Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

luận văn thạc sĩ phong cách tư duy quân sự hồ chí minh với học viên ở học viện chính trị – quân sự hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.11 KB, 116 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ chính trị vĩ đại, đồng thời là nhà quân
sự xuất sắc của dân tộc ta. Trong toàn bộ di sản quân sự của Người, phong
cách tư duy quân sự có nội dung to lớn và giữ một vị trí hết sức trọng yếu.
Phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh là một bộ phận trong phong
cách tư duy của Người, có những đặc điểm riêng và gắn liền với thực tiễn
quân sự cách mạng Việt Nam. Đó là phong cách tư duy ln ln xem xét vấn
đề quân sự gắn với yêu cầu, mục tiêu của sự nghiệp cách mạng vì độc lập dân
tộc và CNXH; tính biện chứng trong nhận thức và giải quyết vấn đề quân sự;
bám sát thực tiễn quân sự Việt Nam; không ngừng phát huy sức mạnh tổng
hợp và thể hiện quyết tâm lớn, sáng tạo cao trong các tình huống qn sự. Hồ
Chí Minh đã cùng với Đảng ta lãnh đạo quá trình khởi nghĩa và chiến tranh
cách mạng, giành độc lập, thống nhất Tổ quốc gần nửa thế kỷ qua. Q trình
đấu tranh thắng lợi đó đã khẳng định sự hình thành và phát triển phong cách
tư duy, trong đó có phong cách tư duy quân sự của Người. Đội ngũ cán bộ, sĩ
quan quân đội trưởng thành, chỉ huy bộ đội đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược,
giải quyết các tình huống quân sự một cách sáng tạo, là do lĩnh hội được tư
tưởng quân sự và nhất là được rèn luyện theo phong cách tư duy quân sự của
Người. Vì vậy, nghiên cứu phong cách tư duy qn sự Hồ Chí Minh để góp
phần hiểu rõ hơn tư tưởng quân sự của Người và xây dựng phong cách tư duy
quân sự cho đội ngũ cán bộ quân đội nói chung, cho đội ngũ học viên ở
HVCTQS nói riêng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN, đặc biệt đối với quá trình xây dựng Quân đội ta trở thành quân đội
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại là một việc làm cần thiết.
Hiện nay, thế giới đang diễn ra quá trình chuyển biến mạnh mẽ từ loại
hình quân sự của thời đại cơng nghiệp sang loại hình qn sự của thời đại


2


thông tin, mà yêu cầu của sự chuyển biến tư duy quân sự là tiền đề, là cốt lõi của
quá trình đó. Vì vậy, Qn đội ta cần được xây dựng vững mạnh, sẵn sàng đối
phó với những cuộc chiến tranh trong tương lai có thể xảy ra với tính chất phức
tạp, quy mơ rộng lớn, chiến tranh vũ khí cơng nghệ cao trong mọi tình huống.
Tình hình đó đặt ra yêu cầu nâng cao trình độ mọi mặt, đặc biệt là phong cách tư
duy quân sự cho đội ngũ cán bộ, sĩ quan, trong đó có học viên HVCTQS.
Nhìn chung, thực trạng phong cách tư duy quân sự của học viên
HVCTQS trong những năm qua về cơ bản đã bám sát thực tiễn quân sự Việt
Nam, thể hiện tinh thần tích cực nghiên cứu, tìm tịi, sáng tạo, có ý chí rèn
luyện để trở thành người chính trị viên – bí thư cấp uỷ theo yêu cầu mục tiêu
đào tạo. Tuy nhiên phong cách tư duy quân sự ở đội ngũ này còn hạn chế
nhiều mặt, nhất là về phương pháp phân tích, giải quyết mâu thuẫn, giải quyết
những vấn đề thực tiễn. Bởi vậy, việc xây dựng, rèn luyện theo phong cách tư
duy quân sự Hồ Chí Minh cho học viên HVCTQS là vấn đề cấp thiết trước mắt,
đồng thời là vấn đề cơ bản lâu dài, góp phần làm cho đội ngũ cán bộ chính trị
trưởng thành, đáp ứng yêu cầu xây dựng và chiến đấu trong mọi tình huống.
Với những lý do nêu trên, học viên chọn đề tài “Phong cách tư duy quân
sự Hồ Chí Minh với học viên ở Học viện Chính trị – Quân sự hiện nay” làm
luận văn Thạc sĩ khoa học chính trị, chun ngành Hồ Chí Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Phong cách tư duy Hồ Chí Minh nói chung, phong cách tư duy qn sự
nói riêng, là một bộ phận quan trọng trong di sản tư tưởng của Người, nhưng
cịn ít được nghiên cứu. Tuy nhiên, đến nay đã có một số nghiên cứu, bước
đầu về vấn đề này ở những góc độ khác nhau.
Mở đầu tác giả Cao Thái có bài “Những nét đặc sắc trong phong cách
tư duy Hồ Chí Minh”, Tạp chí Triết học số 2 – 1980, bước đầu phác thảo
những nét lớn trong phong cách tư duy Hồ Chí Minh. Đó là tư duy vượt lên


3

mọi thành kiến tư tưởng; có sự thống nhất giữa tình cảm cách mạng và lý trí
khoa học, gắn lý luận với thực tiễn; tổng kết kinh nghiệm để làm giàu tri thức;
mọi suy nghĩ đều hướng tới hành động cải tạo và xây dựng xã hội; luôn luôn
coi trọng điều kiện khách quan, phát huy tối đa nỗ lực chủ quan và tính tự
giác cách mạng. Tác giả kết luận: đứng trước những nhiệm vụ cách mạng mới
mẻ, chúng ta khơng có con đường nào khác ngồi con đường nâng cao
phương pháp tư duy lý luận – mà phương pháp tư duy Hồ Chí Minh là một
mẫu mực.
Tiếp đó trong sách “Hồ Chí Minh – một con người, một dân tộc, một
thời đại”, Nxb Sự Thật, Hà Nội 1990, Cố vấn Phạm Văn Đồng đã đề cập
phong cách tư duy Hồ Chí Minh ở một số nét tiêu biểu như: gắn lý luận cách
mạng với thực tiễn cách mạng, tính hệ thống, diễn đạt giản đơn, dễ hiểu, dễ
nhớ, có sức thuyết phục mạnh mẽ.
Tác phẩm “Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh” của nhiều nhà
khoa học, do Đặng Xuân Kỳ chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1997,
đã nhận định rằng: nét đặc trưng của phong cách tư duy Hồ Chí Minh là độc
lập, tự chủ, sáng tạo. Đặc trưng này đã có trong phong cách tư duy của Người
từ rất sớm, lúc còn thiếu thời và bước vào tuổi thanh niên. Tính độc lập, tự
chủ của tư duy đã sớm giúp Người đi đến những nhận định mới mẻ, không
thụ động trong suy nghĩ và trong hành động. Nhưng độc lập, tự chủ của tư
duy Hồ Chí Minh thực sự có bước phát triển nhảy vọt khi Người bắt gặp chủ
nghĩa Mác Lênin và làm cho tính độc lập, tự chủ có nét sáng tạo. Các tác giả
còn nhận định rằng, chủ nghĩa Mác Lênin đã đưa tư duy của Hồ Chí Minh đến
độ chín để đối chiếu, so sánh, lựa chọn, chắt lọc và tổng hợp những cứ liệu
mà thực tiễn Việt Nam và thế giới cung cấp, những kinh nghiệm mà cuộc
sống mang lại, những tư tưởng của người đi trước được gợi mở, để từ đó đi
đến những kết luận mới, tư duy mới. Lý giải vì sao phong cách tư duy Hồ Chí


