Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Đánh giá khả năng kháng khuẩn của dịch ép một số loại thảo dược đối với vi khuẩn streptococcus sp gây bệnh xuất huyết trên cá rô phi vằn ( oreochromis niloticus)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (970.14 KB, 90 trang )

1
MỞ ĐẦU
Cá Rô phi là đối tƣợng nuôi thủy sản có nguồn gốc từ Châu Phi. Nhƣng
ngày nay cá Rơ phi không những đƣợc nuôi ở Châu Phi mà đã đƣợc phát tán
và nuôi ở nhiều nƣớc trên thế giới, đặc biệt là ở các nƣớc nhiệt đới và cận
nhiệt đới. Trong vài chục năm trở lại đây chúng đã thực sự trở thành lồi cá
ni cơng nghiệp, có sản lƣợng lớn và giá trị kinh tế cao. Trong đó lồi đƣợc
ni phổ biến là cá Rơ phi vằn (Oreochromis niloticus), có đặc điểm thịt
trắng, chất lƣợng thơm ngon, năng suất cao, dễ ni, ít dịch bệnh, có thể ni
ở nhiều điều kiện mơi trƣờng với nhiều hình thức ni khác nhau. Ở nƣớc ta
nghề nuôi cá Rô phi đang phát triển mạnh mẽ ở nhiều địa phƣơng và trong
tƣơng lai Việt Nam có thể trở thành một quốc gia xuất khẩu cá Rô phi chủ
lực, hƣớng tới những thị trƣờng khó tính nhƣ: Mỹ, Nhật Bản và một số nƣớc
Châu Âu. Dự kiến đến năm 2015, sản lƣợng cá rơ phi đạt 150.000 tấn, tăng
trƣởng trung bình 7,9%/năm [46], [54].
Cá rơ phi tuy có sức đề kháng tốt nhƣng khi ni với hình thức thâm
canh hoặc bán thâm canh, với mật độ ao ni cao cùng với đó là tình trạng
nƣớc trong ao bị ơ nhiễm và thiếu ơxi nên cá thƣờng mắc bệnh xuất huyết do
vi khuẩn Streptococcus sp gây ra. Năm 2009, trên địa bàn các tỉnh Hải
Dƣơng, Quảng Ninh, Hải Phòng, Bắc Ninh, Hƣng Yên, Hà Nội đã xuất hiện
hiện tƣợng cá chết hàng loạt. Tại tỉnh Hải Dƣơng tiến hành xét nghiệm mẫu
bệnh phẩm của cá thấy 7/7 mẫu bệnh phẩm nhiễm vi khuẩn Streptococcus sp.
Tuy là một loại bệnh thông thƣờng, nhƣng do tâm lí chủ quan của ngƣời dân
nên vẫn gây ra những thiệt hại lớn [32], [51].
Sử dụng kháng sinh, hoá chất đƣợc xem là phƣơng pháp truyền thống
để điều trị bệnh xuất huyết do vi khuẩn. Tuy nhiên phƣơng pháp này có
nhƣợc điểm là ngƣời ni thuỷ sản khơng tính đƣợc lƣợng thuốc hợp lí cần
cho cá nên thƣờng cho hoặc nhiều quá hoặc ít quá, dẫn đến vi khuẩn bị nhờn
thuốc. Mặt khác hiện nay đã có nhiều cảnh báo trong việc sử dụng thuốc



2
kháng sinh để điều trị bệnh thuỷ sản, do tác hại lâu dài của nó đối với sức
khoẻ con ngƣời, vật ni và mơi trƣờng xung quanh.
Trƣớc tình hình đó địi hỏi phải có những giải pháp mới trong phịng và
trị bệnh trên động vật thuỷ sản nói chung, cá rơ phi vằn nói riêng nhằm thay
thế các loại hố chất, kháng sinh đang đƣợc sử dụng. Trong đó hƣớng nghiên
cứu và sử dụng thảo dƣợc đang đƣợc nhiều ngƣời quan tâm. Việc sử dụng
thảo dƣợc để phòng và trị bệnh cho thuỷ sản có nhiều ƣu điểm nhƣ: giá thành
rẻ, dễ sử dụng, an toàn đối với thuỷ sản, con ngƣời và môi trƣờng xung
quanh. Trên thế giới, một số nƣớc nhƣ: Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh,
Thái lan, Thổ Nhĩ Kỳ cũng đã có những nghiên cứu thử nghiệm tác dụng của
một số loại thảo dƣợc đối với một số tác nhân gây bệnh trên một số loại thủy
sản. Ở nƣớc ta, trong những năm gần đây các nhà khoa học cũng đã có một số
nghiên cứu và thử nghiệm ở các mức độ khác nhau về tác dụng của một số
loại thảo dƣợc nhƣ: lá trầu không, hẹ, tỏi, lá xoan, lá húng, … trong phòng và
trị bệnh trên cá chép, tôm sú, cá trắm cỏ, cá rô phi vằn,… Tuy nhiên có nhiều
loại thảo dƣợc chƣa đƣợc nghiên cứu đối với nhiều tác nhân gây bệnh trên
nhiều đối tƣợng khác nhau. Trong đó có cá rơ phi vằn với loại bệnh thƣờng
gặp là bệnh xuất huyết do vi khuẩn Streptococcus sp gây nên.
Trên cơ sở đó, chúng tôi tiến hành đề tài “Đánh giá khả năng kháng
khuẩn của dịch ép một số loại thảo dƣợc đối với vi khuẩn Streptococcus
sp gây bệnh xuất huyết trên cá rô phi vằn (Oreochromis niloticus) ”
Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá, so sánh khả năng kháng vi khuẩn Streptococcus sp của dịch
ép giữa một số loại thảo dƣợc thông dụng và giữa thảo dƣợc với các loại
thuốc kháng sinh thƣờng dùng. Từ đó góp phần đẩy mạnh việc sử dụng thảo
dƣợc và hạn chế sử dụng thuốc kháng sinh trong phòng và trị bệnh cho thuỷ
sản.



3
CHƢƠNG I. TỔNG QUAN
1.1. VÀI NÉT VỀ ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU
1.1.1. Chủng vi khuẩn Streptococcus sp
Theo hệ thống phân loại của Bergey (1974) [3], chủng vi khuẩn
Streptococcus sp thuộc nhóm phân loại nhƣ sau:
Giới Sinh vật nhân nguyên thủy (Procaryota)
Ngành Vi khuẩn (Bacteria)
Nhóm Mycoplasma (tế bào khơng có dạng xoắn, khơng có thành tế
bào)
Lớp Mollieutes
Bộ Chlamydiales
Họ Streptococcaceae
Giống Streptococcus
- Đặc điểm sinh học:
Streptococcus sp là tên gọi chung cho các loài vi khuẩn thuộc giống
Streptococcus chƣa đƣợc định danh, có dạng hình cầu hoặc hình trứng, đƣờng
kính khoảng 1 m , tạo thành dạng chuỗi ngắn hoặc dạng song cầu khuẩn. Là
vi khuẩn Gram dƣơng, phần lớn Streptococcus là yếm khí không bắt buộc.
Trong thạch sâu vi khuẩn mọc ở tất cả chiều cao của ống môi trƣờng [4], [38].
- Đặc tính gây bệnh:
Giống Streptococcus gồm nhiều nhóm khác nhau, có khả năng gây
bệnh ở ngƣời, động vật và một số loài cá. Ở ngƣời, 90% bệnh nhiễm khuẩn do
Streptococcus, nhƣ: bệnh tinh hồng nhiệt, viêm họng, viêm thận, bệnh viêm
màng não của trẻ sơ sinh,…v.v. Ở động vật, Streptococcus gây bệnh viêm vú
bò, nhiễm liên cầu khuẩn,…v.v [4]. Vi khuẩn Streptococcus sp là tác nhân
chủ yếu gây bệnh xuất huyết cho nhiều loại cá khác nhau (cá Diêu hồng, cá
Rô phi,…). Chúng có khả năng xâm nhập và làm tổn thƣơng não cá, rồi theo
máu đến làm tổn thƣơng thận và tỳ tạng. Khi quan sát tiêu bản tƣơi mô gan,
thận, tỳ tạng của cá bệnh sẽ thấy chúng nằm rải rác hoặc tập trung thành từng



