Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Đóng góp nghệ thuật của thơ văn cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (682.63 KB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRẦN ĐÌNH HƢNG

ĐÓNG GÓP NGHỆ THUẬT
CỦA THƠ VĂN CAO
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Chuyên ngành: LÝ LUẬN VĂN HỌC
Mã số: 60.22.32

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS. TS. PHAN HUY DŨNG

VINH - 2011


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Văn Cao (1923 - 1995) là một nghệ sĩ đa tài, ông vừa là nhạc sĩ,
hoạ sĩ nổi tiếng Việt Nam thế kỉ XX, đồng thời còn là một nhà thơ đã để lại
nhiều thi phẩm đặc sắc. Tuy nhiên do nhiều lí do khác nhau, có những lúc
cống hiến nghệ thuật của Văn Cao, trong đó có cống hiến cho văn học, cho
thơ ca chưa được đánh giá thoả đáng.
1.2. Thơ Văn Cao luôn thể hiện một nội tâm sâu sắc và đã khắc họa
được sắc nét chân dung tinh thần của thời đại. Song hành với nhiều nhà thơ
cùng thế hệ, Văn Cao đã góp phần tạo nên được một giai đoạn phát triển mới
của thơ Việt Nam hiện đại sau Thơ mới 1932 - 1945. Nghiên cứu thơ ơng, vì
thế, ta có thể hiểu thêm được nhiều điều về nhân cách sáng tạo của một nghệ


sĩ lớn, đồng thời hiểu thêm về cuộc vận động đổi mới thi pháp thơ trong lòng
những cuộc vận động cách mạng lớn lao cách nay hơn nửa thế kỷ đã làm thay
đổi sâu sắc đời sống dân tộc.
1.3. Đi vào tìm hiểu đóng góp nghệ thuật của thơ Văn Cao, người
nghiên cứu sẽ có cơ hội khám phá ra những mối liên hệ khăng khít giữa các
loại hình nghệ thuật khác nhau và có điều kiện lý giải được cấu trúc bí ẩn của
những sáng tác vốn là kết quả của một sự tích hợp tài năng đa dạng.
2. Lịch sử vấn đề
Văn Cao là một hiện tượng đặc biệt trong lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật
ở Việt Nam. Ông tiêu biểu cho mẫu hình người nghệ sỹ đa năng, đa tài và dồi
dào cảm quan sáng tạo. Di sản nghệ thuật thuật của ông để lại khá phong phú
cả về nhạc, thơ và họa. Ở lĩnh vực nào ông cũng dành được những thành tựu
đáng kể, tạo nên những dấu ấn sâu sắc, làm nên một phong cách độc đáo.
Chính vì thế mà hiện tượng Văn Cao đã thu hút sự chú ý mạnh mẽ của giới


2

nghiên cứu phê bình, đặc biệt là sau Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ VI, khi
khơng khí đổi mới và dân chủ đã tác động tích cực đến các hoạt động văn học
nghệ thuật, khi vị trí và danh dự của nhiều nhà văn, nhà thơ, trong đó có Văn
Cao được khơi phục và khẳng định. Nhiều cơng trình, bài viết của giới nghiên
cứu cũng như bạn đọc về Văn Cao lần lượt ra đời. Bức chân dung tinh thần
của người nghệ sỹ lớn Văn Cao dần được định hình rõ nét.
Khởi đầu là những bài viết của nhạc sỹ, nhà thơ, nhà báo Nguyễn Thụy
Kha về Văn Cao in trên các báo, sau được tập hợp inh thành cuốn Văn Cao
ngƣời đi dọc biển (1991). Trong cuốn sách này tác giả đã giới thiệu khá đầy
đủ cuộc hành trình sáng tạo nghệ thuật đầy gian nan nhưng rất đỗi tự hào của
tác giả Quốc ca Việt Nam. Mặc dù chưa có những nghiên cứu sâu về sáng tác
của Văn Cao, nhất là thơ song như tác giả đã tâm sự trong phần Lời bạt của

cuốn sách: “Ở tập văn xuôi “Văn Cao - người đi dọc biển” này tôi không ham
kê sự kiện mà thường muốn nhận ra những gì trăn trở đằng sau những sự kiện
kể cả lúc sáng tác cũng như lúc vấp vấp phải những sự đời nghiệt ngã” và tác
giả khẳng định “Ông vừa là cá nhân một nghệ sỹ lớn, vừa là biểu tượng cho
một nghệ thuật chân chính” [22; 134].
Năm 1996 với cơng trình Văn Cao cuộc đời và tách phẩm (do Lữ Huy
Nguyên tuyển chọn). Với dung lượng gần 450 trang, tập sách khá bề thế này
đã cung cấp cho người đọc những hiểu biết khá toàn diện về Văn Cao, từ cuộc
đời đến tác phẩm, những sóng gió và vinh quang, những cay đắng và hào
quang. Ngoài tinh tuyển những tác phẩm về nhạc, thơ và họa, cuốn sách còn
tập hợp những bài viết tâm huyết của các nhà nghiên cứu và các bạn bè văn
nghệ sỹ của Văn Cao đã in trên các báo và ở những cuốn sách khác. Mặc dù
các tác phẩm và những bài viết về Văn Cao trong cuốn sách tương đối phong
phú, có nhiều đánh giá nhận định xác đáng : “Tâm hồn Văn Cao ln nghiêng
về đau khổ. Văn Cao cố tìm cách né tránh nó bằng sự thốt du của trí tuệ...,


3

Văn Cao muốn tự giải thoát bằng sáng tác. Ở Văn Cao, mỗi lời thơ là một hạt
ngọc,mỗi tiếng nhạc là một sợi tơ, mỗi màu sắc là một vùng hào quang diễm
lệ” [31; 186-187]. Thanh Thảo trong bài viết Văn Cao thơ đã không tiếc lời
khẳng định về vị trí của Văn Cao “...trong một Văn Cao có q nhiều Văn
Cao: Văn Cao nhạc, Văn Cao họa, Văn Cao Hiệp sĩ, Văn Cao Quốc ca, Văn
Cao rượu đế. Một Văn Cao lặng lẽ như như chén rượu mỗi sớm, lặng lẽ như
những dịng chữ lít nhít như trong sổ tay, lặng lẽ như thơ Văn Cao, thơ là cái
lặng lẽ của con hổ” [38; 255]. Trong một bài viết với nhan đề Về một bản lĩnh
thơ - lời giới thiệu cho Tuyển tập thơ Văn Cao - Nguyễn Thụy Kha cho rằng:
“Thơ Văn Cao còn bỏng cháy khát vọng của một tâm hồn biết yêu ghét rõ
ràng. Không ảo tưởng tuyên truyền cho mọt lí thuyết nhất thời nào, anh ln