4

Minh lại có nét đặc trưng đó, các tác giả cho rằng: mọi suy nghĩ của Người
luôn luôn xuất phát từ thực tiễn Việt Nam; Người thực hiện rộng mở tư duy,
nghiên cứu mọi tư tưởng, học thuyết đã có và hướng tầm nhìn ra thế giới; đồng
thời khơng ngừng học tập nâng cao trình độ văn hóa, làm giàu trí tuệ của mình.
Tác phẩm “Học tập phong cách tư duy Hồ Chí Minh” của nhiều nhà
khoa học, do Trần Văn Phịng chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001,
cũng bàn về nét đặc trưng phong cách tư duy Hồ Chí Minh và cho đó là
phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, thiết thực, gắn với thực tiễn đất
nước và thời đại. Nét đặc trưng đó khơng chỉ trong tư duy mà cả trong hành
động cách mạng, trong kháng chiến cũng như trong xây dựng đất nước, là nét
đặc trưng rất Hồ Chí Minh. Bàn về cơ sở hình thành phong cách tư duy của
Người, các tác giả cho rằng: đó chính là phong cách tư duy phương Đông; là
chủ nghĩa Mác Lênin mà đặc biệt là phương pháp biện chứng duy vật; là bản
sắc cá nhân của chính tư duy Hồ Chí Minh. Tác phẩm còn giành một phần
bàn đến việc xây dựng phong cách tư duy cho cán bộ lãnh đạo, quản lý theo
phong cách tư duy Hồ Chí Minh.
Về tư duy quân sự và phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh cũng đã
được một số nhà khoa học, nhà quân sự bước đầu nghiên cứu.
Bài: “Tính biện chứng trong tư tưởng qn sự Hồ Chí Minh” của
Hồng Minh Thảo, Tạp chí Cộng sản số 4 – 1990 đã bước đầu gợi ý một số
đặc điểm lớn về phong cách tư duy quân sự của Người như: kế thừa với tư
tưởng sáng tạo để sáng tạo; năng động chủ quan trong việc giải quyết mâu
thuẫn trong qn sự; khơng có qn sự đơn thuần, nó vận động gắn liền với các
hoạt động khác. Tác giả đã nêu rõ sự xuyên suốt của tính biện chứng trong tư
tưởng quân sự Hồ Chí Minh là đặt quân sự trong mối quan hệ tổng thể, thống
nhất, tồn diện với các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng… đồng thời


5
đặt các mối quan hệ đó trong từng thời điểm lịch sử cụ thể để giải quyết các vấn

đề quân sự.
Bài “Tư duy quân sự Hồ Chí Minh, tiếp cận từ góc độ văn hố” của
Quang Cận, Tạp chí QPTD số 5 – 2000 đề cập một số nội dung cụ thể về tư
duy qn sự Hồ Chí Minh, đó là: xác định mục đích của chiến tranh cách
mạng nhằm mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; về xây dựng lực lượng cách
mạng là khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công nông; phát động
và tổ chức toàn dân đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang làm nòng cốt; phương
thức tiến hành chiến tranh và nghệ thuật đánh giặc tồn diện: qn sự, chính
trị, kinh tế, văn hố, ngoại giao... Tác giả cịn đề cập đến chủ nghĩa nhân văn
trong tư duy quân sự Hồ Chí Minh về sự quan tâm đối với con người, nhất là
đối với nhân dân và các lực lượng vũ trang. Người chăm lo bồi dưỡng sức
dân, đẩy mạnh xây dựng chế độ mới ngay trong kháng chiến. Đối với tù, hàng
binh và những người lầm lỗi Người hết sức khoan dung… Tư duy quân sự Hồ
Chí Minh đã được thể hiện trong chiến lược, sách lược của Đảng trong suốt
quá trình đấu tranh cách mạng, vì độc lập dân tộc và CNXH. Tác giả kết luận:
tư duy quân sự Hồ Chí Minh, giúp chúng ta hiểu rõ hơn tư tưởng Hồ Chí
Minh nói chung, tư duy chính trị – qn sự Hồ Chí Minh nói riêng để xử lý
theo góc độ văn hóa những vấn đề quân sự, quốc phịng, xây dựng lực lượng
vũ trang nhân dân trong cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Bên cạnh đó, cũng đã có một số bài viết nghiên cứu vận dụng học tập,
rèn luyện phong cách Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ chính trị như: cuốn
sách “Sửa đổi lối làm việc. Giá trị lịch sử và hiện thực” của HVCTQS, Nxb
QĐND, Hà Nội 2002 tập hợp bài viết của nhiều nhà khoa học quân sự về đổi
mới phong cách, tác phong làm việc theo tư tưởng Hồ Chí Minh; “Xây dựng
phong cách làm việc của cán bộ chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh” của
Nguyễn Tiến Huân, in trong sách “Xây dựng quân đội về chính trị theo tư


6
tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ mới”, Nxb QĐND, Hà Nội 2004...; “Tác

phong của chính uỷ, chính trị viên” của Phạm Hồng Cư, Tạp chí Thanh niên
quân đội số 41 – 2007; “Góp phần tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về tư cách
và phương pháp, tác phong cơng tác của chính uỷ, chính trị viên trong
QĐND Việt Nam” của Vũ Minh Thực, Tạp chí QPTD số 2 – 2007. Những bài
viết nêu trên tuy chưa đề cập trực tiếp đến phong cách tư duy quân sự, nhưng
là chất liệu tốt để đề tài xây dựng các giải pháp đồng bộ trong học tập và rèn
luyện của học viên đào tạo cán bộ chính trị tại các học viện, nhà trường quân
đội.
Trong những năm gần đây luận án, luận văn của nghiên cứu sinh và học
viên cao học, nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh và phong cách Hồ Chí
Minh ngày một nhiều hơn. Tuy vậy, các luận án, luận văn liên quan đến
phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh cịn rất ít.
Trong số luận văn tốt nghiệp các lớp đào tạo giảng viên tư tưởng Hồ
Chí Minh, đáng chú ý luận văn “Phong cách tư duy qn sự Hồ Chí Minh”
của Trương Quang Đãn, khố III, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội 2002. Luận văn trình bày bản chất, đặc trưng phong cách tư duy quân
sự Hồ Chí Minh và xây dựng phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh cho
người chỉ huy quân sự hiện nay. Tuy vậy, trong khn khổ luận văn tốt nghiệp
khố đào tạo giảng viên, thời gian có hạn, nên tác giả mới đặt ra một số nội
dung cơ bản, mà chưa có điều kiện đi sâu, nhất là việc xác định khái niệm, cơ
sở hình thành, đặc điểm phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh. Luận văn
sẽ kế thừa và coi đó như một hướng nghiên cứu cần tham khảo và học tập.
Nhìn chung, nghiên cứu về phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh
cịn ít được bàn đến, kết quả nghiên cứu chưa nhiều, thành tựu được kế thừa
còn rất hạn chế. Song kết quả bước đầu đó là những gợi ý rất quý báu về các ý
tưởng và phương pháp nghiên cứu để tác giả hoàn thành Luận văn của mình.
Vì vậy, đề tài học viên lựa chọn nhằm góp phần đáp ứng yêu cầu nghiên cứu


