Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ phát triển nguồn đào tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân văn ở trường sĩ quan chính trị hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (887.21 KB, 106 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

Chương 1

1.1.
1.2.
1.3.

Chương 2

2.1.
2.2.
2.3.
Chương 3

3.1.

3.2.
3.3.

3
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN
ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ
NHÂN VĂN
Những khái niệm cơ bản của đề tài
Nội dung phát triển nguồn đào tạo giáo viên khoa học
xã hội và nhân văn
Yếu tố chi phối đến phát triển nguồn đào tạo giáo
viên khoa học xã hội và nhân văn ở Trường Sĩ quan


Chính trị
CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN
ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ
NHÂN VĂN Ở TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH TRỊ
Khái qt tình hình đào tạo giáo viên khoa học xã hội
và nhân văn ở Trường sĩ quan chính trị
Thực trạng chất lượng nguồn đào tạo giáo viên khoa
học xã hội và nhân văn ở Trường Sĩ quan Chính trị
Thực trạng phát triển nguồn đào tạo giáo viên khoa
học xã hội và nhân văn ở trường sĩ quan chính trị
YÊU CẦU, BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN ĐÀO
TẠO GIÁO VIÊN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN
VĂN Ở TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH TRỊ
Yêu cầu trong phát triển nguồn đào tạo giáo viên
khoa học xã hội và nhân văn ở Trường Sĩ quan
Chính trị
Biện pháp phát triển nguồn đào tạo giáo viên khoa
học xã hội và nhân văn ở Trường Sĩ quan Chính trị
Khảo nghiệm sự cần thiết, tính khả thi của các biện
pháp phát triển nguồn đào tạo giáo viên khoa học xã
hội và nhân văn

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

12
12
23


28

35
35
39
43

56

56
59

75
80
83
87


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến nguồn lực con người, xem
nguồn lực con người là nhân tố quyết định sự phát triển bền vững của đất
nước. Chính vì vậy, trong q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta
ln coi trọng nhiệm vụ giáo dục và đào tạo. Trong mọi thời đại và mọi kiểu
dạy học, chất lượng dạy học phụ thuộc rất lớn vào chất lượng đội ngũ nhà
giáo. Nghị quyết Hội nghị lần thứ Hai Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII
khẳng định: “Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và được xã
hội tôn vinh. Giáo viên phải có đủ đức, tài” [11, tr.38 - 39]. Điều 15 Luật
Giáo dục (2005) ghi rõ: “Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc bảo đảm
chất lượng giáo dục. Nhà giáo phải không ngừng học tập, rèn luyện nêu

gương tốt cho người học” [24, tr.15]. Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao
vai trị của đội ngũ nhà giáo trong xã hội và trong sự nghiệp cách mạng,
Người nói: “Nhiệm vụ giáo dục rất quan trọng và vẻ vang, vì nếu khơng có
thầy thì khơng có giáo dục... Khơng có giáo dục, khơng có cán bộ thì cũng
khơng nói gì đến kinh tế văn hóa. Trong việc đào tạo cán bộ, giáo dục là
bước đầu” [25, tr.184].
Đội ngũ cán bộ, giáo viên là một trong những lực lượng nòng cốt của
nhà trường, là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục đào tạo, nghiên cứu
khoa học và xây dựng nhà trường chính quy, tiên tiến mẫu mực. Đào tạo,
xây dựng đội ngũ giáo viên có đủ phẩm chất năng lực, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là vấn đề cơ bản,
thường xuyên là nhiệm vụ chính trị trung tâm của nhà trường quân đội.
Đội ngũ giáo viên các mơn KHXH&NV có vai trị hết sức quan trọng,
họ không chỉ là những người truyền thụ kiến thức, phát triển năng lực cho
người học mà còn trực tiếp giáo dục hình thành, phát triển phẩm chất nhân cách
cho những sĩ quan quân đội. Đề án kiện toàn, phát triển đội ngũ nhà giáo quân
đội chỉ rõ: “Đội ngũ nhà giáo quân đội là lực lượng nòng cốt, giữ vai trò quyết
định chất lượng GD - ĐT trong các trường quân đội” [7, tr.1]. Đào tạo đội ngũ

2


giáo viên KHXH&NV vừa góp phần xây dựng đội ngũ nhà giáo, vừa góp phần
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đấu tranh trên mặt trận tư tưởng và cán bộ NCKH.
Để nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ giáo viên KHXH&NV trong các nhà
trường quân sự cần phải giải quyết nhiều vấn đề, trong đó phát triển nguồn đào tạo
giáo viên là một trong những nội dung cơ bản hàng đầu.
Trường SQCT là một trung tâm đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội
và giáo viên KHXH&NV cho quân đội. Nâng cao chất lượng đào tạo giáo
viên KHXH&NV là vấn đề cấp thiết đang đặt ra trong giai đoạn hiện nay.

Nhận thức được tầm quan trọng vấn đề này, những năm qua, Thường vụ Đảng
ủy, Ban Giám hiệu Nhà trường đã quan tâm đầu tư vào nguồn đào tạo giáo viên
KHXH&NV thơng qua các chính sách về tuyển chọn, đào tạo, thực hiện các chính
sách đãi ngộ. Nguồn đào tạo giáo viên phải chặt chẽ, công tâm kiên quyết loại
bỏ các đồng chí nói ngọng, nói lắp, sử dụng nhiều tiếng địa phương, những
đồng chí khơng có tố chất sư phạm, chưa thực sự có động cơ, xu hướng nghề
nghiệp sư phạm. Hình thức và phương pháp kiểm tra bằng trắc nghiệm khách
quan, thông qua phiếu hỏi hoặc hỏi trực tiếp.
Trong thời gian qua nhà trường đã chú trọng, thường xuyên chăm lo
vấn đề đào tạo giáo viên KHXH&NV, phát triển nguồn đào tạo đã thường
xuyên được quan tâm chú trọng, nhờ đó chất lượng nguồn đào tạo giáo viên
KHXH&NV ở nhà trường đã có những chuyển biến tích cực.
Kết quả đó đã góp phần khẳng định chất lượng, hiệu quả của việc phát triển
nguồn đào tạo giáo viên KHXH&NV là đúng định hướng và cố gắng lớn của các cấp
lãnh đạo, chỉ huy và cơ quan chức năng ở Nhà trường.
Tuy nhiên việc phát triển nguồn đào tạo giáo viên KHXH&NV của Nhà
trường vẫn cịn có những bất cập. Số lượng học viên tham gia tuyển chọn
chưa nhiều, chất lượng nguồn cịn có những hạn chế .
Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ GD - ĐT của Nhà trường hiện nay, cần đi
sâu nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn, từ đó xây dựng những
biện pháp cơ bản về phát triển nguồn đào tạo giáo viên KHXH&NV. Vì vậy, tác
giả lựa chọn vấn đề: “Phát triển nguồn đào tạo giáo viên khoa học xã hội và
nhân văn ở Trường sĩ quan Chính trị hiện nay” làm đề tài nghiên cứu.

