ được phong tặng và 61 mẹ được phong tặng, truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng”. Đảng và Nhà nước đã phong tặng cho Đảng bộ, quân và dân các dân tộc tỉnh Hòa Bình danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân; 61 tập thể và 10 cá nhân.

<span class='text_page_counter'>(23)</span> được tặng và truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân và Anh hùng lao động. Anh hùng mà cá nhân tôi tâm đắc Đó là Anh hùng Bùi Văn Nê sinh năm 1947, dân tộc Mường, quê ở xã Hưng Thị, huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình, nhập ngũ tháng 9 năm 1965. Khi hy sinh, đồng chí là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 7 bộ binh trung đoàn 3 sư đoàn 5 Bộ chỉ huy Miền. Anh hùng Bùi Văn Nê đã tham gia chiến đấu ở chiến trường Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Tây Bắc Cam-pu-chia. Trưởng thành từ chiến sĩ lên cán bộ tiểu đoàn, ở cương vị nào đồng chí cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Bùi Văn Nê đã trực tiếp đánh 45 trận, trận nào cũng bình tĩnh, mưu trí, dũng cảm linh hoạt, chỉ huy đơn vị diệt hàng ngàn tên địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh. Riêng Bùi Văn Nê diệt 105 tên, bắt sống 15 tên, phá huỷ 3 xe quân sự (có 1 xe tăng), bắn rơi 1 máy bay, thu 8 súng. Trận phục kích đoàn xe địch trên đường 14 (đoạn Bàu Na - Phước Long) tháng 1 năm 1969, Bùi Văn Nê là đại đội phó, chỉ huy một mũi tiến công. Mặc cho máy bay, đại bác địch đánh phá ác liệt, đồng chí dũng cảm dẫn đầu và động viên đơn vị xông lên chia cẳt đội hình địch để thực hiện đánh tiêu diệt. Trận này, đơn vị Bùi Văn Nê diệt hàng chục xe chở đầy lính. Riêng Bùi Văn Nê diệt 1 xe tăng và 20 tên địch. Trận tập kích tiểu đoàn dù ở bến đò Na Hoa, tỉnh Long Khánh ngày 19 tháng 5 năm 1969, Bùi Văn Nê chỉ huy trung đội đánh thọc sâu, khi nổ súng, trước hỏa lực địch bắn rất mạnh, đồng chí dẫn trung đội đánh thẳng vào giữa đội hình địch, làm chúng rối loạn không yểm trợ được cho nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị diệt gọn tiểu đoàn dù địch. Riêng đồng chí diệt 10 tên. Tháng 4 năm 1970, Bùi Văn Nê là trợ lý tác chiến của trung đoàn, xuống nắm tình hình một đại đội. Vừa tới đơn vị thì 1 đại đội Mỹ phản kích vào vị trí đóng quân. Đồng chí nhanh chóng cùng một mũi đánh tạt sườn đội hình quân địch. Sau 15 phút chiến đấu quyết liệt, đơn vị diệt, gọn đại đội lính Mỹ. Riêng đồng chí diệt 25 tên. Có lần Bùi Văn Nê dìu 2 thương binh về phía sau, gặp máy bay địch bắn phá, đồng chí dũng cảm bắn trả, hạ tại chỗ 1 máy bay lên thẳng, bảo vệ thương binh an toàn. Trận đánh chi khu Lộc Ninh ngày 5 tháng 4 năm 1972, mặc cho bom đạn địch đánh phá, chặn hựớng tiến công của ta, Bùi Văn Nê dẫn đầu đơn vị vượt qua sân bay, đánh thẳng vào sở chỉ huy chiến đoàn 9, phối hợp chặt chẽ với đơn vị bạn diệt gọn chiến đoàn này. Đồng chí bị trúng đạn và hy sinh trong tư thế của người chỉ huy anh dũng. Khi còn sống, Bùi Văn Nê luôn chăm lo xây dựng đơn vị về mọi mặt, hết lòng thương yêu đồng đội..