7

phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh hiện nay và khơng trùng với các
cơng trình khoa học đã được cơng bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Mục đích
Làm sáng tỏ những đặc điểm cơ bản của phong cách tư duy quân sự Hồ
Chí Minh, trên cơ sở đó góp phần xây dựng, rèn luyện phong cách tư duy
quân sự cho học viên đào tạo cán bộ chính trị ở HVCTQS, giúp họ ra trường
có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất, năng lực, phong cách tốt (nhất là
phong cách tư duy qn sự), hồn thành được chức trách chính trị viên, làm
cơ sở tiếp tục phát triển ở cương vị cao hơn.
Nhiệm vụ:
- Làm rõ khái niệm, cơ sở hình thành và đặc điểm phong cách tư duy
quân sự Hồ Chí Minh.
- Làm rõ thực trạng về phong cách tư duy quân sự của đội ngũ học viên
đào tạo cán bộ chính trị phân đội, trước yêu cầu, mục tiêu đào tạo trong tình
hình mới, nhiệm vụ mới.
- Nêu lên một số giải pháp chủ yếu xây dựng, rèn luyện theo phong
cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh cho học viên đào tạo ở HVCTQS.
Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu về phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh.
Phạm vi nghiên cứu:
Tập trung nghiên cứu phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh và vận
dụng vào đào tạo huấn luyện ở HVCTQS theo phong cách tư duy quân sự Hồ
Chí Minh.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận:
- Lý luận Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng quân
sự Hồ Chí Minh.



8
- Đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhất là đường
lối quân sự, quốc phòng của Đảng.
Phương pháp nghiên cứu:
- Trên cơ sở phương pháp luận Triết học Mác Lênin, luận văn vận dụng
phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp lôgic, đồng thời sử dụng một
số phương pháp khác như phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh...
- Nghiên cứu các bài nói, bài viết, của Hồ Chí Minh bàn về quân sự.
Nghiên cứu sự chỉ đạo trực tiếp của Người với các nhà lãnh đạo, các tướng
lĩnh chỉ huy quân đội.
- Điều tra, khảo sát thực tiễn học viên về nhận thức và rèn luyện theo
phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh, để đề xuất giải pháp phù hợp.
5. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Làm rõ khái niệm, cơ sở hình thành, đặc điểm nổi bật phong cách tư

duy quân sự Hồ Chí Minh.
- Đề xuất một số giải pháp xây dựng, rèn luyện phong cách tư duy quân
sự cho học viên đào tạo cán bộ chính trị phân đội theo phong cách tư duy
quân sự Hồ Chí Minh làm cơ sở để họ tiếp tục phát huy trong q trình thực
hiện chức trách chính uỷ, chính trị viên.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần vào nghiên cứu di sản quân sự Hồ Chí Minh, trực
tiếp là phong cách và phong cách tư duy quân sự của Người, từ đó vận dụng
vào việc rèn luyện phong cách tư duy quân sự cho học viên ở HVCTQS, thiết
thực hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh”, do Bộ Chính trị phát động.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo giáo dục, rèn luyện
theo phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh trong các đơn vị và nhà trường
quân sự.



9
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn có hai chương (sáu tiết), danh
mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

Chương 1
PHONG CÁCH TƯ DUY QUÂN SỰ HỒ CHÍ MINH
1.1. KHÁI NIỆM PHONG CÁCH VÀ PHONG CÁCH TƯ DUY QUÂN SỰ
HỒ CHÍ MINH

Phong cách, thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Latinh là Stylus, tiếng Hy
Lạp là Stylos. Đến nay, các nhà khoa học đã đưa ra nhiều định nghĩa khác
nhau về phong cách.
Ở nước Nga, Từ điển Triết học [70, tr.10] ấn hành năm 1974, khái niệm
phong cách chỉ được hiểu chủ yếu trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật. Từ điển
Tiếng Nga [70, tr.10] ấn hành 1984, phong cách lại có các nghĩa sau đây:
1. Là tổng thể các dấu hiệu đặc trưng nghệ thuật của một thời đại, một
xu hướng hoặc một bút pháp cá nhân của người nghệ sĩ; hoặc tổng thể các dấu
hiệu đặc trưng, đặc biệt, những thuộc tính riêng của ai đó khác với người
khác.
2. Là tổng thể các phương pháp sử dụng công cụ ngôn ngữ đặc trưng
của một nhà văn, một tác phẩm nào đó.


10
3. Thể hiện nét đặc sắc có tính chất chức năng của ngôn ngữ, nghệ thuật.
4. Là cách thức thể hiện những biện pháp riêng của mình.
5. Là cách thức thể hiện mình như cách nói, cách mặc...
Từ điển tiếng Pháp La Rousse, xuất bản ở Pari 1994 cũng đề cập đến

nội hàm của phong cách theo nhiều nghĩa khác nhau:
1. Cách đặc biệt để biểu lộ suy nghĩ, cảm xúc, tình cảm.
2. Thể ngơn ngữ riêng cho một người, một nhóm xã hội.
3. Cách cá nhân khi tham gia thể thao hay nghệ thuật, được xác định
bởi một tập hợp của các đặc tính riêng.
4.Cách đặc biệt về một thể loại, một thời kỳ, nhất là trong lĩnh vực
nghệ thuật, được xác định bởi một tập hợp của các đặc tính rõ ràng.
5. Tồn bộ sở thích, cách sống của một người nào đó; cách riêng về ăn,
mặc, ứng xử, hoạt động của một người.
6. Phẩm chất của một vật, một người, biểu lộ một đặc điểm thẩm mỹ
độc đáo.
Như vậy, trên thế giới phong cách có thể hiểu theo hai phạm vi khác
nhau: theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng.
Nước ta cũng có tình hình như thế. Từ điển Bách khoa Việt Nam, xuất
bản 2003 [67, tr.782] chỉ đề cập đến phong cách phạm vi hẹp ở lĩnh vực ngơn
ngữ, văn học,nghệ thuật. Trong khi đó các Từ điển khác đưa ra khái niệm
phạm vi rộng với những nghĩa sau đây:
“1. Là những lối, những cung cách sinh hoạt, làm việc, hoạt động, xử
sự, tạo nên cái riêng của một người hay một loại người nào đó.
2. Những đặc điểm có tính chất hệ thống về tư tưởng và nghệ thuật biểu
hiện trong sáng tác của một nghệ sĩ hay trong các sáng tác nói chung thuộc
cùng một thể loại.