3


2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề phát triển nguồn đào tạo giáo viên KHXH&NV là một trong những
vấn đề luôn thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của các nhà khoa học, nhà quản lý,

nhà giáo trong nước và nước ngoài, trong và ngoài qn đội ở nhiều góc độ khác
nhau.
Ở Liên Xơ cũ (trước đây) và nước Nga bây giờ, việc phát triển nguồn
đào tạo, bồi dưỡng giáo viên được coi trọng cả phẩm chất nhân cách và trình
độ chun mơn, năng khiếu sư phạm, phương pháp tư duy khoa học. Giáo
viên luôn được tạo điều kiện để tự rèn luyện về phẩm chất và năng lực công tác.
Trong các nhà trường quân sự, giáo viên được coi trọng giáo dục về niềm tin
cộng sản chủ nghĩa và tính nguyên tắc; tinh thần hồn hảo; sự trong sạch về đạo
đức; tính u cầu cao; lịng tơn trọng và u mến con người; sự liên hệ mật thiết
với con người; những phẩm chất ý chí: sự ngoan cường, tính kiên trì, tự chủ,
quyết tâm, chủ động; tính sáng tạo của tư duy.
Ở Việt Nam, truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “tôn sư trọng đạo” đã
trở thành giá trị văn hoá của dân tộc. Lịch sử dân tộc Việt Nam cũng ghi nhận
những đóng góp to lớn của các thế hệ nhà giáo đã cùng toàn thể nhân dân trong
cuộc đấu tranh dựng nước, giữ nước và bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc; người
thầy giáo luôn là tấm gương để mọi người noi theo, được xã hội tơn vinh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là vị lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt
Nam mà còn là nhà giáo dục tiêu biểu, Người luôn coi trọng và dành sự quan
tâm đặc biệt đến việc đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo. Theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh ‘‘nếu khơng có thầy giáo thì khơng có giáo dục, khơng có giáo dục,
khơng có cán bộ thì cũng khơng nói gì đến kinh tế, văn hóa’’. ‘‘Dù là tên
tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những
người thầy giáo tốt là những anh hùng vơ danh’’ [25, tr.332]. Chủ tịch Hồ
Chí Minh cũng thường dặn dò, động viên đội ngũ nhà giáo: ‘‘Các thầy giáo
có nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang là đào tạo cán bộ cho dân tộc...Thầy thi đua
dạy, trò thi đua học”, ‘‘chớ tự túc, tự mãn, cho là giỏi rồi thì dừng lại, mà
dừng lại là lùi bước, là lạc hậu, mình tự đào thải trước. Cho nên phải cố gắng

4



học tập để cải tạo mình, cải tạo tư tưởng của mình, cải tạo con em và giúp vào
việc cải tạo xã hội’’. [25,tr.332]
Đặc biệt Chủ tịch Hồ Chí Minh ln nhắc nhở Chính phủ, các địa phương,
các cấp, các ngành phải chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, Người chỉ thị:
‘‘giáo dục nhằm đào tạo những người kế tục sự nghiệp cách mạng to lớn của Đảng và
nhân dân ta, do đó việc các ngành, các cấp phải thực sự quan tâm đến sự nghiệp này,
phải chăm sóc nhà trường về mọi mặt đẩy sự nghiệp giáo dục của ta lên những bước
phát triển mới’’. [26,tr.333]
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng cho rằng: Nghề thầy giáo là nghề cao quý
nhất trong những nghề cao quý, là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục; vì thế
nhà giáo phải luôn phấn đấu để khẳng định vị thế của mình; tích cực học hỏi,
trau dồi hiểu biết, rèn luyện đạo đức, không ngừng phấn đấu vươn lên.
Một trong những vấn đề quan trọng để góp phần nâng cao chất lượng phát
triển nguồn đào tạo giáo viên KHXH&NV chính là chất lượng “nguồn”.
“Nguồn” chính là những cá nhân có đủ tiêu chuẩn để đào tạo thành những người
giáo viên ưu tú. “Nguồn” tốt, phong phú dồi dào sẽ là nền tảng cực kỳ quan
trọng để tiếp thu nội dung đào tạo, xây dựng và rèn luyện phẩm chất năng lực
người giáo viên KHXH&NV hiện nay.
Trong những năm qua, vấn đề phát triển đội ngũ giáo viên nói chung và
phát triển giáo viên KHXH&NV nói riêng đã có nhiều nhà khoa học, nhiều
cơ quan, đơn vị nghiên cứu; các công trình nghiên cứu khoa học đã đề cập
đến nhiều góc độ, nội dung liên quan đến vấn đề phát triển giáo viên
KHXH&NV, đáng chú ý là:
Tác giả Bùi Minh Hiền cho rằng nội dung phát triển đội ngũ giáo viên
phải coi trọng ba vấn đề chủ yếu: Đủ về số lượng, đạt chuẩn về chất lượng,
đồng bộ về cơ cấu. Tác giả đã chỉ ra những điều cần chú ý phát triển đội ngũ
giáo viên trong khâu kế hoạch, khâu tổ chức - chỉ đạo, khâu kiểm tra; đồng
thời chỉ ra biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên là phải kết hợp hài hòa các
yếu tố như: Người lãnh đạo nhà trường phải gương mẫu, các giáo viên phải

hiểu được nhiệm vụ, quyền hạn của mình, được giúp đỡ để thực hiện quyền tự

5


chủ trong tổ chức đào tạo, tạo ra được mối liên hệ giữa các cá nhân hợp lý;
nhà trường xác định được sứ mệnh, tầm nhìn và chiến lược hành động, xây
dựng được hệ thống thông tin quản lý giáo dục minh bạch, công khai, xây
dựng được một hệ giá trị tạo nên văn hóa đặc trưng của nhà trường phù hợp
với hệ giá trị tiên tiến của đất nước[14].
Trong quân đội, những năm gần đây và hiện nay “Chuẩn hóa” đội ngũ giáo
viên, vấn đề phát triển nguồn đào tạo giáo viên KHXH&NV ở các học viện, nhà
trường thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của các nhà khoa học, các nhà giáo và các
nhà quản lý giáo dục. Các tác giả Hoàng Linh, Lê Hồng Quang trong tài liệu: “Mơ
hình người giáo viên KHXH&NV ở các nhà trường quân sự” (1984)[23], đã đề cập
đến những yếu tố cơ bản trong thành phần năng lực của người giáo viên như: Kỹ
năng truyền đạt kiến thức và kỹ xảo có được; kỹ năng mơ hình hố mục tiêu đào
tạo; kỹ năng điều khiển trí tuệ học viên; kỹ năng sử dụng phương tiện kỹ thuật dạy
học; kỹ năng tự chủ trong các trạng thái tâm lý.
Đề tài khoa học: “Hoàn thiện mơ hình mục tiêu, nội dung chương trình
đào tạo giảng viên khoa học xã hội và nhân văn quân sự ở Học viện Chính
trị Quân sự” (2004)[18] của tác giả Nguyễn Xuân Thành cũng đã đề cập tới
thực trạng mơ hình mục tiêu, nội dung chương trình đào tạo giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn quân sự hiện nay, phát hiện và khái quát
những mâu thuẫn cần giải quyết.
Tác giả Nguyễn Văn Chung với Đề tài: “Giải pháp bồi dưỡng năng lực dạy
học của đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong các trường sĩ quan
quân đội” (2012) [9], tiếp cận dưới góc độ khoa học liên ngành, chuyên ngành,
đề tài đã luận giải làm sáng tỏ cơ sở lý luận, thực tiễn, xây dựng, đề xuất những
giải pháp có tính ngun tắc chỉ đạo hoạt động bồi dưỡng năng lực dạy học của

đội ngũ giáo viên KHXN&NV...một trong những vấn đề có tính đột phá trong
nâng cao hiệu quả giảng dạy của giáo viên, đáp ứng yêu cầu đổi mới GD- ĐT
trong các nhà trường qn đội hiện nay.
Ngồi ra cịn có cơng trình: “Tổ chức q trình dạy học các mơn khoa
học xã hội và nhân văn ở đại học quân sự” (2007)[45] và “Quy trình đánh