hướng tới sự hồn chỉnh tình người ước mong tới một thế giới, ở đấy con
người chỉ còn yêu thương và vui sống. Khát vọng ấy là khát vọng “nước ngọt
của ngàn sơng - bao giờ đổ đầy lịng biển”. Tình yêu ấy bất chấp quyền uy,
thế lực cản trở để vươn tới tính nhân bản của nó. Bao giờ cũng trong sáng, cởi
mở và chân thành. Thái độ của Văn Cao đem đến cho thơ anh những nội dung
và hình thức biểu hiện mới” [7; 7]. Bài viết khá cơng phu và tồn diện, bước
đầu đã gợi mở nhiều vấn đề sâu sắc về thơ Văn Cao. Từ đây, tài năng và nhân
cách của người nghệ sĩ đa tài được người đọc nhận diện một cách đầy đủ hơn
trước. Trên Tạp chí Thời văn đặc tuyển số 13 và 14, số ra tháng 8 năm 1996,
nhân kỉ niệm một năm ngày mất của Văn Cao, với mục đề Văn Cao bất tử, số
báo đã trân trọng cho đăng những tác phẩm tiêu biểu về nhạc và thơ của Văn
Cao cũng như những bài viết, những hồi ức của bạn bè, đồng nghiệp, các nhà
báo về cuộc đời và những cống hiến nghệ thuật của Văn Cao. Các bài viết đã
khẳng định tài năng của Văn Cao trên các phương diện cầm, kì, thi, họa. Ấn
phẩm như một nén tâm nhang kỉ niệm giỗ đầu của người nghệ sĩ tài danh.


4

Từ một bài thơ Cánh cửa của Văn Cao sáng tác 1960, tác giả Hoàng
Long qua bài viết Văn Cao và chân trời thi ca mộng tƣởng (2005) đã rút ra
những đặc điểm mang tính ám gợi mạnh mẽ của thơ Văn Cao là chiều sâu
triết lí và tính siêu thực : “Đọc "Cánh cửa" bao nhiêu lần, vẫn thấy bài thơ rờn
rợn. Bởi người cảm nhận chưa thể quen được với bài thơ. Đây là cảm thức mà
chính Văn Cao đã trải qua, rất thực, thực đến ghê rợn. Một cảm thức rất
Kafka... Bài thơ còn hay ở cách đặt vấn đề rất Văn Cao. Rất triết lý. Không dễ
dàng “thấm” được giọng thơ u ám băng hàn này. Martin Heidegger cho rằng
“thi nhân và triết gia là người canh giữ ngơi nhà của tính thể”. Vậy thi nhân
cần phải nhìn đời và tra vấn theo kiểu triết gia để nảy sinh thi ca tư tưởng”
(dẫn theo [26] ).

Năm 2007, Nhà xuất bản Thanh niên đã ấn hành cuốn Nhạc sĩ Văn Cao
tài năng và nhân cách của tác giả Bích Thuận, nội dung cuốn sách đã theo sát
chuyện bếp núc sáng tạo và cuộc hành trình đến với cách mạng và nghệ thuật
của người con đất cảng. Từ những kỉ niệm buồn vui, những thăng trầm khổ ải
trong đời sống và nghệ thuật, sự tỏa sáng của tài năng và nhân cách của một
người nghệ sĩ lớn được tái hiện thông qua những câu chuyện kể đầy xúc động.
Cuốn sách đã cung cấp những tư liệu quý, có giá trị cho việc nghiên cứu về di
sản nghệ thuật của Văn Cao nói chung, thơ của ơng nói riêng. Trần Hồi Anh
với bài viết Tâm thức “trơi” trong thơ Văn Cao đã đi sâu vào thế giới nghệ
thuật của thơ Văn Cao và phát hiện ra nhiều điều thú vị. Tác giả đã nhìn thấy
ở thơ Văn Cao một dịng chảy đặc biệt “Đó là tư tưởng của một nghệ sỹ ln
phóng chiếu sự sáng tạo của mình trên đôi cánh của chủ nghĩa siêu thực và
hiện thực” [2]. Như vậy, có thể thấy, dù xuất phát điểm và cách tiếp cận có
khác nhau, nhưng gián tiếp hay trực tiếp, khái qt hay phân tích chi tiết, các
cơng trình nghiên cứu về sáng tác nghệ thuật của Văn Cao nói chung, thơ của
ơng nói riêng đã bước đầu định hình được khá rõ nét chân dung người nghệ sỹ


5

đa tài. Trong đó thơ ca là một bộ phận độc đáo góp phần làm nên di sản nghệ
thuật đa dạng của Văn Cao. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có những chun
luận khảo cứu mang tính hệ thống ghi nhận những đóng góp nghệ thuật độc
đáo của thơ Văn Cao. Các bài viết chỉ mới đề cập những vấn đề đại thể hoặc
những biểu hiện mang tính cá biệt riêng lẻ. Do đó việc nghiên cứu về thơ Văn
Cao cần phải được tiếp tục với cấp độ hệ thống và chuyên sâu hơn.
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi tƣ liệu khảo sát
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Những đóng góp nghệ thuật của thơ Văn Cao cho nền thơ Việt Nam
hiện đại.

3.2. Phạm vi tƣ liệu khảo sát
Tư liệu khảo sát chính là các tập thơ đã xuất bản của Văn Cao:
- Văn Cao (1988), Lá, Nxb Tác phẩm mới, Hội Nhà văn Việt Nam.
- Văn Cao (1994), Tuyển tập thơ Văn Cao, Nxb Văn học, Hà Nội.
- Văn Cao (2005), Thơ, Nxb Đồng Nai.
Ngồi ra, để có cơ sở so sánh, chúng tôi cũng khảo sát cả thơ của nhiều
nhà thơ cùng thế hệ với Văn Cao đã có những đóng góp có ý nghĩa cho việc
cách tân nền thơ Việt Nam sau 1945 như Nguyễn Đình Thi, Trần Dần, Lê
Đạt, Hồng Cầm…
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Tìm hiểu sự tham gia tích cực của Văn Cao vào cuộc vận động đổi
mới thi pháp thơ trữ tình Việt Nam sau 1945.
4.2. Phân tích những đóng góp của thơ Văn Cao cho nền thơ Việt Nam
hiện đại trên những suy nghiệm riêng về đời sống và nghệ thuật.
4.3. Làm sáng tỏ tính độc đáo có ý nghĩa đóng góp của hệ thống thi
pháp thơ Văn Cao.


6

5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi vận dụng phối hợp nhiều phương
pháp, chủ yếu là: phương pháp hệ thống - cấu trúc, phương pháp loại hình,
phương pháp so sánh, phương pháp thống kê…
6. Đóng góp của luận văn
Đây là luận văn thạc sĩ đầu tiên tìm hiểu những đóng góp nghệ thuật
độc đáo của thơ Văn Cao cho nền thơ dân tộc, từ đó làm sáng tỏ thêm tầm vóc
của người nghệ sĩ đa tài Văn Cao.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận

văn được triển khai trong ba chương:
Chương 1. Sự tham gia của Văn Cao vào cuộc vận động đổi mới thi
pháp thơ trữ tình Việt Nam sau 1945.
Chương 2. Đóng góp của thơ Văn Cao trên những suy nghiệm về đời
sống và nghệ thuật.
Chương 3. Những nét độc đáo trên phƣơng diện thi pháp của thơ Văn Cao.