4
đám trên vùng mơ phết kính bên cạnh các tế bào biến dạng, cấu trúc rời rạc.
Mô thận và tỳ tạng cá bệnh có dấu hiệu xung huyết, xuất huyết và hoại tử
[27].
1.1.2. Cá rô phi vằn (Oreochromis niloticus)
- Vị trí phân loại nhƣ sau:
Lớp cá Xƣơng (Actinopterygii)
Bộ cá Vƣợc (Perciformes)
Họ cá Rơ phi vằn (Cichlidae)
Lồi Rơ phi vằn (Oreochromis niloticus)
- Đặc điểm:
Cá rô phi vằn đƣợc nuôi ở nhiều nƣớc trên thế giới đặc biệt là ở các
nƣớc nhiệt đới và cận nhiệt đới. Chúng có thể sống ở nhiều môi trƣờng nƣớc
khác nhau nhƣ: nƣớc mặn, nƣớc ngọt và nƣớc lợ; có biên độ nhiệt khá rộng;
có thể sống trong mơi trƣờng có biên độ pH rất rộng từ 5-11, nhƣng thích hợp
nhất là từ 6,5-8,5; có thể sống đƣợc trong mơi trƣờng thiếu ơxi và có hàm
lƣợng amoniac khá cao,… [50], [52]. Thức ăn của cá rô phi vằn khá đa dạng
và phong phú, từ các loại thức ăn tự nhiên nhƣ: phù du, mùn bã hữu cơ, tảo,
côn trùng,… cho đến các loại thức ăn công nghiệp đã chế biến hoặc chƣa chế
biến nhƣ: các loại cám, phụ phẩm công nghiệp,… [39], [51], [35]
- Dịch bệnh ở cá rơ phi vằn:
Cá rơ phi vằn là lồi sống khoẻ, ít bị dịch bệnh. Tuy nhiên trong thực tế
khi nuôi thâm canh với mật độ cao, môi trƣờng bị ơ nhiễm và thiếu ơxi thì cá
rơ phi vằn cũng có thể bị mắc bệnh. Bệnh ở cá rơ phi vằn có thể do vi khuẩn,
vi rút, nấm và kí sinh trùng gây ra. Đặc biệt là bệnh do vi khuẩn
Streptococcus là nguyên nhân gây nên thiệt hại lớn ở cá rơ phi vằn nói riêng
và cá nƣớc ngọt nói chung, làm ảnh hƣởng đến hiệu quả của nghành nuôi
trồng thuỷ sản trên thế giới (Stoffregen et al, 1996; Shoemaker and Klesius,

1997). Ở nƣớc ta một số dịch bệnh lớn ở cá rô phi vằn gây thiệt hại đáng kể
cho các hộ nuôi thuỷ sản đã đƣợc ghi nhận. Năm 2009 đã xảy ra dịch bệnh


5
làm cá chết hàng loạt ở 5 tỉnh phía bắc là Hải Phòng, Hải Dƣơng, Bắc Ninh,
Hà Nội, Quảng Ninh. Theo kết luận của Trung tâm nghiên cứu, quan trắc,
cảnh báo mơi trƣờng và phịng ngừa dịch bệnh thủy sản khu vực miền bắc thì
trong 51 mẫu cá rơ phi vằn bị bệnh lấy ở các tỉnh và xét nghiệm thấy đều có
mặt tác nhân gây bệnh là vi khuẩn Streptococcus sp. Đây là vi khuẩn đặc
trƣng gây bệnh cho cá rơ phi vằn, vi khuẩn có mặt trong gan, thận thậm chí cả
trong não cá rơ phi vằn nên khi sắp chết cá thƣờng có biểu hiện quay trên mặt
nƣớc rồi chìm xuống đáy ao.
Năm 2010 lại xuất hiện dịch bệnh lan rộng ở nhiều huyện của tỉnh Hải
Dƣơng làm cá rô phi vằn chết hàng loạt. Theo kết luận của Trung tâm nghiên
cứu, quan trắc, cảnh báo môi trƣờng và phòng ngừa dịch bệnh thủy sản khu
vực miền bắc thì cá chết là do vi khuẩn Streptococcus agalactae [32], [51].
Nhƣ vậy có thể thấy rằng, hiện nay nghành cơng nghiệp ni cá rơ phi
vằn trên thế giới nói chung và ở nƣớc ta nói riêng đang đối mặt với một loại
bệnh nguy hiểm do vi khuẩn Streptococcus gây ra và thƣờng đƣợc gọi là bệnh
xuất huyết. Bệnh thƣờng gây chết cá với số lƣợng lớn, cá bị bệnh thƣờng có
kích thƣớc đã lớn, từ 100g trở lên nên thƣờng gây hậu quả nặng nề cho ngƣời
nuôi. Triệu chứng bệnh thƣờng gặp là cá bị xuất huyết ở da quanh miệng cá
hoặc gốc vây; các vết áp xe lớn ở vây ngực và đi, có thể có mủ; cá có hành
vi bất thƣờng nhƣ bơi vịng quanh, bỏ ăn, khi giải phẫu thấy có hiện tƣợng
tích dịch trong xoang bụng, một số trƣờng hợp cịn có dấu hiệu mắt cá lồi to.
Ngoài ra khi cá bị nhiễm bệnh nặng, cá cịn bị các vi khuẩn cơ hội khác
tấn cơng nhƣ Aeromonas sp trong nƣớc ngọt hay Vibrio sp trong nƣớc lợ làm
cho dịch bệnh trở nên nghiêm trọng hơn. Bệnh chủ yếu lan truyền ngang từ cá
bị bệnh sang cá khỏe hoặc từ môi trƣờng đến cá. Dịch bệnh thƣờng xảy ra khi

cá nuôi bị căng thẳng (stress) kéo dài, có thể do mật độ cao, hàm lƣợng ơxi
trong nƣớc thấp hoặc nhiệt độ nƣớc tăng cao [50].
1.2. NHỮNG HẠN CHẾ CỦA VIỆC SỬ DỤNG THUỐC KHÁNG SINH
TRONG PHÒNG VÀ TRỊ BỆNH CHO THỦY SẢN


6
Thuốc kháng sinh là tất cả những chất hóa học không kể nguồn gốc
(chiết xuất từ môi trƣờng nuôi cấy vi sinh vật, bán tổng hợp hay tổng hợp) có
khả năng kìm hãm sự phát triển của vi khuẩn hoặc tiêu diệt vi khuẩn bằng
cách tác động chuyên biệt trên một giai đoạn chuyển hóa cần thiết của vi sinh
vật [58].
Trong nghề nuôi thuỷ sản, một trong những nguy cơ mà ngƣời nuôi
thƣờng xuyên phải đối mặt và gặp phải đó là dịch bệnh trên vật ni. Để giải
quyết tình hình này biện pháp chủ yếu thƣờng xuyên đƣợc áp dụng hiện nay
là sử dụng thuốc kháng sinh. Hiện nay ở nƣớc ta việc nuôi thuỷ hải sản đa
phần là mang tính chất nhỏ lẻ, manh mún do các hộ gia đình tự ni. Thuốc
kháng sinh và các hóa chất độc hại có thể xâm nhiễm thơng qua các con
đƣờng nhƣ: môi trƣờng (ao, hồ,…), con giống, thức ăn,… Ở những vùng có
các doanh nghiệp kinh doanh và chế biến đƣợc các công ty, doanh nghiệp thu
mua lại, sơ chế hoặc chế biến, đóng gói và tiêu thụ. Ngồi ra ở một số nơi
đƣợc các tiểu thƣơng thu mua thì ngƣời ta có thể sử dụng các hóa chất cấm để
bảo quản sản phẩm (phân urê). Với một quy trình sản xuất và bao tiêu sản
phẩm nhƣ vậy nên việc các sản phẩm thuỷ sản có dƣ lƣợng kháng sinh và các
hố chất độc hại là điều khó tránh khỏi.
Đối với vật ni nói chung và thủy sản nói riêng, nếu sử dụng một loại
kháng sinh lặp lại trong một thời gian dài có thể gây ra những ảnh hƣởng xấu
nhƣ: gây ra tác dụng phụ; giảm sức đề kháng; làm mất cân bằng hệ vi sinh vật
đƣờng ruột, có thể tiêu diệt các vi sinh vật có ích tạo điều kiện cho vi sinh vật
có hại phát triển và gây ra những bệnh khác cho vật nuôi; làm cho vi khuẩn

kháng thuốc nhƣ: hiện tƣợng kháng thuốc kháng sinh của vi khuẩn E. ictaluri
gây bệnh gan thận mủ ở cá tra đã đƣợc cảnh báo trong nhiều năm qua [32].
Việc sử dụng thủy sản có dƣ lƣợng thuốc kháng sinh và hóa chất độc
hại có rất nhiều nguy cơ tiềm ẩn. Trong đó có việc ảnh hƣởng đến sức khỏe
ngƣời tiêu dùng. Qua thực tế ngƣời tiêu dùng có thể bị ngộ độc cấp tính khi
sử dụng những sản phẩm này với những biểu hiện thƣờng thấy ở ngƣời bị ngộ