6


giá năng lực sư phạm quân sự của đối tượng tuyển chọn đào tạo giảng viên
hiện nay” (2009)[46] của tác giả Lê Minh Vụ đã đề cập đến các vấn đề về
năng lực sư phạm; quy trình đánh giá năng lực sư phạm quân sự; một số vấn
đề rút ra từ việc đánh giá, tuyển chọn nguồn đào tạo giáo viên hiện nay và đề
ra các giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện quy trình đánh giá năng lực
sư phạm quân sự của đối tượng đào tạo giáo viên hiện nay.
Cơng trình khoa học: “Đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn ở Học viện Chính trị thời kỳ mới” (2012)[15]
của tập thể các nhà khoa học do Mai Văn Hóa và Lê Quang Trường đồng chủ
biên, đã đề cập đến các vấn phẩm chất, năng lực của người giảng viên
KHXH&NV; hệ thống và khái quát hóa lý luận đổi mới và nâng cao chất
lượng đào tạo giáo viên KHXH&NV.
Liên quan đến bồi dưỡng, quản lý, phát triển đội ngũ giáo viên ở các nhà
trường khác nhau, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu của các tác giả về những
vấn đề này như: Luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Duy Sinh “Thực trạng và biện
pháp quản lý đội ngũ giáo viên ở trường Trung cấp Kỹ thuật Hải quân”
(2011). Về phát triển đội ngũ giáo viên các trường chuyên nghiệp có các cơng
trình như: Luận văn thạc sĩ của tác giả Trương Quang Tùng, nghiên cứu giải
pháp “Quản lý phát triển đội ngũ giáo viên trường Trung cấp Kỹ thuật Hải
quân hiện nay” (2011).
Luận văn thạc sĩ: “Chuẩn hóa đội ngũ giảng viên Trường Sĩ quan Chính trị”

(2010) [32] của tác giả Trần Ngọc Tam, tiếp cận dưới góc độ khoa học quản lý
giáo dục, tác giả đã làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn của chuẩn hóa đội ngũ
giáo viên; phân tích làm rõ thực trạng, đề xuất những biện pháp chuẩn hóa đội
ngũ giáo viên Trường SQCT hiện nay. Kết quả nghiên cứu của tác giả là tư liệu
để tham khảo trong quá trình triển khai nghiên cứu làm đề tài.
Với các bài báo, bài tham luận khoa học của các tác giả. Tác giả Trần Trung
Khương với bài viết: “Nâng cao chất lượng đào tạo ở Trường Sĩ quan Chính trị theo
tinh thần nghị quyết 86/NQ - ĐUQSTƯ của Đảng uỷ Quân sự Trung ương” (2010)
[19]. Bài viết: “khuyết điểm trong xây dựng đội ngũ nhà giáo sau kiểm điểm theo

7


Nghị quyết Trung ương 4 - Khoá 11” (2013) [20]. Ngồi ra cịn có các bài báo
khoa học, các tham luận hội thảo khoa học, báo cáo tổng kết...đề cập tới phát triển
nguồn đào tạo giáo viên KHXH&NV trong Nhà trường.
Tuy nhiên, luận giải một cách trực tiếp và có hệ thống về phát triển nguồn
đào tạo giáo viên KHXH&NV ở Trường SQCT hiện nay trên cơ sở của khoa
học quản lý giáo dục thì chưa có cơng trình nào đề cập. Do đó nghiên cứu vấn
đề phát triển nguồn đào tạo giáo viên KHXH&NV ở trường SQCT đang là vấn
đề có ý nghĩa quan trọng, cấp thiết, nhằm cung cấp những luận chứng khoa
học, thực tiễn cho phát triển nguồn và nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên
KHXH&NV trong quân đội hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn của vấn đề phát triển nguồn
đào tạo giáo viên KHXH&NV; đề xuất hệ thống biện pháp phát triển
nguồn đào tạo giáo viên KHXH&NV, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo
giáo viên KHXH&NV ở Trường SQCT.
Nhiệm vụ nghiên cứu

Làm rõ cơ sở lý luận về phát triển nguồn đào tạo giáo viên KHXH&NV ở
Trường SQCT.
Khảo sát, đánh giá thực trạng phát triển nguồn đào tạo giáo viên
KHXH&NV ở Trường SQCT.
Đề xuất các biện pháp phát triển nguồn đào tạo giáo viên KHXH&NV
nhằm nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên KHXH&NV ở Trường SQCT.
4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Khách thể nghiên cứu: Quản lý quá trình đào tạo giáo viên
KHXH&NV ở Trường SQCT hiện nay.
Đối tượng nghiên cứu: Phát triển nguồn đào tạo giáo viên
KHXH&NV ở Trường SQCT.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu biện pháp phát triển
nguồn đào tạo giáo viên KHXH&NV ở Trường SQCT. Các tài liệu, số liệu
được sử dụng trong phạm vi từ năm 2010 đến nay.

8


5. Giả thuyết khoa học
Chất lượng đào tạo giáo viên KHXH&NV ở Trường SQCT là kết quả
tổng hợp của nhiều yếu tố, trong đó phát triển nguồn đào tạo giáo viên
KHXH&NV giữ vai trò rất quan trọng. Nếu thực hiện hệ thống biện pháp
phát triển nguồn đào tạo giáo viên KHXH&NV một cách khoa học, chặt chẽ,
như: Thống nhất nhận thức, đề cao ý thức trách nhiệm của các lực lượng
tham gia phát triển nguồn đào tạo giáo viên KHXH&NV; nghiên cứu, bổ
sung, hoàn thiện và ban hành các văn bản, quy chế, quy định phát triển
nguồn đào tạo giáo viên KHXH&NV; kế hoạch hóa hoạt động phát triển
nguồn; tăng cường kiểm tra, đánh giá kết quả đào tạo giáo viên
KHXH&NV; Thì chất lượng phát triển nguồn sẽ được đảm bảo. Qua đó,
góp phần nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên KHXH&NV ở Trường

SQCT hiện nay.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận: Đề tài được xây dựng dựa trên cơ sở
phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo
dục, đào tạo và quản lý giáo dục về phát triển nguồn đào tạo giáo viên
KHXH&NV. Quá trình luận giải các vấn đề khoa học, đề tài tiếp cận vấn đề
nghiên cứu trên cơ sở quan điểm hệ thống - cấu trúc, quan điểm lịch sử lơgíc và quan điểm thực tiễn.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học
chuyên ngành và khoa học liên ngành, bao gồm:
Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Phương pháp phân tích, tổng
hợp hệ thống hóa, khái qt hóa một số tác phẩm kinh điển Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện, nghị quyết của các cấp ủy Đảng về giáo
dục đào tạo; các văn bản quản lý giáo dục của nhà nước, của quân đội, các
tài liệu chuyên ngành khoa học quản lý giáo dục, giáo dục học, các tài liệu
khoa học, các văn bản pháp quy về đào tạo giáo viên KHXH&NV trong
quân đội.

9


Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động phát triển nguồn đào tạo giáo
viên KHXH&NV để rút ra những kết luận về nội dung nghiên cứu.
Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: Điều tra với 200 phiếu với các đối
tượng cán bộ quản lý giáo dục, giảng viên các khoa chuyên ngành đào tạo
giáo viên và học viên về vấn đề phát triển nguồn.
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm: Nghiên cứu các báo cáo tổng kết
của Trường SQCT từ năm 2010 đến nay.

Các phương pháp hỗ trợ:
Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến chuyên gia về các vấn đề phân
tích, đánh giá và những biện pháp đề xuất.
Phương pháp toán học: Nhằm xử lý số liệu, tài liệu đã thu thập được
thông qua các phương pháp khác.
7. Ý nghĩa của đề tài
Góp phần bổ sung lý luận về phát triển nguồn đào tạo giáo viên
KHXH&NV nói riêng ở Trường SQCT.
Đề xuất hệ thống biện pháp phát triển nguồn đào tạo giáo viên
KHXH&NV ở Trường SQCT .
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể là tài liệu tham khảo giúp cho các
lực lượng sư phạm để chỉ đạo, thực hiện, phát triển nguồn đào tạo giáo viên
KHXH&NV nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của quá trình đào tạo giáo
viên KHXH&NV ở Trường SQCT. Đồng thời là tài liệu phục vụ cho giảng
dạy và nghiên cứu khoa học ở Nhà trường.
8. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: Mở đầu, 3 chương (9 tiết), kết luận và kiến nghị, danh
mục tài liệu tham khảo, phụ lục

10


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁT TRIỂN NGUỒN ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂNVĂN
1.1. Những khái niệm cơ bản của đề tài
1.1.1. Giáo viên khoa học xã hội nhân văn
Ở các nhà trường quân đội, đội ngũ giáo viên KHXH&NV là những
người được đào tạo cơ bản, chính quy cả về chun mơn và nghề nghiệp sư
phạm, làm nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu các môn KHXH&NV quân sự.