11
3. Dạng ngơn ngữ sử dụng trong những hồn cảnh điển hình nào đó”
[69, tr.372].
Các tác giả của cơng trình “Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh”
cũng cho rằng, phong cách không chỉ hiểu trong phạm vi hẹp, giới hạn trong một
lĩnh vực nào đó, mà cịn cần phải hiểu theo phạm vi rộng. Theo đó, phong cách

“là lề lối, cung cách, cách thức, phong thái, phong độ, phẩm cách...đã trở thành
nề nếp ổn định của một người hoặc một lớp người được thể hiện trong tất cả các
mặt hoạt động như lao động, học tập, sinh hoạt, ứng xử, diễn đạt (nói và viết)...
tạo nên những giá trị, những nét riêng biệt của chủ thể đó” [28, tr.154].
Những khái niệm nêu trên tuy còn khác nhau ở quan niệm phạm vi
rộng hay hẹp, nhưng rõ ràng khái niệm phong cách theo phạm vi rộng nhiều
lĩnh vực là phản ánh đúng tình hình thực tế. Ngày nay trong xã hội hiện đại,
người ta đã bàn đến phong cách quân nhân, phong cách kinh doanh, phong
cách người tiêu dùng v.v... mà không dừng lại trong lĩnh vực văn học, nghệ
thuật nữa. Do đó, nghiên cứu phong cách Hồ Chí Minh theo nghĩa rộng, với
một hệ thống hoàn chỉnh từ tư duy đến hành động như các nhà khoa học đã
tiến hành là đúng đắn, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn cách mạng và xã hội hiện
nay.
Phong cách đối với người cách mạng và cán bộ, đảng viên có vai trị
rất quan trọng, bởi phong cách có quan hệ với tư tưởng, đường lối và phương
pháp cách mạng, có quan hệ chặt chẽ với đạo đức cách mạng.
Tư tưởng, đường lối là phương hướng mục tiêu, còn phương pháp là
cách thức có tính ngun tắc để đưa đường lối vào cuộc sống. Phương pháp
được thực hiện thông qua những con người cụ thể với trình độ năng lực và
phong cách khác nhau. Vì vậy có tình hình là cùng được quán triệt đường lối,
cũng quyết tâm tổ chức thực hiện, nhưng phương pháp lại khơng giống nhau
và do đó kết quả cũng khác nhau. Đó là do phong cách ở mỗi người, mỗi địa


12
phương khơng đồng nhất. Điều đó cho thấy, phong cách quan trọng biết
nhường nào trong việc hình thành, phát triển đường lối và tổ chức thực hiện
đường lối. Vì vậy, phải xuất phát từ tư tưởng đường lối để đề ra những yêu
cầu về phong cách, bởi phong cách, nhất là phong cách làm việc, phong cách
tư duy “có thể là góp phần thực hiện hợp lý và có hiệu quả các mục tiêu,

nhiêm vụ đề ra, hoặc là góp phần làm chậm trễ việc thực hiện các mục tiêu,
nhiệm vụ đó” [67, tr.474].
Đạo đức cách mạng cũng có quan hệ chặt chẽ tới phong cách của cán
bộ, đảng viên. Nếu phong cách là người, thì đạo đức cũng thể hiện ra qua
phong cách. Trong thực tiễn đấu tranh, những người cách mạng đều có những
phẩm chất chung về đạo đức, nhưng lại thể hiện ra không giống nhau, bởi đạo
đức đã thơng qua những phong cách khác nhau. Vì vậy, đạo đức cách mạng
tốt làm cho phong cách phù hợp với yêu cầu cách mạng và ngược lại, cán bộ,
đảng viên có phong cách tốt làm cho đạo đức cách mạng được phát huy, thúc
đẩy hoàn thành mọi nhiệm vụ.
Phong cách cịn gắn với truyền thống, tập qn, thói quen. Vì vậy, để
có phong cách tốt cần coi trọng giáo dục truyền thống tốt đẹp, xây dựng môi
trường sống, xây dựng phong cách mới. Tiến hành được những việc này góp
phần đáng kể vào việc rèn luyện, xây dựng phong cách đáp ứng yêu cầu của
thời kỳ mới.
Phong cách tuy mang dấu ấn cá nhân nhưng đồng thời phong cách
cũng có những ảnh hưởng, có sự lan toả rất lớn. Vì vậy, học tập và rèn luyện
theo phong cách tiên tiến, phấn đấu trở thành cán bộ, đảng viên gương mẫu về
mọi mặt là một yêu cầu trong xây dựng đảng cầm quyền hiện nay. Đó thực sự
là yêu cầu khách quan về xây dựng phong cách của đảng cầm quyền, của cán
bộ, đảng viên. Rất vinh dự và tự hào cho Đảng ta, dân tộc ta có được tấm
gương Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại cả về tư tưởng, đạo đức và phong cách.


13
Đảng ta đã kiên trì phát động và kêu gọi toàn Đảng, toàn dân học tập và làm
theo tấm gương của Người.
Phong cách Hồ Chí Minh là một chỉnh thể, bắt đầu từ suy nghĩ đến hoạt
động thực tiễn và sinh hoạt hàng ngày. Như vậy, phong cách Hồ Chí Minh có
phạm vi rộng lớn tổng hợp của nhiều mặt: phong cách tư duy, phong cách làm

việc, phong cách diễn đạt, phong cách ứng xử và phong cách sinh hoạt. Phong
cách đó thể hiện rõ nét con người, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh. Cố Thủ
tướng Phạm Văn Đồng đã viết:“Những tư tưởng lớn và tình cảm lớn ln
ln
thể hiện một cách rõ nét trong phong cách của Hồ Chí Minh, trong mọi
cử chỉ và hành động, trong sự ứng xử đối với những công việc cực kỳ
trọng đại của nước, của dân cũng như trong cuộc sống hàng ngày, trong
quan hệ với mọi người... từ cách nói, cách viết ở những giờ phút quan
trọng bậc nhất cũng như trong lúc bình thường” [19, tr.37]. Theo đó,
nghiên cứu phong cách Hồ Chí Minh là một nhiệm vụ rất quan trọng và cấp
thiết hiện nay.
Phong cách tư duy quân sự bắt nguồn từ tư duy và phong cách tư
duy, do vậy để có được phong cách tư duy quân sự đúng phải có tư duy sâu
sắc và phong cách tư duy đúng đắn. “Tư duy – sản phẩm cao nhất của cái vật
chất được tổ chức một cách đặc biệt là bộ não, q trình phản ánh tích cực
thế giới quan trong các khái niệm, phán đoán, suy luận” [70, tr.634, 635], đó
là q trình từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu
tượng đến thực tiễn, con đường biện chứng của nhận thức trên tất cả các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hoá, quân sự. Tư duy là cơ sở, điều kiện để hình
thành và phát triển phong cách tư duy. Do đó mà trong thực tiễn đã nảy sinh
những phong cách tư duy khác nhau, người thì đạt tới phong cách tư duy biện
chứng, nhưng cũng có người rơi vào duy tâm, siêu hình. Vì vậy, nhờ có phong


14
cách tư duy đúng đắn mà con người phản ánh đúng tình hình thực tế khách
quan, xử lý sáng tạo có hiệu quả những vấn đề đặt ra. Theo Trần Văn Phòng
“Phong cách tư duy là những đặc điểm riêng, có tính hệ thống, ổn định trên
cơ sở của một cách thức thực hiện phương pháp tư duy của riêng cá nhân
nào đó”