7

Chƣơng 1
SỰ THAM GIA CỦA VĂN CAO VÀO CUỘC VẬN ĐỘNG
ĐỔI MỚI THI PHÁP THƠ TRỮ TÌNH VIỆT NAM SAU 1945
1.1. Diện mạo mới về thi pháp của thơ Việt Nam những năm đầu
sau cách mạng
1.1.1. Quan niệm thơ của nhóm Dạ đài và những tun ngơn tƣợng
trƣng chủ nghĩa
Phong trào Thơ mới 1932 - 1945 là bước phát triển mới của thơ Việt
bằng sự xuất hiện cái tôi cá nhân cá thể (individu) thay cho các dạng thái của
cái tôi cá nhân của thơ trung đại. Cơ sở xã hội, cơ sở tư tưởng và cơ sở nghệ
thuật của Thơ mới giai đoạn 1932- 1945 đã gặp nhau và cộng hưởng một cách
nhịp nhàng, hợp quy luật đã làm bùng nổ ngôn từ đủ chứa đựng cảm xúc và
tâm trạng trữ tình điển hình của các thi sĩ tài năng cả phong trào, làm thành
“một thời đại thi ca” lộng lẫy, âm vang và giàu hương sắc. Nó mở ra thời kỳ
hiện đại trong thơ Việt cho đến ngày nay. Thế giới nghệ thuật Thơ mới tích
hợp được những yếu tố cần thiết để đủ thực hiện bước nhảy vọt về chất. Đó là
sự tích hợp, tiếp biến giữa Đông và Tây, giữa những tương hợp bên trong và
bên ngồi, giữa cổ điển và hiện đại, giữa hình thức thơ Việt, thơ Trung Hoa
và thơ Pháp - trên cơ sở văn hoá và bối cảnh lịch sử - thi ca Việt.
Và như một qui luật, khi các khuynh hướng phát triển đến trình độ cao

của nghệ thuật thì sẽ dẫn đến sự hình thành các trào lưu, trường phái mới. Và
đến lượt mình, các trào lưu, trường phái ấy cũng phải thực hiện bước nhảy vọt
mới khi lượng biến thành chất, khi nó đạt đến thành tựu đỉnh cao và khi xuất
hiện đối tượng thẩm mỹ mới. Phong trào Thơ mới 1932 - 1945 là điển hình
cho qui luật này. Sự xuất hiện của các nhóm thơ, trường thơ như Trường thơ
Loạn, Xuân Thu nhã tập... là biểu hiện hiển minh cho sự tìm tịi, đổi mới nghệ


8

thuật của các nhà thơ tiên phong, khát khao thể nghiệm và cách tân thi ca. Ở
đây, xin minh chứng cho nhận định trên bằng việc tìm hiểu quan niệm thơ của
nhóm Dạ đài. (Chúng tơi xem Dạ đài như là hướng tìm tịi nối tiếp cuối cùng
của phong trào Thơ mới vì nó được các thi sĩ của nhóm chấp bút trước 1945
và có một số sáng tác thể nghiệm được in trong thời gian này, dù bản tuyên
ngôn tượng trưng được in năm 1945 - 1946).
Với tinh thần tiên phong và ước vọng cao đẹp về sự đổi mới thi ca Việt,
Dạ đài đã đưa ra những quan niệm thơ mới lạ và giàu ý nghĩa. Nhưng do
nhiều lý do, hoàn cảnh nên lâu nay hiện tượng văn chương này chưa được
nghiên cứu một cách khách quan, khoa học. Nó khơng được xếp vị trí chính
thức trong tiến trình văn học Việt Nam thế kỷ XX. Nghiên cứu Dạ đài, chúng
tơi muốn đặt nó trong dịng chảy liên tục của hành trình thơ Việt thế kỷ XX để
thấy cơng lao và tinh thần duy tân của nhóm Dạ đài mà khởi điểm của nó là
Bản tun ngơn tƣợng trƣng với những quan niệm thơ tân kỳ, độc đáo được
tiếp biến từ lý luận văn học phương Tây, khi phong trào Thơ mới đi hết hành
trình lãng mạn u buồn của nó.
Dạ đài gồm có Đinh Hùng, Trần Dần, Vũ Hoàng Địch, Trần Mai Châu,
Nguyễn Văn Tậu. Dạ đài ra được số 1 (16. 11. 1946). Tất cả đều nhận mình là
thi sĩ theo trường phái tượng trưng, nhưng họ đã có ý thức vượt lên trên quan
niệm sẵn có để làm một cuộc tiếp biến, đưa nhóm mình theo một hướng riêng,

trước nhất, là ở cấp độ lý thuyết. Cịn thực tiễn sáng tạo thì chưa có điều kiện
để thể nghiệm. Vì cả nước, lúc bấy giờ, hướng về nhiệm vụ trọng đại là kháng
chiến, giành độc lập, dân tộc. Một ước nguyện khơng thành. Đó là lý do chính
để Dạ đài khơng đạt được mục tiêu như mơ ước.
Vậy Tuyên ngôn tƣợng trƣng của Dạ đài đặt ra những quan niệm gì với
tinh thần tiên phong? Với ước nguyện cháy bỏng muốn làm đổi thay cả thời
cuộc, trả lại cho thi ca những giá trị đích thực của nó, Dạ đài đã đề ra những


9

quan niệm năng động và tân kỳ, dù thoạt nhìn, chúng có vẻ như xa vời. Họ
muốn thâu tóm tất cả tinh hoa của thi ca nhân loại về một mối, rồi nhào nặn
lại để tạo thành những giá trị mới ưu tú nhất: “Cho nên buổi chúng tôi xuất
hiện, chúng tôi để cho tàn suy nghĩ giấc mơ của những người thuở trước” (Từ
đây, những câu để trong ngoặc kép đều trích từ Tun ngơn tƣợng trƣng của
Dạ đài). Họ bỏ qua lãng mạn vì nó đã chứng tỏ sự cạn kiệt, bất lực của thi
nhân: “Làm sao người ta cứ khóc mãi, than mãi, rung động mãi theo con
đường rung động cũ? Làm sao người ta cứ nhìn mãi vũ trụ ở ba chiều, và thu
hẹp tâm tư ở bảy giây tình cảm! Chúng ta cịn có nghèo nàn thế nữa đâu?”. Và
một ước nguyện thay đổi hình thành: “Chúng tơi có nói cũng chỉ là nói cái
tâm trạng của thời nhân,của những thời nhân đã có ngày cơ độc”. Quan niệm
về thơ của nhóm Dạ đài thấm đẫm tính chất của chủ nghĩa tượng trưng. Họ
muốn dứt bỏ những ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn, vì nó đã đi tận mút
của con đường cùng. Họ khác với tiền nhân: “chúng tơi khơng cịn khóc” vì
người ta đã khóc mãi ái tình, cơng danh và thế sự”, “khơng cịn rung động với
trần tâm”, bởi đó là “con dường tuyệt vọng”. Họ muốn nối lại: - Nghiệp dĩ
của một Baudelaire , - Tâm sự của một Nguyễn Du, - Sự nổi loạn và Ra đi của
môt Rimbaud, - Nỗi cô đơn của những nhà thơ lãng mạn”.
Thực ra, đó là cách nói hình tượng. Cái chủ đích mà Dạ đài hướng đến