<span class='text_page_counter'>(24)</span> Đồng chí được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, 3 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 2 lần được tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua, 5 lần được tặng danh hiệu Dũng sĩ. Ngày 20 tháng 12 năm 1973, Bùi Văn Nê được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang giải phóng. Câu 7. Từ năm 1945 đến nay, Đảng bộ tỉnh Hòa Bình đã tổ chức bao nhiêu kỳ đại hội, các kỳ đại hội diễn ra vào ngày, tháng, năm nào? Nêu mục tiêu tổng quát, nhiệm vụ trọng tâm của Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2015-2020? Trả lời Đại hội I: Họp từ ngày 21- 25/5/1948 tại xóm Lập, xã Hạ Bì, huyện Lương Sơn (nay thuộc huyện Kim Bôi). Dự Đại hội có 120 đại biểu đại diện cho 333 đảng viên trong toàn tỉnh. Đại hội bầu BCH gồm 11 UV chính thức, 2 UV dự khuyết. BCH bầu 3 đồng chí UV Thường vụ. Đồng chí Đào An Thái được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy. Đại hội II: Họp từ ngày 10 - 12/4/1951 tại xóm Đồng Lốc, xã Nật Sơn (cũ), huyện Lương Sơn (nay thuộc xã Sơn Thuỷ, huyện Kim Bôi). Dự Đại hội có 125 đại biểu đại diện cho hơn 2.000 đảng viên toàn tỉnh. Đại hội bầu 13 đồng chí UV BCH chính thức và 4 UV dự khuyết. BTV có 5 đồng chí. Đồng chí Lê Đạm được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy. Đại hội III: Họp tại phố Đúng, thị xã Hòa Bình từ ngày 19 - 25/11/1959. Dự Đại hội có 139 đại biểu thay mặt cho hơn 5.000 đảng viên toàn tỉnh. Đại hội bầu BCH gồm 23 UV chính thức và 5 đồng chí UV dự khuyết. BTV có 7 đồng chí. Đồng chí Lê Đạm được đại hội tín nhiệm bầu lại làm Bí thư Tỉnh ủy. Đại hội IV: Họp từ ngày 20 - 30/1/1961 tại phường Đồng Tiến, thị xã Hòa Bình. Dự Đại hội có 205 đại biểu thay mặt cho 5.179 đảng viên toàn tỉnh. Đại hội bầu BCH mới gồm 21 UV chính thức và 6 UV dự khuyết. BTV có 7 đồng chí. Đồng chí Lê Đạm được bầu lại làm Bí thư Tỉnh uỷ. Đại hội V: Họp từ ngày 24/5 - 1/6/ 1963 tại phường Phương Lâm, thị xã Hòa Bình. Dự Đại hội có 227 đại biểu thay mặt cho 7.952 đảng viên toàn tỉnh. Đại hội đã bầu BCH gồm 25 UV chính thức và 5 UV dự khuyết. BTV có 7 đồng chí. Đồng chí Bùi Văn Kín được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ..

<span class='text_page_counter'>(25)</span> Đại hội VI: Họp từ ngày 12 - 15/3/ 1970 tại phường Chăm Mát, thị xã Hòa Bình. Dự Đại hội có 260 đại biểu thay mặt cho 15.600 đảng viên toàn tỉnh. Đại hội bầu BCH gồm 27 đồng chí UV chính thức và 3 UV dự khuyết. BTV có 9 đồng chí. Đồng chí Bùi Văn Kín được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy. Đại hội VII: Họp từ ngày 21-30/4/ 1977 tại thị xã Hà Đông. Dự Đại hội có 597 đại biểu. Đại hội đã bầu BCH gồm 36 đồng chí UV chính thức và 2 đồng chí UV dự khuyết. BTV có 12 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Hữu Thụ được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ tỉnh Hà Sơn Bình. Đại hội VIII: Họp từ ngày 7 - 12/10/1979 tại thị xã Hà Đông. Dự đại hội có 411/419 đại biểu. Đại hội đã bầu BCH gồm 40 UV chính thức và 4 UV dự khuyết. BTV Tỉnh uỷ có 11 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Hữu Thụ được bầu lại làm Bí thư Tỉnh uỷ tỉnh Hà Sơn Bình. Đại hội IX (vòng 2): Họp từ ngày 14 - 19/1/1983 tại thị xã Hà Đông. Dự Đại hội có 433 đại biểu. Đại hội đã bầu BCH gồm 41 UV chính thức, đồng thời bầu bổ sung đồng chí Trịnh Tiến Hòa và bầu thêm 3 UV dự khuyết. BTV có 13 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Đình Sở được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ tỉnh Hà Sơn Bình. Đại hội X: Được tiến hành từ ngày 14 - 20/10/1986 tại thị xã Hà Đông. Dự Đại hội có 444 đại biểu. Đại hội bầu BCH mới gồm 45 UV chính thức và 13 UV dự khuyết. BTV gồm 15 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Đình Sở được bầu lại làm Bí thư Tỉnh uỷ tỉnh Hà Sơn Bình. Đại hội XI: (Sau khi tái lập tỉnh Hòa Bình): Họp từ ngày 18 - 20/3/1992 tại Nhà văn hóa trung tâm thị xã Hòa Bình. Dự Đại hội có 300 đại biểu thay mặt cho hơn 25.500 đảng viên toàn tỉnh. Đại hội bầu BCH gồm 39 đồng chí. BTV có 9 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Nhiêu Cốc được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ. Đại hội XII: Họp từ ngày 7 - 9/5/1996 tại Nhà văn hóa trung tâm thị xã Hòa Bình. Dự Đại hội có 297 đại biểu đại diện cho 25.066 đảng viên toàn tỉnh. Đại hội bầu BCH gồm 45 đồng chí. BTV có 13 đồng chí. Đồng chí Hoàng Văn Hon được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy. Đại hội XIII: Họp từ ngày 2 - 4/1/2001 tại Cung Văn hóa tỉnh, 298 đại biểu thay mặt cho 32.370 đảng viên trên toàn tỉnh về dự đại hội. Đại hội bầu BCH gồm 47 đồng chí. BTV có 13 đồng chí. Đồng chí Hoàng Văn Hon được bầu lại làm Bí thư Tỉnh ủy..