[47, tr.12]. Khái niệm này đã phản ánh phong cách tư duy là

một mặt của phong cách con người, là sự thống nhất giữa cách thức thực hiện
phương pháp tư duy và nội dung, kết quả tư duy. Xét trong mối quan hệ tổng
thể của hệ thống phong cách con người, thì phong cách tư duy quân sự chịu
ảnh hưởng lớn của phong cách và phong cách tư duy chung đó.
Phong cách tư duy quân sự là một bộ phận của phong cách tư duy .
Phong cách này được hình thành trên cơ sở tư duy quân sự và phương pháp
nhận thức quân sự. Tư duy quân sự là một vịng khâu của q trình nhận thức
qn sự, là sự phản ánh hoạt động thực tiễn quân sự của con người thơng qua
các khái niệm, phán đốn, suy luận. Tư duy quân sự là quá trình nhận thức lý
tính nhằm phản ánh gián tiếp và khái quát các thuộc tính bản chất quy luật của
sự vật, hiện tượng trong lĩnh vực quân sự khi chúng trực tiếp tác động vào bộ
não người trên cơ sở những tài liệu nhận thức cảm tính. Nhờ các tính chất đó
của tư duy quân sự mà con người nắm được thuộc tính bản chất, mối liên hệ
giữa các sự vật, hiện tượng quân sự, tìm ra các qui luật khách quan, giải quyết
các vấn đề quân sự có hiệu quả. Do mối quan hệ của lĩnh vực quân sự với
toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội, nên tư duy quân sự có ngoại diên rất
rộng rãi “Phương pháp nhận thức quân sự là hệ thống, cách thức, thủ pháp để
tìm hiểu, nhận biết những hiện tượng, sự kiện, hoạt động quân sự” [68,
tr.641]. Từ đó có thể rút ra định nghĩa: Phong cách tư duy quân sự là những
đặc điểm riêng có tính hệ thống, ổn định trên cơ sở tư duy quân sự và
cách thức thực hiện phương pháp nhận thức quân sự của một cá nhân
hoặc một lớp người. Theo đó phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh hình


15
thành và phát triển trên cơ sở tư duy quân sự và phong cách tư duy của
Người. Vì vậy, phong cách tư duy qn sự Hồ Chí Minh có những nét đặc

trưng chung của phong cách tư duy “độc lập, tự chủ, sáng tạo, thiết thực...”
[47, tr.13], đồng thời bao gồm những đặc điểm riêng có tính hệ thống, ổn định
được xây dựng trên cơ sở tư duy quân sự và cách thức thực hiện phương pháp
nhận thức quân sự.
Trong lĩnh vực quân sự, phong cách tư duy quân sự quan hệ chặt chẽ
với hàng loạt các yếu tố khác như lý luận, đường lối quân sự, nghệ thuật quân
sự, tác phong quân sự, với việc tổ chức, xây dựng lực lượng vũ trang... Lý
luận, đường lối quân sự là phương hướng hình thành, định hướng phát triển
phong cách tư duy quân sự và đến lượt nó, phong cách tư duy qn sự lại góp
phần tích cực vào phát triển lý luận đường lối quân sự và tổ chức thực hiện
thắng lợi đường lối quân sự. Cần nhấn mạnh rằng hình thành, phát triển
đường lối qn sự khơng phải chỉ do tư duy quân sự và phong cách tư duy
quân sự mà là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố, nhưng trong đó chủ yếu là
tư duy quân sự và phong cách tư duy quân sự. Phong cách tư duy qn sự cịn
là cơ sở, điều kiện để hình thành và phát triển nghệ thuật qn sự, nó địi hỏi
phải cân nhắc, tính tốn trên mọi phương diện như tổ chức, xây dựng lực
lượng vũ trang, đến sự phát triển nghệ thuật chiến thuật, chiến dịch, chiến
lược, đến việc sử dụng binh lực, kỹ thuật chiến đấu, đến việc thực nghiệm ở
thao trường và diễn tập cơ quan chỉ huy v.v. Phong cách tư duy quân sự cũng
đòi hỏi tác phong quân sự phải biến đổi tương ứng như kiên quyết, quyết
đoán, khẩn trương, năng động, sáng tạo... phù hợp với yêu cầu hoạt động
quân sự. Ngược lại, tác phong quân sự tác động trở lại làm cho những đặc
điểm riêng trong phong cách tư duy quân sự trở thành rõ nét có tính hệ thống
và ổn định ở một con người, một đơn vị. Như vậy, phong cách tư duy quân sự,
lý luận, đường lối quân sự, nghệ thuật quân sự, tác phong quân sự, tổ chức lực


16
lượng quân sự... là những vấn đề quan hệ chặt chẽ với nhau và có tác động lẫn
nhau. Vì vậy, xây dựng phong cách tư duy quân sự đúng đắn, có tầm quan

trọng đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ quân sự. Do đó việc nghiên cứu, học tập
phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh vừa là nhiệm vụ lâu dài đồng thời
mang tính cấp thiết trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay, góp phần
nghiên cứu Hồ Chí Minh một cách tồn diện cả về sự nghiệp, tư tưởng, đạo
đức và phong cách.
1.2 CƠ SỞ HÌNH THÀNH PHONG CÁCH TƯ DUY QN SỰ HỒ CHÍ MINH

Một là, tư duy quân sự truyền thống Việt Nam ảnh hưởng sâu sắc đến
phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh.
Truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc ta là kiên cường, bất
khuất, dũng cảm, thông minh, sáng tạo... những yếu tố đó được đúc kết qua
mấy ngàn năm chống ngoại xâm, từ tổ tiên đến các thế hệ ngày nay. Truyền
thống đó chứng tỏ dân tộc Việt Nam “thượng võ”, nhưng không phải là hiếu
chiến mà là dân tộc u chuộng hồ bình, ln ln mong muốn đất nước hồ
bình. Phải dụng binh, cầm súng chiến đấu là vì nhân nghĩa, để cứu dân, cứu
nước, đó là u cầu khách quan, khơng có con đường nào khác. Đất nước ta
không rộng, người không đông, lại sống bên cạnh nước láng giềng ln ln
có tư tưởng bành trướng, thì việc sẵn sàng tự vệ, giữ yên bờ cõi phải được đặt
ra thường xuyên là đúng đắn. Hơn nữa, với vị trí chiến lược “đầu cầu lục địa
và hải cảng giao tiếp” vô cùng quan trọng ở Đông Dương và Đông Nam Á, đã
tạo cho nước ta nhiều lợi thế trong phát triển, giao lưu kinh tế, văn hố, xã
hội. Nhưng cũng chính vị thế đó mà Tổ quốc ta cũng ln ln đứng trước sự
nhịm ngó, thơn tính, chia cắt, đồng hố kéo dài thường xun của các kẻ thù.
Hồn cảnh đó cũng làm nổi bật sự kiên định bảo vệ mục tiêu sống còn là độc
lập và tự do của dân tộc ta. Khác với một số quốc gia trên thế giới, nhân dân
ta coi việc bảo vệ độc lập, tự do là động lực lớn nhất, quyết tâm trụ vững với