Đội ngũ đó có nhiệm vụ rất quan trọng trong quá trình đào tạo cán bộ sĩ quan
của quân đội ta, cụ thể là:
Trang bị cho học viên hệ thống kiến thức cơ bản và toàn diện của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng
cộng sản Việt Nam, chính sách, pháp luật của Nhà nước, yêu cầu nhiệm vụ
của quân đội.
Trên cơ sở đó hình thành cho học viên những kiến thức, kỹ xảo, kỹ
năng nghề nghiệp, hình thành kỹ năng, tay nghề tiến hành công tác lãnh đạo,
chỉ huy, quản lý, huấn luyện và giáo dục bộ đội.
Người giáo viên KHXH&NV phải thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng,
bồi dưỡng, hình thành ở học viên thế giới quan khoa học, niềm tin cộng sản
chủ nghĩa, giáo dục các phẩm chất đạo đức cách mạng, lòng yêu nghề nghiệp
quân sự, sự trung thành tuyệt đối với Đảng, với Nhà nước, với chế độ xã hội
chủ nghĩa; sự kiên định vững vàng về mục tiêu, lý tưởng cộng sản, về con
đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, chăm lo đến sự phát triển toàn
diện nhân cách của người cán bộ quân đội.
Người giáo viên KHXH&NV ở các nhà trường quân đội cần phải thực
hiện tốt nhiệm vụ phát triển năng lực trí tuệ cho học viên. Tạo ra tiềm lực vững
chắc để học viên sau khi tốt nghiệp có đủ điều kiện để tiếp tục phát triển năng
lực tự học, tự nghiên cứu, có tính sáng tạo cao và khả năng thích nghi nhanh
với yêu cầu, đặc điểm của các loại hình hoạt động quân sự.

11


Người giáo viên KHXH&NV cịn có trách nhiệm trong việc nghiên cứu
đấu tranh, bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, góp phần giữ
vững trận địa chính trị, tư tưởng của Đảng trong quân đội.
Từ những nhiệm vụ cơ bản của giáo viên KHXH&NV ở các nhà trường

quân đội cho thấy việc nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ giáo viên
KHXH&NV là một yêu cầu vừa cơ bản, vừa cấp thiết.
Từ cách tiếp cận trên tác giả quan niệm: Giáo viên khoa học xã hội và
nhân văn trong các nhà trường quân đội là một bộ phận của đội ngũ giáo viên
của các nhà trường là lực lượng đảm nhiệm nhiệm vụ giảng dạy, truyền thụ
những kiến thức cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối quan điểm của Đảng, các môn khoa học xã hội góp phần trang bị
kiến thức, rèn luyện kỹ xảo, kỹ năng, hình thành thái độ và các phẩm chất nhân
cách của người cán bộ quân đội trong thời kỳ mới.
1.1.2. Nguồn đào tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân văn
Theo nghĩa chung nhất, nguồn là nơi bắt đầu hoặc là cơ sở sinh ra, tạo nên
một sự vật, sự việc, hiện tượng nào đó của tự nhiên hay trong đời sống xã hội.
Mọi sự vật, sự việc, hiện tượng đều phát sinh, phát triển theo những quy
luật khách quan vốn có. Nơi sinh thành cùng với những điều kiện, tố chất nhất
định để góp phần tạo nên sự vật hiện tượng đó được gọi là nguồn.
Theo đó, có thể hiểu: Nguồn là nơi sinh thành và là cái tạo ra sự vật,
hiện tượng trong tự nhiên cũng như trong đời sống xã hội. Khơng có nguồn sẽ
khơng có sự vật, hiện tượng tồn tại. Nguồn cạn kiệt, mất đi sẽ làm cho sự vật,
hiện tượng suy thoái và mất theo. Là nơi sinh thành, nguồn là quê hương, gốc
rễ của mỗi người, mỗi cộng đồng, tổ chức xã hội.
Nguồn có hai loại: nguồn tự nhiên là những cái có sẵn trong tự
nhiên, vận động, biến đổi và phát triển theo đúng quy luật của tự nhiên,
người ta có thể xem xét lựa chọn và tận dụng nó; nguồn nhân tạo cũng là
những cái vốn có trong tự nhiên hoặc xã hội, đó được con người tác động,
biến đổi làm cho nó có chất lượng mới để tạo nên một sự vật, hiện tượng

12


nào đó thoả mãn nhu cầu của con người. Quá trình tác động biến đổi ấy

được gọi là quá trình tạo nguồn.
Trong quy trình đào tạo, nguồn đào tạo có vai trò rất quan trọng, là
cái tạo nên sự vật, trong nguồn hàm chứa những điều kiện, tố chất cần
thiết, đây là tiền đề vật chất rất quan trọng để đào tạo, bồi dưỡng. Chất
lượng nguồn ảnh hưởng lớn đến quá trình đào tạo và sản phẩm đào tạo.
Chất lượng nguồn tác động trực tiếp đến tiến trình phát triển và quyết định
chất lượng của chính sự vật, hiện tượng được tạo nên từ nguồn đó.
Đội ngũ giáo viên các môn KHXH&NV là lực lượng đảm nhiệm giảng
dạy, truyền thụ những kiến thức cơ bản về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng, các mơn khoa học xã hội và nhân
văn góp phần trang bị kiến thức, rèn luyện kỹ xảo, kỹ năng, hình thành thái độ
và các phẩm chất nhân cách của người cán bộ quân đội trong thời kỳ mới. Để
đào tạo đội ngũ giáo viên KHXH&NV có phẩm chất, năng lực tốt, đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ đặt ra, địi hỏi phải có nguồn tốt. Nguồn đào tạo giáo viên
KHXH&NV khơng tự nhiên có, mà là kết quả hoạt động tích cực của các tổ
chức, các lực lượng cả trong và ngoài quân đội.
Từ cách tiếp cận như trên, tác giả quan niệm: Nguồn đào tạo giáo viên
khoa học xã hội và nhân văn ở Trường Sĩ quan Chính trị là những học viên đã
trúng tuyển trong kỳ thi tuyển sinh quân sự và xét tuyển theo quy chế của Bộ
Giáo dục và Đào tạo, Bộ Quốc phòng được đào tạo chính trị viên đang học
năm thứ nhất ở Nhà trường có nguyện vọng được lựa chọn, giáo dục, bồi
dưỡng, rèn luyện từng bước đáp ứng yêu cầu về tiêu chuẩn chính trị, phẩm
chất đạo đức, năng lực nhận thức, năng khiếu sư phạm, các yếu tố tâm lý, trình
độ học vấn, sức khoẻ và tuổi đời để được đào tạo trở thành giáo viên các môn
khoa học xã hội và nhân văn trong quân đội.
Như vậy, nguồn đào tạo giáo viên KHXH&NV bao gồm:
Nguồn đào tạo giáo viên KHXH&NV hiện nay là học sinh và hạ sĩ quan,
chiến sĩ đã tốt nghiệp phổ thông trung học hoặc đang thực hiện nghĩa vụ quân
sự, có nguyện vọng đăng ký và trúng tuyển kỳ thi tuyển sinh quân sự, được lựa