7
độc thực phẩm nhƣ: buồn nơn, chóng mặt, nhức đầu, tiêu chảy,… Ngồi ra
ngƣời tiêu dùng cịn có thể bị ngộ độc mãn tính, phải trải qua một thời gian
tích lũy lâu dài mới biểu hiện triệu chứng bệnh. Cụ thể nhƣ:
- Chloramphenicol gây ra các triệu chứng rối loạn đƣờng ruột, làm rối
loạn quá trình giảm phân của tế bào máu gây nên bệnh thiếu máu, chất này
làm suy thoái nghiêm trọng chức năng của tủy xƣơng, làm suy yếu hệ xƣơng
ở trẻ sơ sinh.
- Oxytetracyline là dƣ lƣợng kháng sinh đƣợc phép khơng q 100ppb
trong thực phẩm. Nó có thể hình thành hệ vi khuẩn kháng thuốc, ảnh hƣởng
đến hệ miễn dịch của cơ thể.
- Dẫn xuất của Nitrofuran (Furaltadone, Furanzolidone, Nitrofurazone)
có thể gây ung thƣ
- Kháng sinh nhóm Quinolon có thể gây ung thƣ da khi tích lũy lâu dài
[6], [33], [35].
Mặt khác dƣ lƣợng thuốc kháng sinh và các hóa chất độc hại trong sản
phẩm thủy sản cịn gây nên một hậu quả nữa, đó là ảnh hƣởng đến uy tín và
việc xuất khẩu các sản phẩm này sang các nƣớc khác. Ở các nƣớc nhƣ: Mỹ,
Nhật Bản, Nga, các nƣớc EU có những quy định rất nghiêm ngặt trong việc
nhập khẩu các sản phẩm thủy sản. Ngoài các quy định cụ thể về dƣ lƣợng các
chất cho phép trong sản phẩm, quy định về các chất cấm sử dụng thì quy trình
kiểm tra các lơ hàng nhập khẩu diễn ra rất chặt chẽ. Ở từng thời điểm, trong

các lô hàng nhập khẩu sẽ tiến hành kiểm tra ngẫu nhiên một mẫu sản phẩm,
nếu phát hiện trong mẫu sản phẩm kiểm tra có dƣ lƣợng các chất độc hại vƣợt
mức cho phép họ sẽ cảnh báo và nâng mức kiểm soát lên cao dần. Nếu trong
các lô hàng tiếp theo vẫn tiếp tục vi phạm sẽ ngƣng nhập khẩu và buộc công
ty nhập khẩu tiến hành hủy tồn bộ lơ hàng. Cụ thể: ngày 10/6/2011, Nhật
Bản đã nâng mức cảnh báo đối với mặt hàng tôm xuất khẩu của Việt Nam lên
100%; tháng 7/2011, ba nhà bán lẻ của Anh là Tesco, Asda, Morrisson quyết
định ngừng bán cá tra Việt Nam do phát hiện tạp chất tăng trọng. Điều này


8
khơng những ảnh hƣởng đến uy tín các mặt hàng thủy sản xuất khẩu của nƣớc
ta mà còn gây ra nhiều thiệt hại về kinh tế cho ngành xuất khẩu thủy hải sản
và nhiều hệ lụy kéo theo đó. Và đây cũng là một thách thức không nhỏ đối
với các doanh nghiệp Việt Nam trong khi nhà nƣớc chƣa có chế tài đủ mạnh
cũng nhƣ các biện pháp mạnh tay để kiểm sốt ngay từ đầu. Bởi vì hiện nay
có một nghịch lý là trong khi các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam đang lao
đao vì hàng xuất đi bị trả về do khơng đạt chuẩn thì các hóa chất độc hại vẫn
đƣợc nhập về một cách tràn lan, không hề đƣợc kiểm soát và ngăn ngừa cũng
nhƣ hạn chế. Điều này cũng dẫn đến một hậu quả nữa đó là các doanh nghiệp
xuất khẩu sau khi có hàng bị trả về do khơng đạt chuẩn thì thay vì phải hủy,
họ lại bán các phế phẩm này cho ngƣời tiêu dùng trong nƣớc để hạn chế thiệt
hại. Việc làm đó chẳng khác gì đi đầu độc ngay chính ngƣời dân của mình.
Do vậy để tránh những điều nghịch lý nhƣ trên trong hoàn cảnh hiện nay, nhà
nƣớc và các nhà khoa học cần phải tìm ra các biện pháp đồng bộ để từng bƣớc
khắc phục. Một trong những biện có tính khả thi, mang tính chất bền vững lâu
dài là nghiên cứu biện pháp phòng và trị bệnh mới sử dụng các loại thảo dƣợc
[35].
1.3. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ SỬ DỤNG THẢO DƢỢC
1.3.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng thảo dƣợc trên thế giới

Việc sử dụng thảo dƣợc để phòng và trị bệnh cho con ngƣời đã đƣợc
nghiên cứu và áp dụng từ rất lâu. Trên thế giới, những nƣớc có ngành y học
cổ truyền phát triển và có truyền thống lâu đời trải qua hàng nghìn năm nhƣ:
Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ,… Tại những nƣớc này ngành y
học cổ truyền đƣợc nghiên cứu lâu đời với nguồn kinh nghiệm đƣợc tích lũy,
chắt lọc qua nhiều thế hệ đã tạo nên một vốn kiến thức rất đồ sộ và phong
phú. Trong đó có rất nhiều phƣơng thuốc trị đƣợc nhiều căn bệnh (từ những
bệnh đơn giản đến những bệnh nan y) ở ngƣời có sử dụng các loại thảo dƣợc.
Trong đông y, một phƣơng thuốc có thể sử dụng kết hợp rất nhiều vị thuốc
khác nhau. Chính sự kết hợp tài tình đó đã tạo nên hiệu quả lớn trong việc sử


9
dụng các bài thuốc đơng y để phịng và trị bệnh cứu ngƣời. Vậy thì con ngƣời
có thể xem nhƣ một lồi động vật tiến hóa cao nhất. Nếu thảo dƣợc có thể
chữa bệnh cứu ngƣời, vậy tại sao lại khơng phịng và chữa đƣợc bệnh cho
những động vật khác?
Trong khi đó vấn đề dƣ lƣợng thuốc kháng sinh và các hóa chất độc hại
đã và đang làm ảnh hƣởng rất lớn đến sức khỏe của con ngƣời, vật nuôi, mơi
trƣờng xung quanh, mặt khác nó cịn làm ảnh hƣởng đến ngành xuất khẩu
thủy sản của các nƣớc. Hơn thế nữa việc sử dụng kháng sinh từ thảo dƣợc có
những lợi ích thiết thực nhƣ: chi phí thấp, dễ kiếm, dễ sử dụng, an tồn với
vật ni, khơng gây hại cho con ngƣời và thân thiện với mơi trƣờng. Chính vì
những lợi ích nhƣ vậy, hiện nay có rất nhiều nƣớc trên thế giới quan tâm
nghiên cứu ứng dụng thảo mộc vào trong lĩnh vực ni trồng thủy sản. Trong
đó phải kể đến những nƣớc có ngành ni trồng thủy sản tƣơng đối phát triển
nhƣ các nƣớc thuộc châu Á nhƣ: Ấn Độ, Trung Quốc, Banglades, Thổ Nhĩ
Kỳ, Malaysia,…
Một số tác giả T. Rahman, MMR Akanda, MM Rahman, MBR
Chowdhury đã nghiên cứu đánh giá ảnh hƣởng của thuốc kháng sinh và các

loại thảo dƣợc đối với một số loại vi khuẩn gây bệnh phổ biến trên cá. Thí
nghiệm đƣợc tiến hành với 4 loại thuốc kháng sinh là: CFCIN (Cipro
floxacin), Renamycin (Oxytetracycline), Dt – 10 (Doxycycline) và Sulfatrim
(Sufadiazin + Trimethoprim) với các liều lƣợng 100, 75, 50 và 25 ppm; 4 loại
thảo dƣợc là: Tỏi, Nghệ, Akand (C.gigentia) và hỗn hợp Akand + Neem (A.
indica) với các nồng độ là 2, 4, 6, 8 mg/ml. Thí nghiệm tiến hành lần lƣợt đối
với cá bị nhiễm 1 trong 3 chủng vi khuẩn gây bệnh phổ biến là: Aeromonas
hydrophyla, Pseudomonas fluorescens và Edwardsiella tarda và cảm nhiễm
trên cá Thái bạc (Barbonymus gonionotus). Biện pháp chữa trị là tắm, đối với
kháng sinh tắm 3-4h/lần và 2 lần/ngày; đối với thảo dƣợc tắm với nồng độ
8mg/1ml và 2 lần/ ngày. Kết quả nhận đƣợc nhƣ sau: đối với kháng sinh hiệu
quả cao nhất (100% khỏi bệnh) là đối với CFCIN với liều lƣợng 75ppm. Đối