17
tinh thần “một tấc không đi, một ly không rời”. Tinh thần đó xun suốt chiều

dài lịch sử, nhưng khơng phải lúc nào chúng ta cũng giành thắng lợi, mà có
lúc đã phải chịu thất bại. An Dương Vương để mất nước Âu Lạc vào tay Triệu
Đà (179 tr CN); Hồ Quý Ly thua nhà Minh để mất Đại Ngu (1407); triều đình
nhà Nguyễn để mất Đại Nam (1884) dẫn đến sự đô hộ của thực dân Pháp v.v.
Trước những sự kiện đó, dân ta coi là một nỗi đau, nỗi nhục mất nước và trăn
trở rút ra những bài học kinh nghiệm, khơi dậy tinh thần yêu nước, quyết
giành lại giang sơn đã bị rơi vào tay kẻ thù. Điều đó cho thấy, dân tộc Việt
Nam có ý chí, nghị lực phi thường, thắng không kiêu, bại không nản, khí
phách hiên ngang, khơng bi luỵ, ln ln có tư tưởng vươn lên vượt mọi khó
khăn, thử thách.
Q trình đánh giặc giữ nước cũng là quá trình từng bước hình thành
và phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam cả về chiến lược, chiến dịch và
chiến thuật. Nghệ thuật đó ra đời trong điều kiện nhân dân ta luôn luôn phải
chống lại kẻ thù xâm lược mạnh hơn mình nhiều lần. Trước đây chống kẻ thù
cùng chế độ phong kiến cũng thế và khi chuyển sang chống xâm lược của các
nước đế quốc, thì so sánh lực lượng càng chênh lệch hơn về binh lực, trang bị
và vũ khí... Thực tế khách quan đòi hỏi phải xây dựng nền nghệ thuật quân sự
đáp ứng yêu cầu đánh thắng kẻ thù xâm lược phù hợp với thực lực và tính
cách con người Việt Nam. Đáp ứng yêu cầu đó, chiến lược tồn dân đánh giặc
đã ra đời, các đội du kích chống xâm lược Tần (214 - 208 tr CN), phòng ngự
bằng thành luỹ của An Dương Vương (thế kỷ thứ II tr CN) và khởi nghĩa của
Hai Bà Trưng (40 - 43)... đã chứng tỏ điều đó. Trải qua thời gian, nghệ thuật
quân sự Việt Nam phát triển ngày càng phong phú. Thế kỷ thứ XI, trong cuộc
kháng chiến chống Tống lần hai, Lý Thường Kiệt đã chủ động động bất ngờ
tiến công địch ngay tại căn cứ chuẩn bị của chúng trên đất chúng, tạo điều
kiện giành thắng lợi trận “quyết chiến chiến lược” trên sông Như Nguyệt. Ba
lần chống Nguyên Mông thời Trần (1258, 1285, 1287 – 1288) đã “lấy đoản


18

binh thắng trường trận”, thực hiện toàn dân đánh giặc trên cơ sở nòng cốt của
ba thứ quân, (quân triều đình, quân các lộ, hương binh và thổ binh). Nhà Trần
đã giải quyết chiến tranh bằng hàng loạt trận đánh qua các giai đoạn: rút lui
chiến lược, phản công, tiến công để tiêu diệt quân xâm lược. Lê Lợi – Nguyễn
Trãi chống quân Minh (1418 – 1427) đã xây dựng lực lượng từ nhỏ đến lớn,
vừa kháng chiến, vừa xây dựng, mở rộng căn cứ địa, kết hợp tác chiến với
địch vận, lấy ít đánh nhiều... Bước sang thế kỷ XVIII, Nguyễn Huệ đã có
cơng phát triển nghệ thuật qn sự Việt Nam lên một bước mới. Các binh
chủng (thủy binh, pháo binh, tượng binh) được tăng cường và có sự phối hợp
tác chiến với bộ binh. Trên chiến trường xuất hiện nhiều trận tiến công thần
tốc, táo bạo, bất ngờ... Tiếp theo là cuộc chiến đấu chống các nước đế quốc
xâm lược đã phát triển và hoàn thiện nghệ thuật quân sự Việt Nam, nhất là từ
khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng. Như vậy, nghệ
thuật quân sự Việt Nam đã từng bước được hình thành và phát triển qua nhiều
thế hệ trong quá trình dựng nước và giữ nước. Đến thời đại Hồ Chí Minh,
nghệ thuật đó đã bao hàm những nội dung chủ yếu sau đây: “Toàn dân đánh
giặc, lấy lực lượng vũ trang làm nòng cốt; quán triệt tư tưởng tiến công; giành
giữ quyền chủ động; phát huy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân;
lấy ít địch nhiều, nhỏ đánh lớn, đồng thời biết tập trung lực lượng khi cần
thiết, luôn luôn đánh địch trên thế mạnh; dùng sức mạnh cả lực và thế, phát
huy cao nhất khả năng của thế trong việc kết hợp với lực tạo sức mạnh lớn...”
[68, tr.545].
Nghệ thuật quân sự thể hiện quyết tâm và tư duy đánh giặc, giữ nước
của dân tộc. Là người Việt Nam yêu nước ai cũng được thừa hưởng tư duy
quân sự truyền thống của các thế hệ trước truyền lại, tuy với mức độ khác
nhau. Hồ Chí Minh là một người chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất và có cơng
nâng tư duy truyền thống qn sự, truyền thống đánh giặc giữ nước, nghệ
thuật quân sự Việt Nam lên tầm cao mới, với chất lượng mới. Nhận định điều



19
này khơng phải là võ đốn mà từ q trình hình thành tư tưởng quân sự,
phong cách tư duy quân sự của Người, qua sự chỉ đạo các cuộc khởi nghĩa và
chiến tranh giành độc lập và bảo vệ Tổ quốc, qua sự chỉ dẫn của Người đối
với cán bộ chủ chốt của Đảng, Nhà nước và các tướng lĩnh của Quân đội nhân
dân Việt Nam.
Năm 1922, khi vua Khải Định sang nước Pháp, Người đã lên án ông
này bán nước cầu vinh, cam tâm làm tay sai cho giặc, phản bội dân tộc đồng
thời nêu lên truyền thống oanh liệt của dân tộc. Người viết: “Giở sử đất
nước
ra mà xem, mi sẽ thấy tổ tiên đã treo bao tấm gương đạo đức và dũng
cảm, chí khí và tự tơn. Lý Bôn (544) với một dúm nghĩa sĩ, đã nổi dậy
và bẻ gẫy ách đô hộ của Hán tộc. Ngô Quyền (938) đã phá tan đạo
quân nước ngoài kéo vào đánh chiếm đất đai Tổ quốc ta... Lê Đại Hành
đã dũng cảm không chịu khuất phục trước yêu sách của nước láng
giềng hùng mạnh hơn mình gấp bội, Ơng đã đánh thắng địch, giết chết
tướng địch, do đó giải thốt được đồng bào khỏi nạn nô dịch. Quân
Mông Cổ đi đến đâu phá sạch đến đấy, đã bị nhà Trần vẻ vang của ta
đánh bại. Lê Lợi đã anh hùng đứng ra lãnh đạo cách mạng nước Nam,
đập tan chế độ tàn bạo, hạch sách mà những kẻ thù tự xưng là bảo hộ
ta, bắt ta phải chịu... Năm 1407, Tầu đánh nhau với ta, nhờ ý chí độc
lập và lịng khát khao tự do hơn là nhờ qn đơng, sức mạnh, nước
Nam đã thắng...” [37, tr.79, 80]. Đọc những dịng nêu trên, viết
cách đây 80
năm ta khơng chỉ thấy Người lên án một ơng vua bù nhìn đã mất hết tác dụng
đối với dân tộc, mà còn như thấy Người tổng kết lịch sử đấu tranh dựng nước,
giữ nước và nêu lên tư duy quân sự truyền thống của dân tộc. Khi trở thành
lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Người lại càng quan tâm phát triển những kết quả
tổng kết này và vận dụng trong hoạch định đường lối quân sự và chỉ đạo hoạt