13


chọn thông qua Hội đồng tuyển chọn để đào tạo để trở thành giáo viên cấp
phân đội cho toàn quân.
Theo quy định của Bộ Quốc phòng và Bộ Giáo dục và Đào tạo, những đối
tượng được xếp vào nguồn đào tạo đào tạo giáo viên KHXH&NV phải có
những điều kiện, tiêu chuẩn cơ bản sau:
Một là, có lịch sử chính trị trong sạch rõ ràng, được cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền thừa nhận là khơng vi phạm những quy định về lịch sử chính trị, thân
nhân và bản thân chấp hành nghiêm Hiến pháp, pháp luật Nhà nước, đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng; khơng có các quan hệ phức tạp và khơng tham
gia các đảng phái chính trị đối lập. Bản thân phải là đoàn viên Đoàn thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh hoặc là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hai là, có phẩm chất đạo đức tốt, thanh niên phải là người được địa
phương, nhà trường cơng nhận có hạnh kiểm tốt, qn nhân gương mẫu, lao
động tiên tiến. Có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, ln đứng
vững trên lập trường giai cấp công nhân, quan điểm của Đảng để xem xét, đánh
giá mọi vấn đề. Có lối sống trong sáng, thật sự trung thực, liêm khiết khiêm tốn,
giản dị, tự giác chấp hành sự quản lý, kiểm tra giám sát của tổ chức, tích cực tu
dưỡng phẩm chất đạo đức, lối sống của bản thân không cục bộ bè phái gây mất
đồn kết trong đơn vị, thạt sự mơ phạm trong lời nói việc làm.
Ba là, đã tốt nghiệp (có bằng hoặc chứng nhận) phổ thông trung học được
ghi trong học bạ hay bằng tốt nghiệp, giấy nhận xét, xác nhận và kết quả thi
tuyển sinh quân sự, cử nhân đại học dân sự hoặc cao đẳng quân sự.
Bốn là, có sức khoẻ, hình thể đáp ứng với u cầu học tập, rèn luyện và
hoạt động, công tác của giáo viên KHXH&NV, sau khi tốt nghiệp ra trường
thực hiện theo các quy định cụ thể.
Năm là, có tuổi đời phù hợp với quy định. Học sinh phổ thông trung học
từ 17 - 22 tuổi, hạ sĩ quan - chiến sĩ tại ngũ và xuất ngũ từ 18 - 23; sinh viên

không quá 27 tuổi.
Nguồn đào tạo giáo viên KHXH&NV được hình thành thơng qua hai con
đường là: Hình thành mang tính tự phát và hình thành có sự chuẩn bị của tổ chức.

14


Con đường hình thành mang tính tự phát, chủ yếu do định hướng của
gia đình và nhu cầu của từng cá nhân mong muốn được thể hiện giá trị xã hội
và khả năng của chính mình, hoặc nhu cầu nghề nghiệp để bảo đảm cuộc
sống, tương lai của bản thân, nên đã nỗ lực học tập, tu dưỡng, rèn luyện phấn
đấu để có đủ điều kiện đào tạo trở thành giáo viên KHXH&NV.
Nguồn đào tạo giáo viên các môn KHXH&NV được hình thành từ con
đường này thường là những người có trình độ học vấn, có sức khoẻ tốt, chi
phí cho tạo nguồn ít tốn kém về kinh tế, quá trình đào tạo họ sớm bộc lộ ý
chí, nghị lực, có quyết tâm cao, quyết chí lập thân, lập nghiệp. Tuy nhiên,
nguồn hình thành từ con đường này cũng có những mặt hạn chế nhất định,
đó là khơng đảm bảo được cơ cấu về địa bàn vùng miền và dân tộc, thường
tập trung ở những địa bàn thành phố, thị xã có điều kiện phát triển kinh tế,
văn hố, giáo dục.
Con đường hình thành có sự chuẩn bị của tổ chức, là con đường cơ bản
chủ yếu để tạo nguồn giáo viên KHXH&NV trong quân đội hiện nay. Đây là
quá trình tác động có mục đích, có quy hoạch, kế hoạch của các tổ chức thông
qua rất nhiều hoạt động như: tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại
chúng; thông qua công tác giáo dục hướng nghiệp sư phạm của các đơn vị
trong Nhà trường, tổ chức đăng ký dự tuyển để hình thành nguồn đưa vào
tuyển chọn đào tạo thành giáo viên KHXH&NV.
Nguồn hình thành từ con đường này được tiến hành tỷ mỉ, công phu theo
qui hoạch, kế hoạch cụ thể của tổ chức nên có nhiều ưu điểm. Lý lịch chính trị
tốt, bảo đảm đúng phương hướng giai cấp, hướng được vào các đối tượng

chính sách như con em cán bộ, đảng viên, gia đình có công với cách mạng;
đảm bảo về cơ cấu đội ngũ giáo viên KHXH&NV trên các địa bàn chiến lược,
và cơ cấu vùng miền để sau này họ là giáo viên ở các học viện, nhà trường
trong quân đội vừa đáp ứng được yêu cầu trước mắt vừa đảm bảo cho yêu cầu
lâu dài, thể hiện tầm tư duy chiến lược trong cơng tác cán bộ. Tuy nhiên, nguồn
hình thành từ con đường này có những hạn chế về trình độ học vấn, nhất là số
con em dân tộc ít người, vùng cao, vùng sâu.

15


1.1.3. Phát triển nguồn đào tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân văn

*Phát triển: Là quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật, hiện tượng.
Sự phát triển không bao quát tồn bộ sự vận động nói chung mà nó chỉ khái
quát xu hướng chung của sự vận động - xu hướng vận động đi lên của sự vật,
hiện tượng; trong quá trình phát triển tổ chức sẽ hình thành dần dần những
quy định mới, cao hơn về chất, sẽ làm thay đổi mối liên hệ, cơ cấu, phương
thức tồn tại, vận động và chức năng vốn có theo chiều hướng ngày càng hoàn
thiện hơn của sự vật, hiện tượng.
Theo từ điển tiếng Việt: “Phát triển là biến đổi, hoặc làm cho biến đổi
từ ít đến nhiều, từ hẹp đến rộng, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp”.
Từ những quan niệm nêu trên, ta có thể hiểu phát triển là biểu hiện sự thay
đổi, sự tăng tiến cả về số lượng lẫn chất lượng của sự vật, hiện tượng, của
con người trong cộng đồng và trong xã hội.
* Phát triển con người. Đánh giá của Chương trình Phát triển Liên hiệp
quốc (UNDP) thì “Con người là tài sản thật sự của quốc gia”, “Con người là
trung tâm của sự phát triển”, phát triển con người không chỉ là sự tăng lên của
thu nhập quốc dân mà còn là tạo ra một mơi trường trong đó mọi người có thể

phát triển mọi khả năng của mình và làm chủ cuộc sống sáng tạo hữu ích, phù
hợp với lợi ích và nhu cầu của họ.
Theo quan điểm phát triển con người của Mahbub ul Haq - chuyên gia
của (UNDP) phát biểu năm 1990 thì: “phát triển con người” đề cập những vấn
đề phát triển năng lực thể chất và năng lực xã hội của con người, môi trường
phát triển con người, nhấn mạnh đến việc đồng thời nâng cao năng lực lựa
chọn và mở rộng cơ hội lựa chọn nhằm thỏa mãn những nhu cầu của con
người theo ba tiêu chí cơ bản: Một cuộc sống có học vấn cao; một cuộc sống
vật chất đầy đủ, một cuộc sống khỏe mạnh, trường thọ.
*Phát triển nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực ngày nay được xem xét là yếu tố cơ bản, yếu tố năng động
nhất, có vai trị quyết định nhất cho sự phát triển nhanh và bền vững, cho nên quá