là trả thơ ca về với nguồn gốc xa xưa, muốn tái hiện lại những hình tượng cổ
mẫu (mẫu gốc - archétype). Họ chịu ảnh hưởng của K.G. Jung ở thuyết Phân
tâm khi nhà tâm lý học này muốn đi tìm ngọn nguồn cơ chế của sáng tạo ở vô
thức tập thể, ở những mẫu gốc - tức những dấu vết ký ức của quá khứ nhân
loại, những kinh nghiệm, văn hoá truyền thống được lưu lại ở cõi vô thức bên
trong của con người. “Chúng tôi cố vén cao bức màn nhân ảnh, viêt lên: “quỹ
đạo của trăng sao” đường về trên cõi chết. Chúng tôi đã sống, lấn cả sang bờ
bến u huyền, cho nên buổi chúng tơi quay về thế tục, chúng tơi nhìn hoa lá với


10

những cặp mắt mờ hoen. Nhỡn tiền bỗng thấy đổi thay những hình sơng vóc
núi. Chúng tơi lạ: lạ từng đám mây bay, từng bóng người qua lại - Chúng tơi
lạ từ sắc nắng bình minh đến màu chiều vàng vọt. Chúng tôi lạ, lạ tất cả”.
Họ quan niệm thi sĩ phải là người hội đủ các thế giới của thực và mộng,
hồn và xác: “Chúng tôi muốn những cảm giác thâm u mà chúng ta mới chỉ có
những thi sĩ của lòng. Đã đến lúc chúng ta đợi những thi sĩ của linh hồn,
những thi sĩ của cái tâm thầm kín”. Dạ đài “cố đánh thức cái thế giới im lìm
đương nằm ngủ ở trong lịng nhân loại”. Họ thiết tha muốn thực hiện một
cuộc trở về cái nguyên uỷ của cội lòng khi đất trời khai lập: “Người ta đã tìm
mãi Đạo lý ở đường lên: ghìm giữ bản năng kham khổ - Nhục hình. Chúng ta
sẽ tìm Đạo lý ở con đường xuống: thả lỏng thiên năng đam mê và khoái lạc”.
Vậy Dạ đài muốn đưa thơ trở về với cội nguồn của con người, bởi thơ ca
đương thời là quá gò ép. Phải đưa thơ về với “vơ thức tập thể” để làm sống lại
những gì đã mất. Dù vậy, sự ảnh hưởng của K.G. Jung ở Dạ đài là không lớn
lắm. Quan niệm chủ yếu của Dạ đài vẫn là tượng trưng, nhưng có sự tiếp biến
cho phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam. Sự nơng cạn với những “cảm giác đơn
nghèo”, “nỗi lịng nhạt nhẽo”, “cái tôi nông cạn” là sản phẩm cũ xưa của thi
ca lãng mạn đương thời. Dạ đài muốn thi ca phải “trở về cái bản năng mà thế

tình che đậy. Hãy mơ những giấc mơ cầm thú. Hãy gợi lên những cõi sống
âm thầm. Hãy đánh thức hư không, nghĩa là cả tấm lòng xưa man rợ”. Thi ca
trước mắt và tương lai phải giàu sức ẩn chứa, phải huyền diệu. Đằng sau mớ
ngơn từ bình thường đó phải tiềm ẩn, hàm chứa cả mn nghìn thế giới lung
linh khác được gợi lên ở ngơn từ hình tượng: “Thơ cũng phải âm u như cảnh
giới của cái tôi thầm lặng”. Thơ phải cấu tạo bằng tính chất của vơ biên. Sau
cái thế giới hiện trên hàng chữ, phải ẩn náu mn nghìn thế giới, cả thế giới
đương thành và đương huỷ”. Đó chính là một cách phát ngơn từ tun ngơn
của chủ nghĩa tượng trưng, vì chủ nghĩa tượng trưng vốn xem thế giới là


11

“không rõ ràng”. Nghệ sĩ tượng trưng không phải chỉ cảm thấy thế giới bên
ngồi mà cịn nhận biết thế giới bên trong, không chỉ nắm bắt cái huyền diệu
mà cịn phải nghe thấy, cảm thấy cái vơ hình, cái bí ẩn, mơ hồ nằm trong một
màn sương dày đặc để tìm ra mối dây liên hệ giữa thế giới vơ thức và hữu
thức. Nghệ sĩ phải có cái nhìn “thấu thị” xuyên suốt các sự vật để qua đó,
hướng đến chân lý nghệ thuật. Cho nên thi ca phải thâm u và huyền diệu để
làm sáng lên mn nghìn thế giới. Dạ đài khơng tìm cảm hứng nghệ thuật ở
chốn tiên cảnh, bồng lai trên chín tầng mây như các thi sĩ lãng mạn. Với họ,
“thi cảm phải gây trong thực tại”, nhưng cũng phải có khả năng dự báo về cái
sẽ có, phải có: “Một bài thơ phải chứa đựng những cái gì đã có, nhưng phải
mang ở trạng thái tiềm tàng, những cái gì có thể có và cả những cái gì khơng
có nữa”, “phải xáo trộn cả thực hư”, “thấm trộn cùng nhau trong một cuộc
giao hồ bí mật”, “tất cả những phong cảnh trần gian sẽ phải hư lên vì sự
thực” thơng qua hình tượng thơ đa dạng, giàu biến ảo.
Với quan niệm thơ âm u, huyền diệu, giàu ý nghĩa, các nghệ sĩ tượng
trưng của Dạ đài xem thơ là một chỉnh thể thống nhất đặc biệt giữa hình thức
và nội dung. Ở đây, hình thức khơng đơn thuần là hình thức chứa nội dung,

bởi vì thơ là hình tượng - âm nhạc - ý tình. Thơ phải được tự do lựa chọn hình
thức biểu hiện và nội dung được phản ánh. Nếu thơ khơng chịu sự ràng buộc
của ngơn từ thì nội dung cũng khơng chịu sự gị bó của đề tài, chủ đề. Vì “thi
đề của chúng tơi có cả vũ trụ muôn chiều, thi liệu của chúng tôi là tất cả mớ
ngôn từ rộng rãi”. Điều này giúp nhà thơ phát huy khả năng tự do sáng tạo,
miễn sao hình tượng thơ mang lại hiệu cảm thẩm mỹ trong tiếp nhận của
người đọc.
Dạ đài vốn tâm huyết và xuất phát từ thuyết “tương ứng giữa các giác
quan” nên rất đề cao tính nhạc trong thơ nhờ các hình tượng “tạo tác được
những âm thanh huyền diệu nữa”. Âm nhạc của họ cũng được quan niệm rất lạ