10
với thảo dƣợc hiệu quả cao nhất (90%  2,89) là đối với tỏi với liều lƣợng
8mg/ml. Và kết quả này ngang hoặc cao hơn với kết quả của 3 loại kháng sinh
còn lại. Còn kết quả thấp nhất là khi sử dụng Akand (50%  2,89). Nhƣ vậy
bƣớc đầu thí nghiệm đã cho kết quả tốt trong việc sử dụng thảo dƣợc để chữa
bệnh trên cá [31].
Ở Thổ Nhĩ Kỳ, các tác giả Hakar Turker, Arzu Birinci Yildirim và
Fatma Pehlivan Karakas đã tiến hành thử nghiệm khả năng kháng khuẩn của
22 loại thảo dƣợc có ở địa phƣơng đối với một số chủng vi khuẩn phổ biến
gây bệnh trên cá nhƣ: Aeromonas hydrophyla, Yersinia ruckeri, Lactococcus
garvieae, Streptococcus agalactiae và Enterococcus faecalis. Các loại thảo
dƣợc đƣợc chiết xuất với 2 loại dung môi là cồn và nƣớc. Kết quả dịch chiết
các loại thảo dƣợc cho khả năng kháng khuẩn cao nhất bao gồm: Nuphar
lutea, Nymphaea alba, Stachys annua, cây kim tƣớc chỉ Lydia, Vinca nhỏ,
Fragaria. Kết quả này cho thấy có thể tiếp tục nghiên cứu các loại thảo dƣợc
trên để cho ra sản phẩm thay thế dần thuốc kháng sinh hiện nay [27].

Ở Ấn Độ, một số tác giả Subramanian Velmurugan, Thavassimuthu
Citarasu đã nghiên cứu ảnh hƣởng của các chiết xuất từ một số thảo dƣợc
Murraya koenigii, Psoralea corylifolia và Quercus infectoria đối với một số
chủng vi khuẩn Pseudomonas aeruginosa, Staphylococcus aureus và các vi
khuẩn Vibrio harveyi đƣợc phân lập từ tôm trắng Ấn Độ (Fenneropenaeus
indicus) bị bệnh. Biện pháp áp dụng là nghiên cứu nồng độ ức chế tổi thiểu
của chiết xuất từ các thảo dƣợc trên đĩa thạch nghiêng có cấy vi khuẩn sau
24h. Sau đó thử nghiệm bằng cách trộn chiết xuất từ các thảo dƣợc vào thức
ăn và cho tôm ăn liên tục trong 30 ngày và cứ 10 ngày một lần cho tôm tắm
trong dung dịch có pha vi khuẩn gây bệnh Vibrio harveyi để theo dõi tỉ lệ mắc
bệnh và tỷ lệ sống sót giữa nhóm kiểm sốt và nhóm đối chứng. Ngồi ra thực
nghiệm cũng tiến hành kiểm tra hệ vi sinh vật đƣờng ruột của tôm sau khi cho
ăn thức ăn có trộn thảo dƣợc và so sánh với nhóm đối chứng. Bởi vì vi sinh
vật đƣờng ruột cũng là những tác nhân cơ hội gây bệnh khi sức đề kháng của


11
vật chủ bị suy giảm. Kết quả cho thấy có sự thay đổi đáng kể trong các thử
nghiệm nói trên giữa các loại thảo dƣợc và giữa nhóm kiểm sốt với nhóm đối
chứng (P < 0,05) [30].
Ngồi ra một số nƣớc khác nhƣ Trung quốc, Thái Lan, Malaysia cũng
có những nghiên cứu về các loại thảo dƣợc trong nƣớc trong phịng và trị
bệnh trên thủy sản nhằm mục đích hƣớng tới một ngành thủy sản xanh, với
mục tiêu hạn chế dƣ lƣợng thuốc kháng sinh và các hóa chất độc hại trong các
sản phẩm thủy sản.
1.3.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng thảo dƣợc trong nƣớc
Nhƣ vậy có thể thấy rằng vấn đề dƣ lƣợng thuốc kháng sinh trong nuôi
trồng thủy sản là một vấn đề chung trên thế giới, trong đó có nƣớc ta. Việc
tồn dƣ thuốc kháng sinh và các hóa chất độc hại trong thủy sản không những
ảnh hƣởng đến sức khỏe con ngƣời, vật nuôi và mơi trƣờng xung quanh mà

cịn trực tiếp ảnh hƣởng đến nền kinh tế ở trong nƣớc, đặc biệt nƣớc ta lại là
một nƣớc có nền kinh tế nơng nghiệp giữ một vai trị quan trọng, trong đó
ngành ni trồng thủy sản với mục tiêu đến năm 2015, sản lƣợng thủy sản đạt
3,6 triệu tấn, chiếm tỷ trọng 3,5-4,0 tỷ USD và đến năm 2020 sản lƣợng thủy
sản sẽ đạt 4,5 triệu tấn, chiếm tỷ trọng 5,0-5,5 tỷ USD [46].
Nƣớc ta là một trong những đất nƣớc từ xa xƣa đã có truyền thống sử
dụng thuốc đơng y để chữa bệnh cho con ngƣời. Với những danh y nổi tiếng
qua các triều đại nhƣ: Tuệ Tĩnh (đời nhà Trần), Hải Thƣợng Lãn Ông – Lê
Hữu Trác (đời nhà Hậu Lê), GS Đặng Văn Ngữ (1956) với cơng trình nghiên
cứu tác dụng kháng khuẩn trên 500 loài cây khác nhau,…Ngoài ra với một đất
nƣớc có nhiều dân tộc, mỗi một dân tộc lại có kinh nghiệm sử dụng các loại
thảo dƣợc khác nhau trong việc chữa bệnh cho ngƣời. Chính dựa trên một nền
văn hóa lâu đời và đa dạng nhƣ vậy nên để khắc phục và hạn chế việc sử dụng
thuốc kháng sinh trên thủy sản, các nhà khoa học trong nƣớc đã có những
cơng trình nghiên cứu về các loại thảo dƣợc trong việc phòng và trị bệnh cho
vật ni nói chung và thủy sản nói riêng.


12
Trong q trình ni các loại thủy sản với kinh nghiệm của mình các
hộ ni trồng cũng đã sử dụng một số biện pháp đơn giản và rẻ tiền nhằm hạn
chế dịch bệnh nhƣ: dùng lá xoan ngâm thả trong ao nhằm mục đích phịng và
chữa bệnh do giáp xác gây ra hoặc để hạn chế sự phát triển của trùng mặt trời
(Trichodina) kí sinh và gây bệnh trên các loài cá nƣớc ngọt. Dùng tỏi trộn vào
thức ăn cho cá để trị bệnh viêm ruột ở cá trắm cỏ. Ngoài ra để diệt cá tạp khi
tẩy dọn ao ƣơng nuôi tôm giống tôm thƣơng phẩm ngƣời dân thƣờng dùng rễ
dây thuốc cá đập dập cho ra chất nhựa trắng, sau đó ngâm trong ao có nƣớc
sâu 15-20 cm, sau 5-10 phút cá tạp sẽ nổi lên trên.
Dựa trên nguồn kinh nghiệm dân gian, các nhà khoa học trong nƣớc đã
lần lƣợt nghiên cứu các loại thảo dƣợc sẵn có, dễ tìm và rẻ tiền trong việc

phịng và trị bệnh cho các loài thủy sản và đã cho một số kết quả nhất định.
Một số cơng trình nghiên cứu trong điều kiện phịng thí nghiệm về các
loại thảo mộc trong phòng và trị bệnh do vi khuẩn gây ra trên các loại thủy
sản đã đƣợc tiến hành. Đồn Chí Thanh và các tác giả đã nghiên cứu thử
nghiệm một số loại thảo dƣợc trong phòng trị bệnh đốm đỏ trên cá trắm cỏ
giống (Ctenopharyngodon idellus). Thử nghiệm đƣợc tiến hành bằng cách
chiết xuất dịch chiết từ các loại thảo dƣợc Tỏi (nƣớc và cồn), lá Xoan, cây Cỏ
mực, Cộng sản, lá Bỏng, lá Hồn ngọc; sau đó pha lỗng ở các nồng độ khác
nhau và thử nghiệm trên đĩa có tráng vi khuẩn Aeromonas sp với mật độ
106CFU/ml. Kết quả cho thấy dịch chiết từ Tỏi có kết quả tốt nhất, còn dịch
chiết từ lá Xoan và cây Cỏ mực có kết quả thấp nhất (dựa vào đƣờng kính
vịng vơ khuẩn) [15]. Nguyễn Anh Tuấn đã tiến hành thử nghiệm một số loại
thảo dƣợc trong phòng trị bệnh nhiễm khuẩn trên cá trắm cỏ
(Ctenopharyngodon idellus). Thử nghiệm đƣợc tiến hành với phƣơng pháp
nhƣ trên và sử dụng các loại thảo dƣợc là: Tỏi, Cỏ sữa lá nhỏ, Chó đẻ răng
cƣa, lá Húng, hỗn hợp lá Húng và Tỏi với các tỷ lệ khác nhau, Rau sam,
Nghệ, Cỏ bạc đầu, Sài đất. Kết quả cho thấy có 4 loại hợp chất là Tỏi, Cỏ sữa
lá nhỏ, Chó đẻ răng cƣa, Tỏi + lá Húng có khả năng tiêu diệt chủng vi khuẩn