16


trình phát triển kinh tế - xã hội, con người được đặt vào vị trí trung tâm, con người
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Nguồn nhân lực theo nghĩa rộng là tồn bộ dân cư có khả năng lao
động, bao gồm cả người muốn lao động và không muốn lao động. Theo nghĩa
hẹp và có thể lượng hóa được là một bộ phận của dân số bao gồm nhiều người
trong độ tuổi quy định, đủ 15 tuổi trở lên có khả năng lao động hay còn gọi là
lực lượng lao động. Số lượng nguồn nhân lực được xác định dựa trên quy mơ
dân số, cơ cấu tuổi, giới tính và sự phân bố theo khu vực và vùng lãnh thổ của
dân số. Ở nước ta, số lượng lao động trong độ tuổi lao động (nhân lực) được
xác định bao gồm những người trong độ tuổi lao động (nam từ 16 - 60, nữ
từ 16 - 55) đang có việc hoặc khơng có việc làm nhưng có nhu cầu làm
việc. Muốn phát triển nhân lực, gia tăng thêm các giá trị sử dụng con người
thì tất yếu phải quan tâm đến mục tiêu phát triển con người gia tăng thêm
các giá trị về chính trị, đạo đức, trí tuệ, thể lực thẩm mỹ. Trong chiến lược

phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, Đảng ta luôn quan tâm đến nguồn
nhân lực chất lượng cao, coi nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá
chiến lược, là yếu tố đẩy mạnh phát triển ứng dụng khoa học công nghệ, cơ
cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mơ hình tăng trưởng và lợi thế cạnh tranh
quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Phát
triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng
cao trước hết phải chú ý vai trò giáo dục. Đảng chỉ rõ: phát triển giáo dục
là quốc sách hàng đầu.
Phát triển nguồn nhân lực (Human Resource Devlopment), là quá trình
tạo ra sự biến đổi, chuyển biến số lượng, cơ cấu và chất lượng từng giai đoạn
phát triển kinh tế - xã hội ở các cấp khác nhau (quốc gia, vùng miền, địa
phương) đáp ứng nhu cầu nhân lực cần thiết cho các lĩnh vực lao động và đời
sống xã hội, nhờ vậy mà phát triển được năng lực, tạo được công ăn việc làm,
nâng cao mức sống và chất lượng cuộc sống, địa vị kinh tế xã hội của tầng lớp
dân cư và cuối cùng là đóng góp chung cho sự phát triển của xã hội. Trong
đời sống xã hội hiện đại, cùng với các ưu thế về tiềm lực khoa học và công

17


nghệ, nguồn tư bản tài chính, năng lực tiếp cận thị trường… thì chất lượng
nguồn nhân lực là một nhân tố bảo đảm tính cạnh tranh của các quốc gia. Phát
triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực luôn là trọng điểm trong chiến
lược phát triển của các quốc gia trên thế giới. Các nước có thứ hạng cao trong
đánh giá chất lượng giáo dục quốc tế (PISA) như Phần Lan, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Xingapo đều là những nước có nguồn nhân lực cao.
Phát triển nguồn nhân lực là một q trình bao gồm tổng thể các
phương thức ni dưỡng, giáo dục và đào tạo, chế độ chính sách và biện
pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao chất lượng người lao động về phẩm chất
đạo đức, trí tuệ, kiến thức, thể chất, năng lực chuyên môn cũng như phẩm

chất tâm lý xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu về nguồn lực cho sự phát triển kinh
tế - xã hội trong từng giai đoạn.
Kế thừa các quan niệm về nguồn, nguồn đào tạo giáo viên KHXH&NV,
phát triển nguồn nhân lực, tác giả quan niệm:
Phát triển nguồn đào tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân văn là: tổng
thể những chủ trương, biện pháp tích cực, chủ động của lãnh đạo, chỉ huy các
cấp, các cơ quan chức năng ở nhà trường để có được nguồn đào tạo giáo viên
khoa học xã hội và nhân văn có số lượng, cơ cấu hợp lý, có chất lượng cao cả về
trước mắt và lâu dài, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên khoa học
xã hội và nhân văn trong quân đội đáp ứng với yêu cầu phát triển giáo dục và
đào tạo của nhà trường quân đội trong thời kỳ mới.
Mục tiêu của phát triển nguồn đào tạo giáo viên KHXH&NV là lựa
chọn được những học viên dự tuyển đào tạo giáo viên KHXH&NV có số
lượng dồi dào, ổn định, cơ cấu đa dạng, phong phú và những con người cụ thể
trong phát triển nguồn có chất lượng ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ GD - ĐT.
Chủ thể thực hiện phát triển nguồn đào tạo giáo viên KHXH&NV là
các tổ chức lãnh đạo, chỉ huy, khoa giáo viên, cơ quan cán bộ các cấp ở các
đơn vị của nhà trường. Căn cứ vào kế hoạch tuyển sinh hàng năm do cục cán
bộ và tiêu chí cụ thể nhà trường lập kế hoạch tuyển chọn những đồng chí có

18


đủ phẩm chất và năng lực để đào tạo giáo viên KHXH&NV những học viên
tham gia tuyển chọn phải trải qua các khâu các bước được tiến hành đồng bộ
với các tiêu chí do các khoa chuyên ngành xét tuyển sau đó thơng báo kết quả
để đào tạo giáo viên KHXH&NV.
Đối tượng phát triển nguồn đào tạo giáo viên KHXH&NV là những học
viên đã trúng tuyển đại học trở thành học viên sĩ quan đang đào tạo chính trị

viên năm thứ nhất của nhà trường gửi đi đào tạo học kiến thức đại cương tại
trường sĩ quan lục quân 1; sau khi về trường học tập có kết quả học tập khá và
giỏi, qua tuyển chọn về tâm lý, về khả năng sư phạm, phẩm chất chính trị, đạo
đức, xu hướng, động cơ nghề nghiệp, chuyên môn, cả về thể hình, để phát
triển nguồn đào tạo thành giáo viên KHXH&NV các chuyên ngành khác nhau
cho các nhà trường quân đội. Bồi dưỡng, hình thành và hồn thiện năng lực,
xây dựng và định hướng đúng đắn xu hướng nghề nghiệp sư phạm cho đối
tượng tạo nguồn đào tạo giáo viên KHXH&NV.
Phương thức tiến hành tạo nguồn đào tạo giáo viên KHXH&NV là:
Nghiên cứu quán triệt quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ mới, tiến hành khảo sát thực
tế về nhu cầu nguồn, khả năng, điều kiện tạo nguồn đào tạo giáo viên
KHXH&NV, xây dựng đề án tổng thể, hoàn thiện quy hoạch, kế hoạch tạo
nguồn đối với đơn vị quản lý học viên năm thứ nhất ở Nhà trường và theo
từng đối tượng cụ thể. Tổ chức tuyên truyền giáo dục về truyền thống dân
tộc, quân đội và địa phương, nghĩa vụ và trách nhiệm của người thanh niên,
vinh dự tự hào của người học viên Trường SQCT để động viên, khích lệ các
đối tượng nguồn tự nguyện phấn đấu, đăng ký thi tuyển vào đào tạo giáo
viên KHXH&NV. Coi trọng qui hoạch bồi dưỡng và tập trung tổ chức thực
hiện tốt các chương trình, kế hoạch đào tạo bồi dưỡng, rèn luyện và tuyển
chọn ở Nhà trường, kết hợp chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị để tiến hành tốt
công tác đào tạo bồi dưỡng nguồn giáo viên các môn KHXH&NV. Tiến hành
các bước xét duyệt hồ sơ, tổ chức thi tuyển và thực hiện tốt các chế độ chính
sách, tạo điều kiện thuận lợi để các nhóm nguồn được học tập, rèn luyện