12

và có tính phát hiện mới. Nó “khơng phải chỉ kết hợp hoàn toàn bởi những cú
điệu số học, những luật lệ trắc bằng”, “âm nhạc của một bài thơ phần lớn là do
ở sức rung động tâm lý bài thơ ấy”. Và nữa, “nói đến âm nhạc trong thơ là phải
nói đến sức gợi khêu của chữ”. Tất cả đều xuất phát từ hình tượng. Hình tượng
có thể làm nên những điều tuyệt vời nhất, có quyền năng vơ biên. Chủ nghĩa
tượng trưng xem trực giác, âm nhạc, trữ tình là ba yếu tố then chốt, cho nên,
tính nhạc trong thơ phải được coi trọng thường trực. “Hình tượng mang nặng
những tình ý nên âm nhạc gây nên cũng mang đầy âm sắc. Câu thơ đọc xong
sẽ còn đi đi mãi trong từng ngõ vắng linh hồn và sẽ tắt nghỉ ở tận đáy sâu tiềm
thức”. Thi ca phải thơng qua hình tượng, khi ấy thi sĩ tượng trưng sẽ tạo ra sự
hàm súc, giàu ý nghĩa với tính nhạc cao. Đó phải là “thứ ngơn ngữ tân kỳ,
ngơn ngữ của những thế giới yêu ma, của những thế giới thần nhân mà cũng là
của cái thế giới âu sầu đây nữa”. Dạ đài chú ý sử dụng ngôn từ mang tính
tương hợp cao, thể hiện mối quan hệ giữa con người và sự vật, khai thác giấc
mơ vô thức - là sự phiêu lưu của ngôn từ đạt những nhịp thơ siêu tự nhiên,
những im lặng âm vang.

Dạ đài cũng đề xuất quan niệm tiếp nhận thi ca rất trừu tượng. Thơ
khơng được tiếp nhận bằng lý trí mà bằng trực giác, thơng qua hình tượng.
Hình tượng tạo nên âm nhạc, âm nhạc tạo tình ý; lúc đó mới hiểu được thơ.
Dựa trên thuyết “sự tượng ứng giữa các giác quan” của chủ nghĩa tượng
trưng, Dạ đài cho rằng tiếp nhận một bài thơ siêu thực không được dùng một
quan năng tách bạch để cảm thụ, không chỉ là ý tứ hay tình cảm mà phải là sự
tổng hợp tất cả các giác quan. Sự tương hợp giữa các giác quan, sự cộng
hưởng các màu sắc, âm thanh, hương thơm và ý nghĩa giúp con người lĩnh hội
được chiều sâu tư tưởng và giá trị của thi ca.
Một điểm mà Dạ đài gặp quan niệm về thơ của Xuân thu nhã tập và
Trƣờng thơ Loạn ở Quy Nhơn, đó là họ ln để thơ “đi giữa bến bờ U Huyền


13

và Hiện Thực, chúng tơi sẽ nói thay cho tiếng nói những lồi ma. Chúng tơi sẽ
khóc lên cho những nỗi ốn hờn chưa giải. Chúng tơi sẽ bắt hiện lên những
đường lối U Minh. Chúng tôi sẽ kể lại những cuộc viễn du trong những thế
giới âm thầm sự vật”. Họ đón nhận và hiện hữu trong thơ “tất cả những thế
giới quay cuồng, chúng tôi sẽ bắt một vầng trăng phải lặn, một ánh sao phải
mờ đi... và một bài thơ phải vô cùng linh động”.
Với xuất phát điểm đó, Dạ đài đã khái quát quan niệm, mục tiêu của
tuyên ngôn tượng trưng như là những cuộc phiêu du vào thế giới với hành
trình xáo trộn miên viễn: “Hãy đưa chúng ta đi. Đưa chúng ta ngược về dĩ
vãng, qua bờ tương lai, đưa chúng ta đi cho hết cõi dương trần, đi cho hết
những trời xa đất lạ. Để chúng ta sống muôn ngàn cõi sống. Để chúng ta có
hàng triệu năm già và vơ vàn ký ức: Ký ức của những dân tộc đã tàn vong, ký
ức của những cõi đời xa thẳm, ký ức của những thế kỷ đã lùi xa. Để cho muôn
ngàn ký ức chất chồng lên ký ức chúng ta, cái ký ức bi thương, cái ký ức đơn
nghèo đã lượm thâu bằng những giác quan trần tục”.

Sự tiếp xúc văn hoá Đông - Tây đã tạo ra “một thời đại trong thi ca”
lộng lẫy, âm vang. Những nhà Thơ mới tài năng 1932-1945 đã làm một cuộc
hội ngộ ngoạn mục để tích hợp thành những thế giới nghệ thuật thơ lung linh,
huyền diệu. Thơ mới, sau đó, đã nhanh chóng đi qua sự ảnh hưởng của chủ
nghĩa lãng mạn để tìm đến, tiếp nhận ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng,
siêu thực của Phương Tây. Nếu giai đoạn đầu của Thơ mới, ta bắt gặp những
hồn thơ rộng mở, những vần thơ dễ hiểu thì càng về giai đoạn cuối, tính trong
sáng của Thơ mới càng nhạt dần, nhường chỗ cho tính tượng trưng, hàm súc,
bí ẩn xuất hiện. Chủ nghĩa lãng mạn giờ đây khơng cịn đủ sức làm thoả mãn
các nhà thơ có tinh thần đổi mới. Họ găp chủ nghĩa tượng trưng và hình thành
một tư duy thơ theo lối khác. Không chỉ thiên về cảm xúc nội tại, ước vọng
tìm cái đẹp trong hình tượng, chủ nghĩa tượng trưng còn đưa ra lý thuyết về


14

sự tương ứng của các giác quan, sự cộng hưởng giữa hương thơm, màu sắc và
âm thanh. Khi Thơ mới ở vào buổi hồng hơn của nó, Dạ đài đã thực sự tìm
thấy chỗ dựa thi ca ở chủ nghĩa tượng trưng để làm cuộc hành trình cuối cùng
trong kiếm tìm nghệ thuật của phong trào Thơ mới. Dạ đài muốn thơ mang
trong mình những giá trị lớn lao, nhưng lại hàm súc và ảo ẩn. Đó chính là sự
tượng trưng. Họ khát khao đi tìm cái đẹp, nhưng lại ngụp lặn trong thế giới vơ
cùng và chìm sâu vào cõi hư vơ, huyền bí. Đến đây, cần phải xem xét một
quan niệm mới nữa của Dạ đài. Đó là quan niệm: thơ khơng cần lý luận. Phải
tìm cảm giác trước khi tìm nghĩa: “Thơ khơng cịn lý luận, và cũng khơng cịn
phải tự dinh dưỡng bằng những thi đề rõ rệt”. Họ đề cao im lặng. Vì trong
những phút giây im lặng, có tất cả. Dạ đài khơng cần thi đề vì với họ, thi đề là
tất cả “một vũ trụ muôn chiều, và thi liệu của chúng tôi, là tất cả mớ ngôn từ
rộng rãi”. “Chúng ta muốn xâu vào ngoại vật, nội tâm và muốn đi xa thiên
đường, địa ngục”, khi đó, thơ có sức “khêu gợi vơ cùng”. Họ cho rằng thơ