13
phân lập đƣợc (Aeromonas sp), trong đó hợp chất đƣợc phối trộn từ Tỏi và lá
Húng với tỷ lệ 50% : 50% có khả năng kháng khuẩn cao nhất và giảm dần
xuống đối với những hợp chất cịn lại [21].
Ngồi ra cịn có các nghiên cứu sâu hơn của các nhà khoa học về thành
phần các chất có trong thảo mộc. Điều này đã tạo điều kiện cho các cơ sở, các
nhà máy bào chế thảo dƣợc dƣới dạng chế phẩm hoặc thuốc, có sự kết hợp
của nhiều thành phần có cơng dụng cao hơn và thuận tiện sử dụng hơn đối với
ngƣời dân. Một số sản phẩm do Trung tâm quan trắc cảnh báo mơi trƣờng và
phịng ngừa dịch bệnh thuỷ sản miền Bắc thuộc Viện nghiên cứu nuôi trồng

thuỷ sản I bài chế nhƣ: thuốc KN-04-12 của tác giả Hà Ký là sản phẩm thuốc
thảo dƣợc của cấp nhà nƣớc mã số KN-04-12 gồm các thành phần Tỏi, Sài
đất, Nhọ nồi, Cỏ sữa, Chó đẻ răng cƣa phối trộn với vitamin và một số
khoáng vi lƣợng khác. Sản phẩm dùng để phòng và trị bệnh nhiễm khuẩn
(xuất huyết đồm đỏ, thối mang, viêm ruột). Thuốc Becanor TD1 và Becanor
TD2 là 2 sản phẩm của tác giả Phan Thị Vân, gồm thành phần chính là Tỏi
ngồi ra cịn có một số thành phần khác nhƣ: vitamin và một số khống vi
lƣợng khác,… Sản phẩm dùng để phịng trị bệnh lở loét, đốm đỏ cho một số
loài cá nƣớc ngọt nhƣ: cá Trắm cỏ, cá Tra, cá Ba sa, cá Chép. Thuốc còn giúp
tăng cƣờng sức đề kháng và phòng chống stress cho cá nuôi [47]. Hai sản
phẩm này đã đƣợc Nguyễn Viết Khuê và các cộng sự thử nghiệm để điều trị
bệnh đốm đỏ cho cá trắm cỏ tại các ao nuôi và lồng nuôi tại 2 tỉnh Bắc Ninh
và Thái Nguyên từ tháng 3/2008-10/2009. Kết quả cho thấy sau khi sử dụng 2
sản phẩm này để điều trị bệnh cho cá trắm cỏ thƣơng phẩm thì tỷ lệ cá sống
trong các ao/lồng nuôi cao hơn so với ao/lồng nuôi đối chứng [35].
Bùi Quang Tề (2005) đã nghiên cứu chế phẩm VTS1 – C và VTS1 – T
là 2 sản phẩm phối chế từ các hoạt chất tách chiết từ tỏi, sài đất sử dụng
phòng bệnh cho cá tra và tôm sú nuôi ao hoặc nuôi lồng đạt kết quả tốt, phòng
đƣợc bệnh nhiễm khuẩn do các vi khuẩn Aeromonas hydrophyla, Edwarsiella
tarda, Hafnia alvei, Vibrio harveyi, V.alginolyticus cho tôm cá [47].


14
Nguyễn Quang Linh, Trần Quang Khánh Vân và các cộng sự đã nghiên
cứu chế phẩm Bokashi trầu, là chế phẩm đƣợc sản xuất dựa trên công nghệ
chiết xuất dịch chiết từ lá trầu và lên men với các vi sinh vật có lợi, chế phẩm
tạo nên có thành phần chủ yếu: eugenol, chavicol, estradiol, cadinen và các
hợp chất phenol khác từ dịch chiết lá trầu và các vi sinh vật chủ yếu thuộc
nhóm Lactobacillus. Chế phẩm đƣợc sử dụng bằng cách trộn vào thức ăn cho
thủy sản nuôi. Sản phẩm vừa có khả năng kháng khuẩn, vừa có khả năng tăng

cƣờng vi sinh vật có lợi trong đƣờng tiêu hóa của động vật thủy sản. Chế
phẩm có nguồn gốc từ thiên nhiên nên thân thiện với môi trƣờng và nâng cao
sức đề kháng cho động vật thủy sản. Ngoài ra tơm đƣợc bổ sung chế phẩm có
màu sáng hơn và vỏ kintin cứng hơn so với tôm không đƣợc bổ sung chế
phẩm [36].
Một số sản phẩm chế xuất từ thảo dƣợc đã nghiên cứu thành cơng và
đƣợc thƣơng mại hóa góp phần vào việc cùng nhà nơng hƣớng tới quy trình
sản xuất và ni trồng thủy sản xanh, sạch và bền vững. Nhƣ: SDK, TS.01,
TS 999, TR 555, TS 1002,… Các sản phẩm này đã đƣợc kiểm nghiệm trong
thực tế và đƣợc sự chấp nhận rộng rãi của ngƣời nuôi trồng thủy sản.
Nhƣ vậy có thể thấy ở nƣớc ta đã có những cơng trình nghiên cứu về
tác dụng của các loại thảo đối với các bệnh trên thủy sản nuôi cũng nhƣ các
nghiên cứu sâu hơn về thành phần hóa học của các loại thảo dƣợc để chiết
xuất thảo dƣợc dƣới dạng thuốc dễ sử dụng. Tuy nhiên trong số các cơng trình
đã đƣợc cơng bố thì cơng trình nghiên cứu cề các loại thảo dƣợc hoặc các chế
phẩm từ thảo dƣợc để phòng và trị bệnh thƣờng gặp trên cá Rơ phi vằn chƣa
có. Vì vậy trong đề tài này chúng tôi muốn thử nghiệm tác dụng kháng khuẩn
của dịch ép một số loại thảo dƣợc đối với vi khuẩn Streptococcus sp gây bệnh
xuất huyết trên cá Rô phi vằn.
1.3.3. Các loại thảo dƣợc
Ở nƣớc ta có rất nhiều loại thảo dƣợc có khả năng chữa đƣợc bệnh. Tuy
nhiên với mục tiêu của đề tài là hƣớng tới các loại thảo dƣợc rẻ tiền, dễ tìm,


15
dễ sử dụng và có hiệu quả cao đối với việc phòng và trị bệnh trên thủy sản,
nên trong đề tài này chúng tôi lựa chọn các loại thảo dƣợc dễ tìm, quen thuộc
có mặt hàng ngày trong cuộc sống của ngƣời dân.
1.3.3.1. Tỏi Allium sativum L.
Thuộc họ Hành - Alliaceae.

- Đặc điểm:
Cây thảo sống nhiều năm. Thân thực hình trụ, phía dƣới mang nhiều rễ
phụ, phía trên mang nhiều lá. Lá cứng, hình dải, thẳng dài 15-50cm, rộng 12,5cm có rãnh khía, mép lá hơi ráp. Ở mỗi nách lá phía gốc có một chồi nhỏ
sau này phát triển thành một tép Tỏi; các tép này nằm chung trong một cái
bao (do các bẹ lá trƣớc tạo ra) thành một củ Tỏi tức là thân hành (giò) của
Tỏi. Hoa xếp thành tán ở ngọn thân trên một cán hoa dài 55cm hay hơn. Bao
hoa màu trắng hay hồng đƣợc bao bởi một cái mo dễ rụng, tận cùng thành
mũi nhọn dài.
Hoa tháng 5-7, quả tháng 9-10.
- Bộ phận dùng: Thân hành (giị) - Bulbus Allii, thƣờng có tên là Ðại toán
- Nơi sống và thu hái: Cây của miền Trung châu Á, đƣợc gây trồng ở nhiều
nƣớc ôn đới. Ở nƣớc ta, cũng trồng nhiều, có những vùng trồng Tỏi có tiếng ở
Quảng Ngãi, Hà Bắc, Hải Hƣng... Tỏi là gia vị rất quen thuộc trong đời sống
của nhân dân ta. Thƣờng ta thu hoạch vào cuối đông, đầu xn; có thể dùng
tƣơi hay phơi khơ dùng dần.
- Tác dụng dƣợc lý:
Trong các nghiên cứu và thử nghiệm các loại thuốc chiết xuất từ dịch
ép củ Tỏi trên ngƣời bệnh đã cho thấy Tỏi có tác dụng chữa trị nhiều căn
bệnh khác nhau. Trong tỏi tƣơi có chất allicin, nhờ tác dụng của men allinaza
chuyển hóa aliin có sẵn trong tỏi thành allicin, là chất chủ yếu gây tác dụng
đối với vi khuẩn. Allicin là chất kháng sinh tự nhiên có tác dụng mạnh hơn cả
penicillin. Nƣớc tỏi pha lỗng 125.000 lần vẫn có dấu hiệu ức chế nhiều loại
vi khuẩn gram âm và gram dƣơng nhƣ: Staphylococcus, Streptococcus,