19


phấn đấu đáp ứng yêu cầu về chất lượng, số lượng và cơ cấu nguồn. Định kỳ
tiến hành sơ tổng kết rút kinh nghiệm, phát hiện và nhân rộng điển hình tiên

tiến kịp thời khắc phục những hạn chế bất cập nảy sinh trong quá trình tạo
nguồn đào tạo giáo viên KHXH&NV của Nhà trường.
* Quy trình tạo nguồn đào tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân văn
Bước một, xây dựng và triển khai thực hiện chương trình, kế hoạch tạo
nguồn đào tạo giáo viên KHXH&NV theo quy hoạch tổng thể về đào tạo cán
bộ quân đội.
Xây dựng quy hoạch, kế hoạch là vấn đề quan trọng đặc biệt, bảo đảm
cho tạo nguồn đào tạo giáo viên KHXH&NV có tầm nhìn xa, chủ động, tích
cực; khắc phục được tình trạng hẫng hụt nguồn đào tạo. Làm tốt việc này sẽ phát
huy được vai trò, trách nhiệm và tạo ra những điều kiện thuận lợi để Nhà trường
thực hiện tốt các khâu, các bước tiếp theo trong qui trình tạo nguồn đào tạo cán
bộ. Các cấp cần quy định cụ thể tiêu chuẩn nguồn, dự kiến tỷ lệ dôi dư trong dự
kiến nguồn làm cơ sở để chỉ đạo đơn vị thuộc quyền xúc tiến việc tạo nguồn đào
tạo giáo viên KHXH&NV. Đồng thời qua đó, kịp thời nắm bắt nhu cầu sắp xếp
biên chế của các đơn vị quản lý học viên để điều chỉnh, bổ sung quy hoạch, kế
hoạch sát với tình hình thực tiễn ở Nhà trường.
Bước hai, chuẩn bị các điều kiện và tuyên truyền, động viên thanh niên,
học sinh, sinh viên, quân nhân, tự nguyện tu dưỡng, rèn luyện phấn đấu để có
đủ điều kiện thi tuyển vào đào tạo chính trị viên.
Đây là hoạt động địi hỏi sự kiên trì, bền bỉ với trách nhiệm chính trị cao
của các tổ chức, các lực lượng cả trong và ngoài quân đội, gắn liền và thơng
qua q trình thực hiện nhiệm vụ ở cơ sở với nội dung, biện pháp phù hợp với
từng đối tượng để tuyên truyền, giáo dục hướng nghiệp quân sự, tạo động lực
thu hút những người có đủ phẩm chất, năng lực vào đào tạo giáo viên
KHXH&NV. Thông qua hoạt động giáo dục, đào tạo, hoạt động chính trị, xã hội
ở nhà trường và thông qua hoạt động CTĐ,CTCT ở các đơn vị quân đội để
chuẩn bị các điều kiện và tuyên truyền, giáo dục cho các đối tượng nguồn. Cấp
uỷ, chính quyền và các đồn thể địa phương lãnh đạo, chỉ đạo các trường phổ

20



thông trung học nâng cao chất lượng đào tạo, đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
giáo dục hướng nghiệp, tạo điều kiện cho thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên,
cũng như gia đình họ có đủ thơng tin cần thiết để quyết định khi cần phải lựa
chọn nghề nghiệp phù hợp.
Bước ba, phát hiện và tổ chức đăng ký, tuyển chọn, quản lý chặt chẽ
nguồn đào tạo giáo viên KHXH&NV.
Đây là khâu rất quan trọng, trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng nguồn
đào giáo viên KHXH&NV. Các đại đội ở tiểu đoàn quản lý học viên phải nắm
vững tiêu chuẩn cụ thể đối với từng loại đối tượng để lựa chọn đưa vào danh
sách quản lý nguồn đào tạo giáo viên KHXH&NV. Phải quản lý tổng thể
nguồn và quản lý từng loại nguồn giúp các đại đội nắm chắc nguồn, theo dõi
được sự vận động phát triển của nguồn để có cơ sở phân công giao nhiệm vụ và
việc bồi dưỡng cụ thể.
Bước bốn, tổ chức bồi dưỡng nâng cao chất lượng, tiếp tục sàng lọc và
phân hướng nguồn đào tạo giáo viên KHXH&NV.
Đây là khâu rất quan trọng để nâng cao chất lượng nguồn đào tạo giáo
viên KHXH&NV. Hoạt động này được thực hiện chủ yếu là các đại đội ở tiểu
đoàn quản lý học viên năm thứ nhất của Nhà trường. Việc bồi dưỡng nguồn
phải tiến hành thường xuyên, liên tục, bồi dưỡng đúng phương hướng, yêu cầu,
nội dung và bằng nhiều biện pháp phong phú, đa dạng. Nội dung bồi dưỡng
phải toàn diện, nhưng trước hết phải coi trọng bồi dưỡng về phẩm chất và năng
lực, trong đó chú trọng bồi dưỡng nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng, đạo
đức, lối sống, nhất là động cơ hướng nghiệp.
Phải có kế hoạch bồi dưỡng cụ thể trong từng thời gian, cho từng
đối tượng nguồn cụ thể; tổ chức bồi dưỡng ngay tại đơn vị, tại chỗ và
thông qua thực tiễn thực hiện nhiệm vụ để bồi dưỡng; phối hợp gia đình
và tổ chức để bồi dưỡng, thơng qua hoạt động của lãnh đạo, chỉ huy các
cấp để bồi dưỡng. Q trình bồi dưỡng nguồn cũng chính là q trình tiếp

tục sàng lọc, kịp thời loại bỏ những đối tượng không đủ tiêu chuẩn, từng

21


bước kiểm tra nâng cao chất lượng và sắp xếp phân hướng cụ thể nguồn
đào tạo giáo viên KHXH&NV.
Bước năm, xét duyệt hồ sơ, tổ chức xét tuyển, tuyển chọn và làm các thủ
tục nhập học các đối tượng trúng tuyển.
Đây là khâu thuộc trách nhiệm chủ yếu của các cơ quan chức năng và
khoa chuyên ngành của Nhà trường là khâu quyết định cuối cùng chất lượng
nguồn vào đào tạo giáo viên KHXH&NV. Ban cán bộ phối hợp với hội đồng
tuyển chọn chỉ đạo chặt chẽ qui trình tiếp nhận, bàn giao và xét duyệt hồ sơ
tuyển chọn của từng đối tượng theo phân cấp và chấp hành quy chế thi. Các cơ
quan tham mưu của nhà trường tiếp nhận và xét duyệt hồ sơ tuyển chọn của từng
học viên và tiếp nhận các rà soát thủ tục, điều kiện dự tuyển chọn chặt chẽ,
nghiêm túc; tổ chức chấm thi bảo đảm khách quan, chính xác; cơng bố kịp thời và
báo gọi các đồng chí học viên đủ tiêu chuẩn đào tạo giáo viên KHXH&NV.
Các bước trên là một thể thống nhất, quan hệ chặt chẽ với nhau, liên quan
đến trách nhiệm của nhiều tổ chức, nhiều lực lượng cả trong Nhà trường. Do vậy,
phải phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi tổ chức, mọi lực lượng, trước hết là
trách nhiệm của các cấp uỷ, tổ chức đảng, các cơ quan tham mưu của nhà trường.
Đối tượng tạo nguồn rất đa dạng, phải căn cứ vào từng địa bàn, vùng, miền, đối
tượng cụ thể để vận dụng quy trình tiến hành tạo nguồn cho phù hợp.
1.2. Nội dung phát triển nguồn đào tạo giáo viên khoa học xã hội và
nhân văn
1.2.1. Xây dựng kế hoạch phát triển nguồn đào tạo giáo viên khoa
học xã hội và nhân văn
Xây dựng và triển khai thực hiện chương trình, kế hoạch tạo nguồn đào
tạo giáo viên KHXH&NV theo quy hoạch tổng thể về đào tạo cán bộ quân đội.