khơng nói thẳng, gọi tên đối tượng. Họ chỉ dẫn ra những cái biểu đạt tượng
trưng, còn ý nghĩa cái biểu đạt - giá trị của sự biểu trưng, họ giành cho độc
giả - thi nhân - những người bằng kinh nghiệm sống, vốn ký ức, tâm hồn nhạy
cảm, tư duy năng động sẽ khám phá ra. Dạ đài muốn thơ phải “thâm u như
cảnh giới của cái tôi thầm lặng. Thơ phải cấu tạo bằng tinh chất vô biên sau
cái thế giới hiện lên trên hàng chữ, phải ẩn náu mn nghìn thế giới đương
thành và đương huỷ”. Cái nghệ sĩ tượng trưng Dạ đài đã hiện thực hố quan
điểm đó vào thơ của mình. Trong thơ của họ, ít nhất có một hình ảnh tượng
trưng, có khi có cả siêu thực. Dạ đài ảnh hưởng nặng thơ tượng trưng Phương
Tây. Họ ảnh hưởng sâu sắc quan niệm của Mallarmé: “Khơng nắm bắt và
trình bày ra hết, mà chỉ gợi bằng những, hình ảnh có tính chất ám thị... Gọi
tên đối tượng có nghĩa là phá huỷ ba phần tư sự hưởng thụ bài thơ... Khêu gợi
đó là ước mơ và mục đích”.


15

Dù vậy, Dạ đài không phải thuần tuý tượng trưng mà còn chịu ảnh
hưởng của chủ nghĩa siêu thực và một ít phân tâm học của K.G. Jung. Dạ đài
đề cao trực giác, vô thức và tiềm thức của con người trong sáng tạo cũng như
trong cảm thụ thi ca. Dạ đài đề cao cảm nhận thơ bằng trực giác “cảm thấu
những bài thơ siêu thực khơng dùng tình cảm... hãy đem tất cả linh hồn, mở
tất cả các ngách của tâm tư mà lý hội - trận gió se lên tức khắc và ngạc
nhiên”. Chủ nghĩa siêu thực vốn cũng xuất phát từ ảnh hưởng Phân tâm học
của Freud và chủ nghĩa trực giác phi lý tính của Bergson nên nó “hướng về
thế giới vơ thức của con người mà họ cho là lĩnh vực vô tận đối với sự khám
phá và sáng tạo nghệ thuật của con người. Họ vứt bỏ những phân tích logic,
đập tan gơng cùm của lý trí, chỉ tin cậy ở trực giác, giấc mơ, ảo giác ở những
linh cảm bản năng và tiên tri” [20; 90]. Từ đây, ta thấy giữa chủ nghĩa tượng
trưng và chủ nghĩa siêu thực có điểm gặp gỡ, đó là khi cả hai cùng phủ nhận

lý tính và đề cao cảm tính trong tư duy nghệ thuật. Dạ đài không chỉ chịu ảnh
hưởng của chủ nghĩa siêu thực trong quan niệm và trong sáng tác. Tính chất
siêu thực ln đi kèm với tượng trưng, chúng hồ quyện vào nhau, làm cho
thơ của Dạ đài càng huyền bí, siêu thốt, khó giải mã ngay tức thì. Đó là sự
tiếp biến lý luận và thơ ca phương Tây một cách chủ động, sáng tạo. Từ
những thực tế trên, đã tạo ra cái tơi trữ tình dị biệt với hệ thống ngơn từ, thể
loại, hình ảnh thơ vơ cùng mới lạ mà tun ngơn tượng trưng của nhóm Dạ
đài đã đề xuất.
Là nhóm thơ tiên phong và tâm huyết trong đổi mới, làm sống lại cả
“một thời đại trong thi ca”, các thi sĩ Dạ đài đã dâng hiến cho đời những quan
niệm thi ca rất mới lạ, cao siêu, có nhiều ý nghĩa tích cực. Họ ước mơ thơ ca
Việt đạt đến trình độ, giá trị vĩnh hằng, dù trong tun ngơn khơng tránh khỏi
có nhiều yếu tố siêu hình và duy tâm. Đó là tâm nguyện đáng trân trọng.
Nhưng từ lý thuyết đến thực tiễn sáng tạo bao giờ cũng có một khoảng cách


16

giới hạn và cảnh báo cho sự bất cập trong sáng tạo. Hơn nữa, thời gian này,
thi sĩ Dạ đài chưa có điều kiện để thể nghiệm thì cách mạng tháng Tám diễn
ra và sau đó tồn dân tộc phải kháng chiến, kiến quốc. Họ khơng có “thiên
thời” hậu thuẫn để sáng tạo. Lúc này, Thơ mới hạ cánh và kết thúc sứ mệnh
thi ca của mình. Cho nên dù quan niệm có đúng thì cũng khơng phải ngày một
ngày hai mà biến khát vọng thành hiện thực. Nó chỉ dừng lại ở lý thuyết, cịn
sáng tác thì chỉ là khúc dạo đầu, không đủ sức tạo ra cái vệt sáng chói lồ như
Trƣờng thơ Loạn. Dù vậy, những quan niệm về thơ của Dạ đài vẫn chứng tỏ
tính tiên tiến và đổi mới của nó trong hành trình nghệ thuật của dân tộc.
Mặc dù mới dừng lại ở phương diện lí thuyết, chưa có điều kiện để thể
nghiệm nhiều nhưng Dạ đài đã tạo được một dấu ấn đáng kể trong lịch sử thi
ca dân tộc thế kỉ XX, nó tiên phong và cổ súy cho tư tưởng cách tân thơ Việt

Nam giai đoạn hậu kì Thơ mới.
1.1.2. Thơ khơng vần của Nguyễn Đình Thi
“Một thời đại mới của nghệ thuật thường bao giờ cũng tạo ra một hình
thức mới. Thơ của một thời mới trong những bước đầu ít khi chịu những hình
thức đều đặn, cố định. Nó chạy tung về những chân trời mở rộng để tìm kiếm,
thử sức mới của nó” [40]. Những dịng trên được trích trong bài Mấy ý nghĩ về
thơ – tiểu luận thể hiện quan niệm của Nguyễn Đình Thi về thơ ca đồng thời nói
lên khát vọng cách tân mãnh liệt của ơng nhằm tìm một lối đi mới cho thơ Việt
Nam. Khát vọng cách tân ấy gặp gỡ tài năng và tâm hồn Nguyển Đình Thi đã
thăng hoa thành một hiện tượng thơ độc đáo: thơ tự do không vần…
Khái niệm thơ tự do không vần xuất hiện rất sớm và ngay từ đầu thế kỉ
XX, nó đã phát triển mạnh mẽ và chiếm lĩnh thi đàn phương Tây. Ở Việt Nam
ta, vần gắn chặt với thơ như hình với bóng. Bởi lẽ nguồn sữa ni dưỡng thơ
là ca dao, mà ca dao thì khơng thể thiếu vần bởi đặc trưng dễ nhớ, dễ thuộc và