20
động quân sự. Võ Nguyên Giáp, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh trong lĩnh vực quân sự , đã nhiều năm làm việc trực tiếp với Người nêu
rõ “di sản quân sự oanh liệt độc đáo và phong phú của dân tộc ta, trải qua các
cuộc khởi nghĩa, chiến tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc mang
tính nhân dân suốt hơn 2000 năm: chống phong kiến phương Bắc xâm lược
đã được Người kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo trong điều kiện mới”
[24, tr.191]. Thực tiễn chiến tranh cách mạng ở nước ta đã chứng tỏ phong
cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh bắt nguồn từ những tinh hoa quân sự Việt
Nam. Hoàng Minh Thảo viết: “Người kế thừa truyền thống đấu tranh giữ
nước của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa quân sự Đông – Tây
kim cổ để tìm ra cách đánh phù hợp, giành thắng lợi cho cuộc chiến tranh
cách mạng của dân tộc”[54, tr.10]. Đó cũng là quan điểm chung của các nhà
khoa học, các nhà nghiên cứu quân sự ở nước ta hiện nay.
Hai là, Học thuyết quân sự và phong cách tư duy qn sự mácxít, cơ sở
chủ yếu hình thành tư duy quân sự và, phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh.
Học thuyết qn sự vơ sản, hệ tư tưởng lý luận và những nguyên tắc
căn bản về quân sự được C.Mác, Ph Ăng ghen sáng lập, V.I Lênin nâng lên
trình độ mới bằng bổ sung những kết luận khoa học về chiến tranh và quân
đội, về bảo vệ Tổ quốc sau cách mạng tháng Mười Nga. Học thuyết quân sự
xác định đối tượng tác chiến, mục đích chiến tranh, nghệ thuật lãnh đạo và chỉ
đạo quân sự, phương thức tiến hành chiến tranh, nghệ thuật quân sự, phương
hướng xây dựng lực lượng vũ trang... Học thuyết quân sự vô sản thể hiện ở
học thuyết về chiến tranh và quân đội và học thuyết về bảo vệ tổ quốc.
Học thuyết về chiến tranh và quân đội, là hệ thống lý luận, quan điểm
của chủ nghĩa Mác Lênin về những vấn đề cơ bản của chiến tranh và quân
đội. Học thuyết đó xác định chiến tranh là kế tục của chính trị bằng thủ đoạn
bạo lực và quân đội là một yếu tố của kiến trúc thượng tầng chính trị, một bộ



21
phận đặc thù của nhà nước, công cụ chủ yếu của đấu tranh vũ trang và chiến
tranh; lý giải khoa học về nguồn gốc, nguyên nhân, bản chất, tính chất của
chiến tranh, mối quan hệ của chiến tranh với chính trị, xã hội...; vạch rõ
nguồn gốc, bản chất chính trị và chức năng của quân đội và nguyên tắc xây
dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản; khẳng định vai trò của Đảng
Cộng sản lãnh đạo chiến tranh và quân đội.
Trên cơ sở học thuyết về chiến tranh và quân đội, Lênin đã hình thành
Học thuyết bảo vệ Tổ quốc Xô viết sau cách mạng tháng Mười. Người nêu rõ
bảo vệ tổ quốc XHCN, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản như một qui luật của cách mạng XHCN. Vì vậy, sau khi đã
giành được chính quyền, giai cấp cơng nhân phải vũ trang bảo vệ tổ quốc,
chuẩn bị sẵn sàng về mọi mặt quân sự, xây dựng quân đội kiểu mới; bảo vệ tổ
quốc bằng một hệ thống biện pháp quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao...;
xây dựng liên minh công nhân với nông dân vững chắc; kết hợp đúng đắn
nhiệm vụ dân tộc với nhiệm vụ quốc tế; xây dựng CNXH về mọi mặt là điều
kiện cơ bản đảm bảo cho sự nghiệp bảo vệ tổ quốc và xây dựng Đảng cộng
sản vững mạnh đủ sức lãnh đạo sự nghiệp âý.
Học thuyết quân sự làm nổi bật đặc điểm phong cách tư duy quân sự
của các nhà kinh điển Mác Lênin độc lập, sáng tạo, gắn với thực tiễn lịch sử
và yêu cầu chiến đấu của giai cấp vô sản. Ph Ăng ghen với những tác phẩm
chủ yếu “Thất bại của người Piêmông” (1849), “Triển vọng của chiến tranh”
(1859), “Vai trò của bạo lực trong lịch sử” (1888)... C. Mác, với những tác
phẩm: “Quá trình phát triển chiến sự” (1854), “Những bài học của chiến tranh
Mỹ” (1861), “Bàn về sự kiện chiến trường” (1885)... là lý luận quân sự được
tổng kết từ thực tiễn các cuộc chiến tranh dân tộc chưa bước sang thời kỳ đế
quốc chủ nghĩa. V.I Lênin kế thừa phong cách tư duy quân sự đó đã phát triển
lý luận về chiến tranh quân đội, về bảo vệ tổ quốc, bảo vệ thành quả cách



22
mạng, thông qua thực tiễn cách mạng tháng Mười Nga. Những tác phẩm chủ
yếu: “Chủ nghĩa xã hội và chiến tranh” (1915), “Cương lĩnh quân sự của cách
mạng vô sản” (1916), “Chiến tranh và cách mạng” (1917), “Nhiệm vụ chủ
yếu của thời đại chúng ta” (1918), “Báo cáo về chính sách kinh tế mới”
(1921) ... đã nói rõ điều đó.
Tư tưởng, lý luận và phong cách tư duy quân sự nêu trên của các nhà
kinh điển đã được Hồ Chí Minh tiếp thu cùng với quá trình nghiên cứu, học
tập Học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin, đặc biệt trong thời kỳ
Người học ở “Trường Quốc tế Lênin” (1934) và nghiên cứu sinh Ban sử
“Viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc phương Đông” (1935 – 1938). Đối với
Hồ Chí Minh, nghiên cứu tiếp thu lý luận quân sự mácxít khơng mục đích trở
thành nhà qn sự, mà vì yêu cầu của cuộc đấu tranh giai cấp, cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc của dân tộc Người, đó là một bộ phận không thể thiếu
trong học thuyết cách mạng của giai cấp vô sản để chỉ dẫn phương pháp đấu
tranh, phương pháp giành thắng lợi trong giành và giữ chính quyền, bảo vệ tổ
quốc, bảo vệ thành quả cách mạng. Cần nhấn mạnh rằng, Hồ Chí Minh ln
ln trung thành, coi trọng, kính yêu các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác Lênin
và chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng quân sự và phong cách tư duy quân sự
của các nhà kinh điển, đặc biệt là Lênin. Những vấn đề này biểu hiện trong
các bài nói, bài viết, qua việc huấn luyện cán bộ và chỉ đạo hoạt động quân sự
của Người.
Huấn luyện “Đường cách mệnh” cho những lớp cán bộ cách mạng đầu
tiên, Hồ Chí Minh quan tâm truyền đạt đến họ tinh thần cơ bản của Học
thuyết quân sự vô sản một cách cụ thể, thiết thực, sáng tạo, gắn liền với hồn
cảnh lịch sử. Giải thích vì sao nước ta phải tiến hành “Dân tộc cách mệnh” và
con đường cách mạng bạo lực là tất yếu của cuộc cách mạng này, Người nói
là do “bọn cường quyền này bắt dân tộc kia làm nô lệ, như Pháp với An Nam.