Xây dựng quy hoạch, kế hoạch là vấn đề quan trọng đặc biệt, bảo đảm
cho tạo nguồn đào tạo giáo viên KHXH&NV có tầm nhìn xa, chủ động, tích
cực; khắc phục được tình trạng hẫng hụt nguồn đào tạo. Làm tốt việc này sẽ phát
huy được vai trò, trách nhiệm và tạo ra những điều kiện thuận lợi để các đơn vị
thực hiện tốt các khâu, các bước tiếp theo trong qui trình tạo nguồn đào tạo cán

22


bộ. Các cấp cần quy định cụ thể tiêu chuẩn nguồn, dự kiến tỷ lệ dôi dư trong dự
kiến nguồn làm cơ sở để chỉ đạo đơn vị thuộc quyền xúc tiến việc tạo nguồn đào
tạo giáo viên KHXH&NV. Đồng thời qua đó, kịp thời nắm bắt nhu cầu sắp xếp
biên chế của các đơn vị để điều chỉnh, bổ sung quy hoạch, kế hoạch sát với tình
hình thực tiễn ở cơ sở.
Đây là đặc điểm nổi bật nhất phản ánh sự khác biệt về môi trường đào
tạo. Nếu như ở các trường đại học ngồi qn đội, mơi trường này có sự lỏng
lẻo trong quản lý thì ở các nhà trường qn sự nói chung, Trường SQCT nói
riêng, mơi trường sư phạm quân sự sẽ là một trong những yếu tố quan trọng
tác động đến việc hình thành và phát triển bản lĩnh chính trị, năng lực nghề
nghiệp có hiệu quả của người học. Mọi hoạt động của nhà trường cũng như
của mỗi học viên đều chịu sự quy định một cách nghiêm ngặt của Điều lệnh
quân đội, pháp luật Nhà nước, Điều lệ công tác nhà trường quân đội. Hoạt
động lãnh đạo, chỉ huy, quản lý ở Trường SQCT vận hành theo cơ chế lãnh
đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam.
1.2.2. Tổ chức bộ máy phát triển nguồn đào tạo giáo viên khoa học
xã hội và nhân văn
Tổ chức là một chức năng của quản lí. V.I.Lênin đã nói về vai trị của tổ
chức như sau: Tổ chức, tổ chức và tổ chức. Hãy cho tôi một tổ chức những
người cách mạng, tôi sẽ làm đảo lộn cả nước Nga. Trong thực tiễn giáo dục,
đơi khi chất lượng giáo dục thấp, thậm chí yếu kém khơng phải vì thiếu

đội ngũ giáo viên giỏi hay thiếu cơ sở vật chất và các điều kiện đảm bảo
mà do công tác tổ chức thiếu khoa học, không phát huy được sức mạnh
tập thể, không khai thác hết các nguồn lực trong và bên ngoài.
Hiện nay, các lực lượng trực tiếp tham gia phát triển nguồn đào tạo giáo
viên KHXH&NV ở Nhà trường là các khoa giáo viên chuyên ngành và đơn vị
quản lý học viên. Tham gia phát triển nguồn đào tạo giáo viên KHXH&NV
cịn có sự đóng góp tích cực, hiệu quả của Ban Giám hiệu, các Phòng, Ban và
một số cơ quan, đơn vị phục vụ. Tuy vị trí, chức trách, vai trị, nhiệm vụ của
mỗi cơ quan, đơn vị có khác nhau, nhưng giữa các cơ quan, đơn vị có mối

23


quan hệ chặt chẽ với nhau, hoạt động thống nhất trong một “guồng máy”
nhằm mục đích đào tạo giáo viên KHXH&NV có chất lượng cao, đáp ứng
nhu cầu giảng dạy, NCKH của các Học viện, Nhà trường quân đội trong
giai đoạn cách mạng mới.
Xét về mặt chức năng quản lí, tổ chức là quá trình hình thành nên cấu trúc
các quan hệ giữa các thành viên, giữa các bộ phận trong một tổ chức nhằm làm cho
họ thực hiện thành công các kế hoạch và đạt được mục tiêu tổng thể của tổ chức.
Nhờ việc tổ chức có hiệu quả, người quản lí có thể phối hợp, điều phối tốt hơn các
nguồn vật lực và nhân lực. Thành tựu của một tổ chức phụ thuộc rất nhiều vào năng
lực của người quản lí sử dụng các nguồn lực này sao cho có hiệu quả và có kết quả.
Tổ chức bộ máy phát triển nguồn đào tạo giáo viên KHXH&NV là thiết
kế cơ cấu, phương thức và quyền hạn hoạt động của các bộ phận, cơ quan
quản lí nói chung và khoa chuyên ngành nói riêng sao cho phù hợp với mục
tiêu của phát triển nguồn và mục tiêu phát triển của các tổ chức đó.
Vì vậy, cần là thực hiện các nhiệm vụ xây dựng tổ chức sao cho phù
hợp với đặc điểm yêu cầu nhiệm vụ phát triển nguồn. Nhiệm vụ trước tiên là
xây dựng cấu trúc tổ chức của đối tượng phát triển nguồn. Đó là, phải tổ chức

các đơn vị quản lý học viên tham gia phát triển nguồn đào tạo giáo viên
KHXH&NV.
Có sự phối hợp của Hội đồng tuyển chọn, cơ quan chuyên môn, các khoa
chuyên ngành.
Quá trình xây dựng tổ chức bộ máy phải gắn với mục đích, mục tiêu và
nội dung hoạt động của hệ thống làm công tác phát triển nguồn. Cơ cấu tổ chức
cịn phụ thuộc vào tính chất, nội dung cơng việc cụ thể. Tùy theo công việc mà
cơ cấu tổ chức cho thích hợp. Xây dựng cơ cấu tổ chức phải bảo đảm ngun tắc
chun mơn hóa và cân đối. Phân cơng nhiệm vụ cho các nhóm tổ chức phải cân
đối và phát huy được năng lực của mọi cá nhân tổ chức để công tác phát triển
nguồn đào tạo giáo viên KHXH&NV đạt kết quả cao.

24


1.2.3. Tổ chức thực hiện phát triển nguồn đạo tạo giáo viên khoa học
xã hội và nhân văn
Tổ chức triển khai thực hiện chương trình kế hoạch phát triển nguồn đào
tạo giáo viên KHXH&NV theo kế hoạch phát triển nguồn đã xác định, là nội
dung rất quan trọng do vậy các cơ quan chức năng trong Nhà trường và các
khoa chuyên ngành đào tạo giáo viên KHXH&NV và đơn vị quản lý học viên cần
thực hiện đúng kế hoạch để tổ chức thực hiện có hiệu quả đối với cơng tác phát
triển nguồn đào tạo giáo viên KHXH&NV ở Nhà trường trong thời gian qua.
Việc bồi dưỡng nguồn phải thường xuyên liên tục bồi dưỡng đúng
phương hướng, yêu cầu nội dung và bằng nhiều biện pháp phong phú và đa
dạng. Nội dung bồi dưỡng phải toàn diện nhưng trước hết phải coi trọng bồi
dưỡng phẩm chất đạo đức và năng lực chun mơn.
Phải có kế hoạch bồi dưỡng cụ thể trong từng thời gian cho từng đối
tượng nguồn và nhóm nguồn cụ thể, tổ chức bồi dưỡng ngay tại đơn vị, tại chỗ
và thông qua thực tiễn thực hiện nhiệm vụ để bồi dưỡng tạo nguồn đào tạo giáo

viên KHXH&NV trên từng địa bàn, vùng miền là một công tác có ý nghĩa
chính trị to lớn, vừa góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ cho quân đội, vừa góp
phần xây dựng cơ sở chính trị ở từng địa phương. Hơn nữa, đây là một công
việc thường xuyên, lâu dài, công phu bao gồm nhiều nội dung và được tiến
hành qua nhiều khâu, nhiều bước. Vì vậy, để cơng tác tạo nguồn có chất lượng,
hiệu quả tốt phải kết hợp và phát huy sức mạnh tổng hợp của các cấp, các
ngành, các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tham gia tạo nguồn. Mặt khác, phải
nghiên cứu để đổi mới cơ chế, chính sách một cách phù hợp, tạo động lực
mạnh mẽ thu hút những người có phẩm chất, năng lực tốt vào đào tạo cán bộ
chính trị trong quân đội nói chung và đào tạo giáo viên KHXH&NV nói riêng.
1.2.4. Kiểm tra đánh giá hoạt động phát triển nguồn đào tạo giáo viên
khoa học xã hội và nhân văn
Chất lượng nguồn đào tạo giáo viên KHXH&NV phụ thuộc vào nhiều
yếu tố, trong đó dưới góc độ quản lí, phải coi trọng các hoạt động thanh tra, kiểm
tra. kiểm tra là một chức năng quản lí, thơng qua đó, chủ thể quản lí theo dõi

25


×