17

dễ ngâm. Tiếp nhận thơ Đường luật Trung Hoa, vần lại là một yếu tố được
quy định chặt chẽ. Phong trào thơ mới dù làm nên “một cuộc cách mạng
trong thi ca” nhưng vẫn chưa một lần từ bỏ vần. Mãi đến khi Cách Mạng
Tháng Tám chấm dứt phong trào Thơ mới, tạo điều kiện cho một cuộc cách
tân thơ ca thì kiểu thơ khơng vần mới dần định hình và đạt được những thành
tựu bước đầu với các bài: Nhớ máu, Tình sơng núi của Trần Mai Ninh; Đèo
Cả của Hữu Loan; Ngoại ô mùa đông năm 46 của Văn Cao… Tuy nhiên,
người có đóng góp xuất sắc nhất trong nỗ lực tìm một tiếng nói mới cho thơ là
Nguyễn Đình Thi với những bài thơ như Đƣờng núi, Khơng nói, Sáng mát
trong nhƣ sáng năm xƣa… Trong vườn thơ những năm đầu kháng chiến
chống Pháp, thơ Nguyễn Đình Thi tựa một lồi hoa lạ, có vẻ hoang dã nhưng
thoang thoảng hương thơm làm say đắm lòng người. Cũng vì lạ mà thơ

Nguyễn Đình Thi đương thời khơng được chấp nhận. Trong hội nghị tranh
luận về văn nghệ năm 1949, thơ ông bị phê phán gay gắt “như một bài học
phản diện cho thơ kháng chiến” . Cách nhìn nhận này làm cho thơ khơng vần
của Nguyễn Đình Thi khơng có điều kiện tiếp tục phát triển. Song những giá
trị của nó (cả về nội dung lẫn hình thức nghệ thuật) là không thể phủ nhận. Ở
đây xin đề cập đến một số vấn đề về thơ không vần của Nguyễn Đình Thi với
mong muốn có một cái nhìn bao quát về một hiện tượng văn học độc đáo
trong văn học Việt Nam hiện đại.
Trong tiểu luận Mấy ý nghĩ về thơ, Nguyễn Đình Thi cho rằng “Cái kì
diệu của tiếng nói trong thơ, có lẽ chăng ta tìm nó trong nhịp điệu, trong nhạc
của thơ. Nhịp điệu của thơ không những là nhịp điệu bằng bằng, trắc trắc, lên
bổng xuống trầm như tiếng đàn êm tai…. Nhạc của thơ khơng giới hạn ở thứ
nhạc ngồi tai ấy. Thơ có một thứ nhạc nữa, một thứ nhịp điệu bên trong, một
thứ nhịp điệu của hình ảnh, tình ý, nói chung là của tâm hồn” [40]. Theo đó


18

có thể thấy Nguyễn Đình Thi rất coi trọng nhịp điệu trong thơ. Cũng dễ hiểu,
“Nhịp điệu xưa nay vẫn là xương sống của thơ” [41]. Nhưng nếu như những
nhà thơ khác quan niệm nhịp điệu, tính nhạc trong thơ gắn liền với vần thơ
“Thơ phải có vần, khơng có vần không thành thơ” ( Ý của Ngô tất Tố phát
biểu trong hội nghị tranh luân về văn nghệ năm 1949). thì Nguyễn Đình Thi
lại khơng chú trọng vần. Ơng nỗ lực giải phóng thơ khỏi khn vần, khỏi cái
nhịp điệu đều đều thường thấy để đi tìm nhịp điệu bên trong, nhịp điệu của
tâm hồn. Thơ là tiếng lòng của nhà thơ trước hiện thực, “Nó tóe lên ở nơi giao
nhau giữa tâm hồn và ngoại vật” [40]. Có lúc nó êm ả như tiếng đàn rơi trên
tay người thiếu nữ, có lúc nó khúc khuỷu như con đường núi nhỏ hẹp đầy đất
đá, có lúc nó dữ dội như dòng thác gào rú giữa rừng đại ngàn. Thơ có mn
hình vạn trạng, nhịp thơ nhiều tầng nhiều bậc nên khơng thể giới hạn nó trong

vần điệu. Nhịp thơ ấy chỉ có thể là nhịp của tâm hồn. Tức là tâm hồn rung
động như thế nào thì nhịp thơ sẽ hiện lên như thế ấy. Thấy được điều này nên
thơ Nguyễn Đình Thi dù khơng có vần, yếu tố âm nhạc vẫn tràn trề :
- Sáng mát trong nhƣ sáng năm xƣa
Gió thổi mùa thu hƣơng cốm mới
Cỏ mịn thơm mãi dấu chân em
- Nắng soi ngõ vắng
Thềm cũ lối ra đi
Lá rụng đầy
(Sáng mát trong như sáng năm xưa)
Thơ khơng vần là địa hạt mà ở đó ngịi bút Nguyễn Đình Thi phóng
túng và tự do nhất. Nó tựa một bản đàn nhiều cung bậc, lúc suy tư hoài niệm,
lúc uất nghẹn căm hờn:


19

Ngồi phố ầm ầm lũ cƣớp
Bắt
Khám
Chăng dây
Miệng súng đen sì tua tủa
(Đêm sao)
lúc phơi phới tự hào:
Ngàn sao phơi phới đang bay
Lịng ta ngợp ánh vàng
Mắt khơng thấy nữa
(Đêm mít tinh)
Như trên đã nói, Nguyễn Đình Thi ít chú trọng vần trong thơ nên thơ
ơng khơng có cái mỹ lệ thường thấy trong sách vở mà hồn nhiên như những

câu nói thường ngày, “Nó ứ đầy chất sống, nó là sự sống, là cuộc đời… không
cần đến vần điệu, đến sự đều đặn, cân đối” [41]. Nguyễn Đình Thi khơng sử
dụng những lời lẽ cao siêu, trau chuốt mà sử dụng những từ ngữ thuần Việt,
mộc mạc, tự nhiên. Thậm chí sử dụng nhiều những thán từ, những lời gọi, lời
hỏi có tính chất khẩu ngữ:
Ơi em!
Chúng ta nhƣ hai ngôi sao
Hai đầu chân trời lấp lánh
(Bài thơ viết cạnh đồn Tây)
Nào đồng chí – bắt tay
Em
Bóng nhỏ