23
Đến khi dân nô lệ âý chịu không nổi nữa, tỉnh ngộ lên, đoàn kết lại, biết rằng
thà chết được tự do hơn sống làm nô lệ, đồng tâm hiệp lực đánh đuổi tụi áp
bức mình đi” [38, tr.265]. Người đánh giá dân chúng có sức mạnh rất to lớn,
nhưng muốn đạt được điều đó “phải đồn kết dân chúng, chứ không phải chỉ
nhờ 5, 7 người, giết 2, 3 anh vua, 9, 10 anh quan là được” [38, tr.276]. Người
chỉ dẫn cho cán bộ ta phải cảnh giác không nên rơi vào quan điểm “vũ khí
luận” của giai cấp tư sản, “dân khí mạnh, thì qn lính nào, súng ống nào
cũng không chống lại được” [38, tr.274]. Để khắc phục quan điểm sai lầm này
phải coi trọng công tác dân vận, ra sức tập hợp lực lượng và tổ chức dân
chúng lại. Cách làm đó rất phù hợp với so sánh lực lượng địch ta, nhất là
trong thời kỳ chuẩn bị khởi nghĩa. Phương pháp huấn luyện quân sự của Hồ
Chí Minh tạo cho cán bộ ta dễ nhớ, dễ hiểu và hiểu sâu sắc, bởi mỗi luận điểm
tư tưởng, lý luận đều được gắn với hoàn cảnh lịch sử nhất định và với mỗi
quốc gia. Từ cuộc cách mạng Mỹ (1776), Người chỉ rõ nhân dân ta đã làm
cách mạng thì phải làm đến nơi chứ đừng như cách mạng Mỹ; khi chính
quyền giành được thì phải giao cho dân chúng số nhiều, thế mới không phải
làm lại cách mạng lần nữa. Bàn về cách mạng Pháp (1789), Người đánh giá
cao vai trò quần chúng nhân dân, trong đó cơng nơng là gốc của sức mạnh âý.
Tuy vậy, muốn thành cơng thì phải có tổ chức rất vững bền. Người đúc rút
kinh nghiệm ở cách mạng vô sản Nga (1917) trên nhiều lĩnh vực: tổ chức lực
lượng; thời cơ khởi nghĩa; nghệ thuật tấn công và những yêu cầu về xây dựng
Đảng để lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang.
Chun đề qn sự đầu tiên Hồ Chí Minh trình bày là “Công tác quân
sự của Đảng trong nông dân” tại trường quân sự của những người cộng sản
Đức ở Mátcơva năm 1927 [38, tr.428]. Trong chuyên đề này, Người nêu vai
trị của Đảng trong tổ chức du kích và lãnh đạo chiến tranh du kích, thực chất
là những quan điểm qn sự vơ sản trong chiến tranh du kích. Những luận



24
điểm về khởi nghĩa tồn dân; tổ chức du kích ở khắp các địa phương; các điều
kiện căn bản để lập đội du kích; chỉ huy các đội du kích... được Người nêu lên
đều gắn với một hoàn cảnh, một địa danh nhất định nên sinh động và có sức
thuyết phục cao. Người tổng kết kinh nghiệm du kích Nga, Bungari, Ấn Độ...
nhưng nhiều nhất là phong trào du kích Trung Quốc. Quá trình giới thiệu
những quan điểm quân sự cho các đồng chí của mình, Hồ Chí Minh rất chú ý
khuyến khích tư duy linh hoạt, sáng tạo, đề phịng máy móc, giáo điều, dẫn
đến hỏng việc. Người nói: những nguyên tắc, lý luận về du kích và chiến
tranh du kích phải đặt trong hồn cảnh cụ thể, “phải tính đến những nét đặc
thù của từng nước, mục tiêu của phong trào ở từng thời kỳ, vũ khí hiện có
(hoặc có thể có trong q trình chiến đấu” [38, tr.428]. Như vậy, một lần nữa
chứng tỏ Hồ Chí Minh luôn luôn gắn chặt tư tưởng, lý luận quân sự vào các
hoạt động cụ thể, khiến cho người học hình thành phong cách tư duy uyển
chuyển, linh hoạt, sáng tạo.
Tiếp thu Học thuyết quân sự Mácxít và học tập phong cách tư duy quân
sự của các nhà kinh điển Mác Lênin, Người đã viết các tác phẩm: “Con
đường giải phóng” (1940); “Cách đánh du kích” (4 tập 1941 – 1944); “Kinh
nghiệm du kích Tầu”; “Kinh nghiệm du kích Nga”; dịch và giới thiệu “Binh
pháp của ông Tôn Tử” (1945)... làm tài liệu huấn luyện cán bộ. Tư duy quân
sự và phong cách tư duy quân sự còn được thể hiện trong thực tiễn chỉ đạo
khởi nghĩa và chiến tranh, ở sự hoạt động phong phú, sáng tạo của những học
trò của Người trong hoạt động quân sự. Sự chỉ dẫn của Người đối với Tổng tư
lệnh quân đội và Người cho những ý kiến để Tổng Bí thư Trường Chinh viết
tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi”... đã chứng tỏ điều đó.
Nhìn lại phương pháp và nội dung huấn luyện quân sự, các tác phẩm
quân sự của Người viết và dịch, sự chỉ dẫn của Người về lãnh đạo, chỉ huy
quân sự cho cán bộ Đảng, Nhà nước, Quân đội, ta thấy Hồ Chí Minh có sự kế



25
thừa rõ nét tư duy quân sự và phong cách tư duy quân sự của các nhà mácxít.
Những đặc điểm về phong cách tư duy quân sự của các Ông như: Tư duy
quân sự và giải quyết những vấn đề quân sự luôn luôn hướng tới thực hiện
mục tiêu cách mạng; quán triệt tư duy biện chứng trong lĩnh vực quân sự; lý
luận quân sự không tách rời thực tiễn; quyết tâm lớn, sáng tạo cao trong giải
quyết các tình huống quân sự... được Hồ Chí Minh kế thừa và nâng lên tầm
cao mới, phù hợp với phong cách tư duy quân sự phương Đông và Việt Nam.
Nhận định về mối quan hệ tư tưởng quân sự của chủ nghĩa Mác Lênin với tư
tưởng quân sự Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp viết: “Đó là tư tưởng quân sự
của chủ nghĩa Mác Lênin đã được Người vận dụng trong lĩnh vực quân sự”
[24, tr.191]. Nếu phương pháp và phong cách thể hiện một cách tập trung ở hệ
tư tưởng thì phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh cũng là phong cách tư
duy quân sự kiểu mácxít.
Ba là, phong cách tư duy qn sự Hồ Chí Minh hình thành và phát
triển trên cơ sở tiếp thu tinh hoa quân sự của thế giới.
Sống ở Pháp thời gian tương đối dài, Người đã chăm chú nghiên cứu
nền quân sự Pháp, kẻ thực dân đang thống trị nước ta. Người đặc biệt quan
tâm đến thời kỳ lịch sử 1792 – 1804 là lúc thành lập nước Pháp Cộng hoà lần
thứ nhất, quan tâm đến Công xã Pari, đến danh tướng Napôlêông LuiBơnapác
(1769 – 1821).
Người ca ngợi dân tộc Pháp có tinh thần ái quốc. “Dân Pháp tuy lương
thực ít, súng ống thiếu, nhưng nhờ gan cách mệnh mà trong dẹp nội
loạn, ngồi phá cường quyền. Hồi âý lính cách mệnh gọi là “lính khơng
quần” (khơng được trang bị quần ngắn như qn đội q tộc), người
khơng có nón, kẻ khơng có giày, áo quần rách tua, mặt gầy bụng đói.
Thế mà lính ấy đến đâu, thì lính ngơại quốc thua đấy, vì họ gan liều hy
sinh q, khơng ai chống nổi” [38, tr.272].



×