16
samonella, V. cholerae, B. dysenteriae, Mycobacterium tuberculosis. Tỏi cũng
ức chế sự phát triển của nhiều loại siêu vi nhƣ siêu vi trái ra, bại liệt, cúm và
một số loại nấm gây bệnh ở da hoặc bộ phận sinh dục nữ nhƣ candida. Trong
Tỏi cịn có liallyl sulfide, chất này tuy khơng mạnh bằng allicin nhƣng có thể

tồn tại lâu hơn và giữ nguyên đƣợc dƣợc tính khi nấu [34]. Data (1948) đã
phân lập từ Tỏi một chất gọi là allistalin, có tính chất giống nhƣ allicin;
Machado (1948) cũng phân lập từ Tỏi chất garcin, nó là một chất kháng
khuẩn màu vàng, khơng có mùi lƣu huỳnh, khơng độc, có tác dụng đến cả vi
khuẩn Gram (-) và Gram (+). Garcin có thể dễ dàng hấp thu qua thành ruột và
có thể đi tới dịch não tủy, đã ứng dụng có kết quả trong nhiễm khuẩn Shigella
hoặc do các bệnh ký sinh trùng nhƣ giun kim, giun đũa và giun tóc. Các nhà
khoa học Mỹ đã tìm thấy chất prostagladin A trong nƣớc Tỏi, có khả năng
hạn chế bệnh nhồi máu cơ tim, hạ huyết áp, phòng bệnh xơ vữa động mạch.
Các bác sĩ Nhật Bản lại nhận xét rằng do Tỏi chứa chất allixotine nên Tỏi có
tác dụng chữa đau lƣng, viêm khớp. Ngoài ra các nghiên cứu lâm sàng cũng
cho thấy Tỏi có tác dụng chữa trị đƣợc nhiều căn bệnh nhƣ: các bệnh về tai,
mũi, họng; bỏng nhiễm khuẩn và vết thƣơng có mủ; dùng Tỏi để trị các loại
giun; dùng nƣớc ép Tỏi để trị viêm âm đạo trùng roi; chữa các bệnh về tim
mạch [4, tr. 223-228]. Theo kinh nghiệm của ngƣời dân, có thể dùng tỏi trộn
vào thức ăn cho cá để trị bệnh viêm ruột ở cá Trắm cỏ.
1.3.3.2. Ổi Psidium guajava L.
Hay còn có tên gọi là: Phan thạch lựu, Thu quả, Kê thỉ quả,… thuộc họ
Sim – Myrtaceae
- Đặc điểm:
Cây nhỡ cao 5-10m. Vỏ nhẵn, mỏng, khi già bong từng mảng lớn. Cành
non vng, có nhiều lơng mềm, về sau hình trụ và nhẵn. Lá mọc đối, thn
hay hình trái xoan, gốc tù hay gần tròn, gân lá nổi rõ ở mặt dƣới. Hoa trắng,
mọc đơn độc hay tập trung 2-3 cái thành cụm ở nách lá. Quả mọng hình cầu,
chứa rất nhiều hạt hình bầu dục. Ðài hoa tồn tại trên quả.


17
- Bộ phận dùng: Lá, quả ổi xanh - Folium et Fructus Psidu Guajavae.
- Nơi sống và thu hái: Gốc ở châu Mỹ nhiệt đới đƣợc trồng rộng rãi ở nhiều

nơi, có khi gặp ở trạng thái hoang dại. Các bộ phận của cây đƣợc thu hái
quanh năm và phơi khô.
- Tác dụng dƣợc lý:
Đối với Ổi, một số công trình nghiên cứu về thành phần hố học cho
thấy quả và lá đều chứa sitosterol, quercetin, quaijaverin, leucocyanidin và
avicularin, trong lá Ổi non và búp non cịn có volatile oil, eugenol, 7-10%
tanin pyrogalic, khoảng 3% nhựa. Nhựa cây ổi chứa acid d-galacturonic
(72,03%), d-galactose (12,05%) và l-arabinose [36], [49].
Trong đó quercetin là một flanovid có tác dụng điều trị các rối loạn nhƣ
tiêu chảy, viêm dạ dày và các vấn đề về tiêu hóa khác. Chất tanin (chất chát)
làm kết tủa protein ở niêm mạc tạo thành màng bao che niêm mạc, có tác
dụng làm săn se niêm mạc ruột, dạ dày, giảm tiết dịch vị và dịch ruột, giảm
nhu động ruột, do đó nó có tác dụng chữa tiêu chảy. Ngồi ra tanin cịn có tác
dụng sát trùng, chữa các vết thƣơng bị gỉ nƣớc lâu ngày; giải độc kim loại
nặng [48]. Một số nghiên cứu khác đã chứng minh chiết xuất từ lá và vỏ cây
của cây Ổi có tác dụng kháng lại một số vi khuẩn: Bacillus, Clostridium,
E.coli, Shigella, Staphylococcus, Salmonella và Pseudomonas, ngồi ra cịn
có khả năng kháng lại một số nấm (Candia) [4, tr. 21]. Theo kinh nghiệm
của ngƣời dân Ấn Độ, họ sử dụng nƣớc sắc từ lá và vỏ cây Ổi để chữa các
bệnh nhƣ: tiêu chảy, lị, nôn mửa, đau họng, chữa lở loét miệng, viêm âm đạo,
viêm thận, động kinh. Ngoài ra họ còn dùng các lá Ổi non nhai để chữa chảy
máu nƣớu răng, hơi thở hôi. Ngƣời dân ở Braxin sử dụng Ổi để làm thuốc lợi
tiểu, …[58]. Theo kinh nghiệm dân gian ở nƣớc ta, lá và búp Ổi non có tác
dụng chữa vết thƣơng do chấn thƣơng hoặc do thú, trùng cắn; vết loét lâu lành
ở chân tay; đau răng hoặc vết lở ở miệng; ho, sốt, viêm họng; tiêu chảy cấp;
tiểu đƣờng loại 2; băng huyết.


18
1.3.3.3. Cỏ lào Eupatorium odratum L.

- Cỏ lào (hay còn gọi Yến Bạch, Cỏ hôi, Cỏ Việt Minh, cây Cộng sản, cây
Lốp bốp, cây Ba bớp, cây phân xanh, Cỏ Nhật) thuộc chi Cỏ lào, họ Cúc Asteraceae.
- Đặc điểm:
Cỏ lào là một loại cây nhỏ mọc thành bụi, thân hình trụ thẳng cao tới
hơn 2 mét, có nhiều cành. Lá mọc đối, lúc non hình tam giác, dài 5-10cm,
rộng 3-6cm; khi cây trƣởng thành, lá biến dạng thành hình quả trám lệch. Đầu
lá nhọn, mép có răng cƣa thƣa, có lơng thƣa và ngắn ở cả hai mặt lá và ngọn
cành. Vị lá và cành non có mùi thơm hắc. Cụm hoa đầu, hình trụ dài 911mm, đƣờng kính 5-6mm. Lúc mới nở, hoa màu xanh tím nhạt, sau trắng.
Quả bé, nhỏ dài, đầu có túm lơng nên có thể phát tán đi rất xa nhờ gió. Mùa
hoa tháng 11-12 dƣơng lịch.
Ở Việt Nam, Cỏ lào phân bố nhiều nhất ở trung du, miền núi thấp, ngay
ở xã Hƣng Lộc – thành phố Vinh - Nghệ An cũng thấy những bụi lớn Cỏ lào
mọc ven đƣờng. Cây có thể sinh sản vơ tính rất mạnh, ngọn non, cành già bẻ
trụi lá, cắm xuống đất chỉ một tuần sau là mọc rễ trắng. Chặt cây sát gốc càng
đâm chồi mạnh (Dƣợc sỹ Trần Xuân Thuyết – CTQ số 20).
- Tác dụng dƣợc lý:
Theo kinh nghiệm dân gian, lá Cỏ lào ở dạng tƣơi đƣợc dùng để đắp
vết thƣơng ngoài, giúp cầm máu và nhanh lên da non; lá non nấu nƣớc tắm có
tác dụng chữa ghẻ; lá non Cỏ lào hãm lên pha với nƣớc đƣờng uống có tác
dụng chữa lỵ cấp tính và ỉa chảy; nƣớc sắc Cỏ lào dùng uống chữa đau nhức
xƣơng…
Theo nghiên cứu của Viện Nghiên cứu y học quân sự (1976) thì lá,
thân, rễ Cỏ lào đều có tác dụng chống viêm nhƣng lá có tác dụng mạnh hơn
cả. Nƣớc sắc Cỏ lào có tác dụng ức chế vi khuẩn gây mủ trên vết thƣơng và
ức chế trực khuẩn lỵ Shigella. Cũng theo nghiên cứu của Viện Nghiên cứu y
học quân sự (1983), ngọn non và lá bánh tẻ thu hái trong các tháng đều có