<span class='text_page_counter'>(26)</span> Đại hội XIV: Họp từ ngày 19 - 21/12/2005 tại Cung Văn hóa tỉnh. Dự Đại hội có 300 đại biểu thay mặt cho hơn 43.000 đảng viên trên toàn tỉnh. Đại hội đã bầu BCH gồm 49 đồng chí. BTV gồm 13 đồng chí. Đồng chí Trần Lưu Hải được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ. Tại hội nghị Tỉnh uỷ phiên họp bất thường ngày 19/10/2007, đồng chí Hoàng Việt Cường được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh ủy. Đại hội XV: Họp từ ngày 17 - 19/10/2010. Dự Đại hội có 305 đại biểu, đại diện cho gần 50.000 đảng viên trong toàn tỉnh. Đại hội đã bầu BCH gồm 53 đồng chí. BTV gồm 15 đồng chí. Đồng chí Hoàng Việt Cường, được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ. Tại hội nghỉ Tỉnh uỷ lần thứ 15, khóa XV, ngày 31/12/2013, đồng chí Bùi Văn Tỉnh được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh ủy. Đại hội Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2015-2020 diễn ra từ ngày 14 - 16/9/2015 Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVI, nhiệm kỳ 2015 - 2020 gồm 54 đồng chí Đại hội tiến hành biểu quyết thông qua Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2015 - 2020. Với mục tiêu: Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ; phát huy sức mạnh đoàn kết các dân tộc; huy động mọi nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững; phấn đấu sớm đưa kinh tế tỉnh Hòa Bình đạt trình độ phát triển trung bình của cả nước; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; giữ gìn, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc; đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển; thực hiện có hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững và xây dựng nông thôn mới; đảm bảo quốc phòng, giữ vững an ninh trật tự. Đại hội đề ra các chỉ tiêu, cụ thể: Về kinh tế: giai đoạn 2016 - 2020, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) đạt 8,5% - 9%/năm. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội hằng năm bằng khoảng 35% GRDP. Thu ngân sách Nhà nước tăng 17%/năm. Đến năm 2020: GRDP bình quân đầu người đạt 60 - 65 triệu đồng; cơ cấu tổng sản phẩm trên địa bàn: Công nghiệp - xây dựng 57,8%, dịch vụ 26,4%, nông nghiệp 15,8%; số doanh nghiệp, hợp tác xã thành lập, hoạt động có hiệu quả tăng gấp 2 lần so với năm 2015; tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu tăng 3,5 lần so với năm 2015; tỷ lệ đô thị hóa đạt 25%; tỷ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới đạt 40% trở lên.Về xã hội: đến năm 2020, tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội dưới 60%; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 55% đến 60%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt 20% đến 22%; có 8,5 bác sỹ và 25 giường bệnh trên 1 vạn dân; tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt trên 85% dân số; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 3,0%/năm. Về môi trường: đến năm 2020, có 95% dân số được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh; 95% chất thải nguy hại, 90%-.

<span class='text_page_counter'>(27)</span> 100% chất thải y tế được xử lý; tỷ lệ che phủ rừng trên 50%. Xây dựng Đảng: hằng năm tỷ lệ số tổ chức cở sở Đảng đạt tiêu chuẩn trong sạch, vững mạnh đạt 50%. 8. Trong 130 năm xây dựng và phát triển của tỉnh Hòa Bình, sự kiện tiêu biểu nào mà bạn tâm đắc nhất? Vì sao? Hãy nêu cảm nghĩ của bản thân về sự phát triển, đổi mới của quê hương Hòa Bình? (Phần cảm nghĩ của bản thân dài không quá 3.000 từ)./..

<span class='text_page_counter'>(28)</span>

×