19
hiệu lực nhƣ nhau. Ngọn có nụ hiệu lực kháng khuẩn kém (điều này khác với

các dƣợc liệu khác, khi có nụ là lúc hoạt chất cao nhất). So sánh giữa dƣợc
liệu tƣơi, khô và các dung môi chiết xuất khác nhau thì dƣợc liệu tƣơi chiết
bằng nƣớc nóng 80oC ít tạp chất và có hiệu lực kháng khuẩn cao nhất, so với
dƣợc liệu khô và dung môi cồn. Cao đặc và cao khô (chiết từ dƣợc liệu tƣơi
bằng nƣớc nóng 80oC) bảo quản đƣợc lâu (sau 1 năm khơng mốc) và giữ
nguyên hiệu lực kháng khuẩn.
Nghiên cứu kỹ thành phần hóa học của cây Cỏ lào thì trong lá, thân, rễ
Cỏ lào đều có alcaloid, tinh dầu, tanin, trong lá tinh dầu chiếm khoảng 1,5%
tính theo lá tƣơi (Theo Đặng Hanh Khơi, Hồng Nhƣ Mai và nhiều tác giả,
1981). Cũng theo các tác giả trên thì Cỏ lào (nƣớc sắc từ lá) có tác dụng đối
với các vi khuẩn: Staphylococcus aureus, Salmonella typhi, Bacillus proteus,
Bacillus subtilis, Shigella shigae. Dịch chiết từ Cỏ lào đƣợc tinh chế thành
dạng cao có tên gọi là Eupolin – 12 dùng để điều trị các bệnh nhƣ: viêm
nhiễm cấp, viêm nhiễm mãn tính liên quan đến răng, lợi (thử nghiệm của
Trƣơng Minh Kháng, 1989). Ngồi ra Nguyễn Đình Phàn, Nguyễn Chánh và
Hồng Xn Tuệ (1992) cũng đã thử nghiệm dùng cao Cỏ lào để điều trị vết
thƣơng phần mềm và cũng cho kết quả tốt [49].
1.3.3.4. Cỏ Mực Eclipta prostrata L.
Hay còn gọi là Cỏ mực, Hạn liên thảo, Mặc hạn liên, Kim lăng thảo,
thuộc họ Cúc - Asteraceae.
- Đặc điểm:
Cây thảo 1 năm cao 10-60cm, có thân màu lục, đơi khi hơi đỏ tím, có
lơng. Lá mọc đối, hẹp, dài 3-10cm, rộng 0,5-2,5cm, có lơng ở cả hai mặt, mép
khía răng. Hoa màu trắng, tập hợp thành đầu ở nách lá hoặc đầu cành, các hoa
cái hình lƣỡi ở ngồi, các hoa lƣỡng tính hình ống ở giữa. Quả bế dẹt, có 3
cạnh có cánh dài 3mm. Hoa tháng 7-9, quả tháng 9-10.
- Bộ phận dùng: Phần cây trên mặt đất - Herba ecliptae


20

- Nơi sống và thu hái: Loài cây liên nhiệt đới, mọc hoang ở chỗ ẩm mát khắp
nơi. Có thể thu hái quanh năm, dùng tƣơi hay phơi khô [45], [49].
- Tác dụng dƣợc lý:
Theo các tài liệu nghiên cứu về thành phần hóa học của Cỏ mực đã
đƣợc cơng bố thì trong Cỏ mực có alcaloid ecliptin, nicotine, terthienylinethenol, -formyl -terthienyl; cịn có tinh dầu, tanin, chất đắng,
caroten, cumarin lacton. Còn về tác dụng kháng khuẩn của cỏ Mực, thì Cỏ
mực có tác dụng ức chế sự nảy mầm của một vài loại nấm (Fusarium nivale,
Cephalosporum sacchari) nhƣng rất yếu (theo Economic Botany vol 30, 10–
12/1976, pp. 371–374) [11], [49].
Cỏ mực có độc tính thấp, thử trên chuột bạch với liều 5-80 lần liều dùng lâm
sàng không thấy triệu chứng độc. Thực tế lâm sàng đã dùng với liều 40100g/ngày, kéo dài trong nhiều ngày không nhận thấy dấu hiệu ngộ độc [4, tr.
56-57].
1.3.3.5. Nghệ Curcuma longa L.
Hay Nghệ vàng, thuộc họ Gừng – Zingiberaceae
- Đặc điểm:
Cây thảo sống nhiều năm, cao khoảng 1m. Thân rễ phát triển thành củ
hình khối, trên đó sinh ra nhiều rễ trụ có màu vàng cam. Rễ to, mọc từ rễ củ,
đoạn cuối ln phình to ra thành hình thoi. Lá mọc so le, có bẹ, hình dải rộng.
Hoa màu vàng xếp thành bơng hình trụ ở ngọn thân; lá bắc màu lục hay màu
trắng nhạt pha hồng ở chóp lá. Quả hình cầu, có 3 ơ.
- Bộ phận dùng: Thân rễ - Rhizoma Curcumae Longae, thƣờng gọi là Khƣơng
hoàng.
- Nơi sống và thu hái:
Gốc ở Ấn Độ, đƣợc trồng lấy thân rễ làm gia vị và làm thuốc. Thân rễ
thƣờng đƣợc thu hái tháng 8, tháng 9, cắt bỏ hết rễ để riêng. Muốn để lâu,
phải hấp trong 6-12 giờ, sau đó để ráo nƣớc đem phơi nắng hay sấy khô [45].
- Tác dụng dƣợc lý:


21

Củ Nghệ đƣợc bắt đầu sử dụng trong y học Ayurveda tại Ấn Độ từ
khoảng năm 1900 trƣớc Công nguyên để chữa trị một loạt các loại bệnh tật.
Nghiên cứu của các nhà khoa học vào cuối thế kỷ 20 đã xác định curcumin
đóng vai trị quan trọng trong các hoạt tính sinh học của củ Nghệ [23]. Theo
nghiên cứu của nhiều nhà khoa học cho thấy curcumin có khả năng chống ung
thƣ, chống ơxi hóa, chống viêm khớp, chống thối hóa, chống thiếu máu cục
bộ và kháng viêm [22], [24], [29]. Ngoài ra theo các nghiên cứu đƣợc tiến
hành trên chuột của UCLA Alzheimer’s Disease Center và của các nhà khoa
học Veterans Affairs đã chỉ ra rằng, hoạt chất curcumin có tác dụng làm chậm
q trình hình thành loại protein có tên “beta amyloid” trong não, đây là
nguyên nhân gây ra bệnh Alzheimer ở những ngƣời già.
Ở nƣớc ta có 8 lồi Nghệ khác nhau, trong đó lồi đƣợc sử dụng nhiều
nhất là loài Curcuma longa. Theo Nguyễn Xuân Cƣờng và Nguyễn Văn Đàn
(1977); Nguyễn Khang và nhiều tác giả (1978) thì trong Nghệ có chất màu
curcumin tinh dầu, nó là một chất lỏng màu vàng nhạt, thơm, có chứa
turmerol và ar-turmerol. Từ tinh dầu Nghệ Việt Nam, Nguyễn Khang và
nhiều tác giả (1982) đã phân lập đƣợc một vài thành phần nhƣ turmerol và arturmerol. Nghiên cứu tác dụng kháng khuẩn của tinh dầu và một số thành
phần có trong tinh dầu đã thu đƣợc kết quả là tinh dầu Nghệ, turmerol và arturmerol đều có tác dụng mạnh với Mycobacterium tuberculosis H37Rv ở độ
pha loãng 1 microgam/ml. Tuy nhiên một số giống vi khuẩn nhƣ Klebsiella
sp, Shigella flexneri, E. coli, Salmonella typhi, Bacillus mycoides, Proteus
vulgaris thì tác dụng kháng khuẩn của tinh dầu và ar-turmerol khơng có, cịn
turmerol có tác dụng kháng khuẩn trung bình. Cịn theo kinh nghiệm dân gian
thì Nghệ có tác dụng kích thích lên da non và nhanh liền sẹo,…[11].
1.3.3.6. Húng quế Ocimum basilicum L.
Hay còn gọi là Húng giổi, É trắng thuộc họ Hoa môi – Lamiaceae.
- Đặc điểm: Cây bụi nhỏ, cao tới 50-80cm, có mùi thơm đặc biệt. Cành
vng, lá đơn, mọc đối, màu lục bóng, hơi khía răng ở mép. Hoa mọc thành


22

chùm đơn, dài đến 20cm, gồm những vòng 5-6 hoa cách xa nhau. Hoa nhỏ có
tràng hoa màu trắng hay hồng, chia hai mơi, mơi dƣới hơi trịn, cịn mơi trên
chia thành 4 thùy đều nhau. Quả bế tƣ, rời nhau, mỗi quả chứa 1 hạt đen,
bóng có vân mạng.
- Bộ phận dùng: Toàn cây và hạt
- Nơi sống và thu hái: Loài cỏ nhiệt đới, đƣợc trồng để lấy cành làm rau ăn
sống nhƣ là gia vị thơm, nhƣng cũng đƣợc trồng để lấy hạt làm thạch. Có thể
gieo hạt vào tháng 3 và trồng vào tháng 5. Thu hái vào mùa hè thu, rửa sạch
và phơi khô [49].
- Tác dụng dƣợc lý:
Trong Húng quế có chứa tinh dầu (0,02-0,08%) có hàm lƣợng cao nhất
lúc cây đã ra hoa. Tinh dầu có mùi thơm của Sả và Chanh. Trong tinh dầu có
linalol (60%), cineol, estragol melyl - chavicol (60-70%) và nhiều chất khác
[49]. Tinh dầu Húng quế làm hạn chế sự phát triển của rất nhiều vi khuẩn
nhƣ: khuẩn tụ cầu, cầu khuẩn tràng, trực khuẩn. Ngoài ra Húng quế có chứa
flavonoid với 2 chất orientin và vicenin, đây là 2 chất flavonoid quan trọng
tan trong nƣớc. Các chất flavonoid trong húng quế này bảo vệ cấu trúc tế bào
cũng nhƣ các nhiễm sắc thể từ bức xạ và ơ xi hóa tự nhiên. Húng quế cịn có
tác dụng chống viêm, giúp phòng tránh bệnh viêm khớp, những vấn đề về tuổi
tác và phòng ngừa bệnh ung thƣ [55].


23
CHƢƠNG 2. VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƢỢNG VÀ VẬT LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1.1. Đối tƣợng nghiên cứu
- Chủng vi khuẩn Streptococcus sp đƣợc thu và lƣu giữ bởi phịng thí nghiệm
cơ sở thủy sản, khoa Nơng – Lâm – Ngƣ trƣờng Đại học Vinh
- Các loại thảo dƣợc:
+ Cỏ lào: đƣợc hái vào buổi sáng, ở xã Hƣng Lộc – Tp Vinh – tỉnh

Nghệ An. Bộ phận sử dụng: lá bánh tẻ
+ Tỏi: đƣợc lấy ở xã Nghi Phong – Nghi Lộc – Nghệ An. Bộ phận sử
dụng: củ (thân hành).
+ Cỏ mực: đƣợc hái ở xã Nghi Phong – Nghi Lộc – Nghệ An. Bộ phận
sử dụng: lá bánh tẻ.
+ Ổi: đƣợc trồng ở xã Nghi Phong – Nghi Lộc – Nghệ An. Bộ phận sử
dụng: lá bánh tẻ.
+ Húng quế: đƣợc trồng ở xã Nghi Phong – Nghi Lộc – Nghệ An. Bộ
phận sử dụng: lá bánh tẻ.
+ Nghệ: đƣợc trồng ở xã Nghi Phong – Nghi Lộc – Nghệ An. Bộ phận
sử dụng: củ.
2.1.2. Vật liệu nghiên cứu
- Dụng cụ cấy truyền, định lƣợng vi khuẩn: Đĩa lồng, que cấy vô trùng, que
gạt, đèn cồn, pipet, kẹp gắp, tủ lạnh, tủ ấm, nồi hấp,…
- Dụng cụ lấy dịch ép thảo dƣợc: Máy xay, chai lọ, giấy lọc…
- Hoá chất: Cồn, nƣớc muối sinh lý, nƣớc cất,…
- Môi trƣờng nuôi cấy cơ bản Nutrient agar
- Giấy tẩm nƣớc ép thảo dƣợc đƣờng kính 6mm...
2.2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
- So sánh khả năng kháng khuẩn của dịch ép các loại thảo dƣợc
- So sánh khả năng kháng vi khuẩn Streptococcus sp của các loại thảo dƣợc ở
các nồng độ dịch ép khác nhau.


24
Khả năng kháng vi khuẩn Streptococcus sp của dịch ép các loại
thảo dƣợc: Cỏ lào, Tỏi, Cỏ mực, lá Ổi, lá Húng, củ Nghệ.

Khả năng kháng vi khuẩn
Streptococcus sp của dịch ép

các loại thảo dƣợc ở các
nồng độ khác nhau.

Khả năng kháng vi khuẩn
Streptococcus sp của hỗn hợp
Tỏi và Húng quế với các tỷ lệ
khác nhau.

Ảnh hƣởng của yếu tố nhiệt
độ bảo quản và thời gian bảo
quản đến hiệu lực kháng khuẩn
của dịch ép từ lá Cỏ lào.

Nhận xét và kết luận
Hình 2.1. Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu khả năng kháng khuẩn của hỗn hợp thảo dƣợc Tỏi và Húng quế
với các tỷ lệ khác nhau.
- Đánh giá ảnh hƣởng của yếu tố nhiệt độ bảo quản và thời gian bảo quản đến
hiệu lực kháng khuẩn của dịch ép từ lá Cỏ lào.
2.3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.3.1. Phƣơng pháp lấy dịch ép thảo dƣợc

- Đối với các loại thảo dƣợc: Ổi, Cỏ lào, Cỏ mực, Húng quế sử dụng
bộ phận lá, ta lấy những lá bánh tẻ, tƣơi. Sau đó rửa sạch, để ráo nƣớc tự
nhiên ở nhiệt độ phòng. Rồi cân khối lƣợng lá rồi cho vào máy xay thật
nhuyễn, vắt lấy dịch ép và lọc qua lƣới lọc. Dịch ép đƣợc bảo quản ở nơi khơ
thống và ở nhiệt độ phịng
- Đối với Tỏi và Nghệ sử dụng bộ phận thƣờng gọi là củ (thân hành
hoặc thân rễ), ta lấy những củ chắc, đều, đẹp. Sau đó bỏ vỏ và rửa sạch, để ráo
nƣớc tự nhiên ở nhiệt độ phòng. Tiến hành cân khối lƣợng củ rồi cho vào máy



25
xay thật nhuyễn, vắt lấy dịch ép và lọc qua lƣới lọc. Dịch ép đƣợc bảo quản ở
nơi khơ thống và ở nhiệt độ phòng.
2.3.2. Phƣơng pháp định lƣợng mật độ vi khuẩn
Chuẩn bị một số ống nghiệm vô trùng, mỗi ống chứa 9ml nƣớc muối sinh
lý.
Lấy 1ml mẫu nƣớc cần nghiên cứu, đƣa sang ống nghiệm thứ nhất làm
đồng đều ta đƣợc độ pha loãng 10 lần (10-1).
Lấy 1ml nƣớc ở ống nghiệm 10-1 cho vào ống nghiệm thứ 2, ta đƣợc độ
pha loãng 100 lần (10-2).
Cứ làm nhƣ vậy ta đƣợc độ pha loãng tiếp theo: 10-3, 10-4, …,10-n.
Lấy 0,1ml nƣớc nghiên cứu ở 2 – 3 độ pha lỗng khác nhau, ni cấy
trên đĩa thạch chứa mơi trƣờng cần thiết bằng que gạt. Mỗi độ pha loãng nuôi
cấy trên 2 – 3 đĩa lồng.
Nuôi cấy ở nhiệt độ 300C, sau 24 – 72 giờ, đem ra đếm số khuẩn lạc mọc trên
đĩa thạch, lấy giá trị trung bình của các đĩa lồng có cùng nồng độ pha lỗng.

Nƣớc muối sinh lý
1ml

1ml

Vi khuẩn gốc

9ml

1ml


9ml

1ml

9ml

1ml

9ml

1ml

9ml

1ml

9ml

1ml

9ml

NA(-)

9ml

NA(-)

Hình 2.2. Sơ đồ các bƣớc pha loãng nồng độ vi khuẩn
Mật độ vi khuẩn tính theo cơng thức: CFU/ml =


A
V .K

Trong đó:
A: Số lƣợng khuẩn lạc trung bình trong 1 độ pha lỗng

NA(-)


×