20

Đƣờng lầy
(Khơng nói)
Tuy nhiên, đưa thơ về ngơn ngữ đời sống khơng có nghĩa là dung tục
hóa thơ, dùng những lời nói thường ngày một cách tùy tiện mà nhà thơ đã có
một sự lựa chọn nghiêm túc để ngơn ngữ thơ tuy đơn sơ, mộc mạc mà có khả
năng thấm sâu vào hồn người. Thơ Nguyễn Đình Thi có những câu rất đỗi
giản dị nhưng tạo được một ấn tượng khơng thể nào phai được:
Tháp rùa lim dim nhìn nắng
(Sáng mát trong như sáng năm xưa)
Em em nhìn đi đâu
Em sao em khơng nói
(Khơng nói)
Khi sáng tác thơ, Nguyễn Đình Thi quan tâm nhiều đến hình ảnh. Ơng
quan niệm người làm thơ phải để cho hình ảnh tự nói lên tình ý bởi lẽ “chỉ có

hình ảnh mới có khả năng đập mạnh vào cả đầu óc lẫn trái tim người đọc” [41].
Trong thơ ơng, đó là những hình ảnh toát lên từ đời thực: gần gũi, hồn nhiên mà
độc đáo, mới lạ; khỏe khoắn, gân guốc mà nên thơ. Đó là những lề đƣờng mịn
cũ, những mái nhà rơm, là ánh mắt nhìn của em bé gái, là dịng sơng Lơ đang
cuộn,… Khơng có vẻ ước lệ, khơng có vẻ sách vở, hình ảnh trong thơ Nguyễn
Đình Thi là “hình ảnh cịn tươi ngun, đột ngột, lạ lùng” [40], là hình ảnh xuất
hiện khi tâm hồn nhà thơ chạm vào cuộc sống thường ngày.


21

Nhưng cần thấy rằng những hình ảnh đời thường mà nhà thơ phát hiện
trong cuộc sống ấy chỉ mới là nguyên liệu. Nguyên liệu muốn thành thơ phải
có sự xúc động của hồn thơ, tức là phải tạo được một sự rung động dữ dội
trong tim nhà thơ. Cho nên hình ảnh đời thường đi vào thơ Nguyễn Đình Thi
trở thành hình ảnh cảm xúc, tức là “Hình ảnh thực được nảy lên trong tâm hồn
nhà thơ”. Cũng là những lề đường mịn cũ nhưng khơng phải là cái vơ tri mà
ngập tràn trong nỗi nhớ:
Những lề đƣờng mòn cũ
Quặn nhớ chân ngƣời
(Đêm mít tinh)
Cũng là bến Phan Lương nhưng không vô cảm mà như một sinh thể :
Bến Phan lƣơng nép bên rừng im lặng
Ngang đồi một tia vàng bay vút
(Đêm mít tinh)
Đã hơn 60 năm trơi qua kể từ Hội nghị tranh luận văn nghệ ở Việt Bắc
năm 1949, thơ khơng vần của Nguyễn Đình Thi bây giờ đã được nhìn nhận
lại. Những đóng góp của nó cho nền thơ Việt Nam hiện đại đã được khẳng
định và đề cao. Thực tế sáng tác những năm gần đây của các nhà thơ trẻ đã
chứng minh những nỗ lực cách tân thơ của Nguyễn Đình Thi những năm đầu

kháng chiến chống Pháp là đúng đắn. Tiếc rằng kiểu thơ khơng vần do
Nguyễn Đình Thi khởi xướng thời ấy khơng được thăng hoa đến đỉnh cao của
nó. Nhưng những giá trị mà nó để lại (cả về nội dung lẫn hình thức nghệ
thuật) là rất đáng q. Nó góp một tiếng nói mới lạ cho thơ kháng chiến. Nó
ảnh hưởng sâu sắc đến những nhà thơ sau này. Và đặc biệt nó khẳng định vị


22

trí Nguyễn Đình Thi trên thi đàn Việt Nam hiện đại như một nghệ sĩ tài hoa
và tài năng.
1.2. Sự nhập cuộc của Văn Cao vào những vận động đổi mới thơ
Từ những bài thơ đầu tiên viết năm 1939 đến bài thơ cuối cùng Tôi
ở viết tháng 8/1994, Văn Cao có di sản khoảng chừng 60 bài, nhưng vẫn hiển
lộ đầy đủ một chân dung nhà thơ khắc khoải với khát vọng lớn lao "tới bao
giờ tôi gặp được biển?". Trong sự mến mộ của công chúng phổ thông, chân
dung nhạc sĩ Văn Cao ln khỏa lấp, che bóng chân dung nhà thơ Văn Cao,
bởi lẽ cảm giác xao xuyến thường lấn lướt nhận thức sâu xa. Tuy nhiên những
vần thơ đầy khắc khoải của Văn Cao dần dần được bạn đọc biết đến, nó góp
phần khẳn định thêm chân dung người nghệ sĩ đa tài.
1.2.1 Những sáng tác thơ trƣớc cách mạng của Văn Cao
Ngay từ thời mười tám đôi mươi, nhạc sĩ Văn Cao đã phải dùng thơ để
nói những điều về cuộc sống mà âm nhạc của ông không thể hiện hết được.
Những năm ông viết các ca khúc lừng danh như Thiên thai, Suối mơ thì ơng
đã làm thơ: Li khách (1939), Linh Cầm Tiến (1939), Ai về Kinh Bắc (1941),
Đêm ngàn; Đêm mƣa (1941), Chiếc xe xác qua phƣờng Dạ Lạc (1945)...
Những đứa con đầu lòng trên địa hạt thơ ca của Văn Cao báo hiệu một giọng
thơ lạ, không bị ám ảnh và chi phối bởi các trào lưu thơ ca thời bấy giờ.
Những câu thơ mang dấu ấn sáng tạo riêng của Văn Cao như: Mƣa trong
trăng tiếng nhỏ đều/ Bến mờ mịt mấy mái lều bơ vơ (bài Ðêm mƣa, 1941) đã

bước đầu gây được thiện cảm của người đọc. Dù ở lĩnh vực nghệ thuật nào
Văn Cao cũng chọn cho mình một nẻo đi riêng, từ những bài thơ đầu tay viết
vào thời kì trước cách mạng tháng Tám năm 1945, khi phong trào Thơ mới
trỗi lên giai đoạn cuối, ngơn ngữ thơ ơng đã có sự khác biệt với Thơ mới. Rõ


23

nhất là thơ lục bát: Sông chầm chậm chảy trong mƣa/ Nghe chừng cô gái đã
thƣa nhát chèo. Nhịp thơ trong câu tám chữ Bến mờ mịt - mấy mái lều - bơ vơ
và từ nhát chèo chính là nhịp điệu và ngôn từ riêng Văn Cao.
Chiếc xe xác đi qua phƣờng Dạ Lạc viết vào mùa xuân 1945, thực sự là
mùa chết chóc của cả dân tộc. Ngã Tư Sở, xóm ăn chơi, lại là điểm gặp của
"bốn ngả âm u". Mưa phùn thơ mộng của xuân Hà Nội trở thành Tàn xn
nhễ nhại mƣa cơ tịch.
Có những câu thơ điểm theo nhịp phách của ca nhi, nhưng lại vẳng lên
âm thanh của chết chóc: …Khúc thanh xuân hờ ơi phấn nữ/ Thanh xuân hờ
thanh xuân. Hăm hai tuổi, giữa độ tuổi xuân, vậy mà bóng dáng Văn Cao điệp
lại hình ảnh ơng già Đỗ Phủ: Nhà ta th mái gục tự mùa thu/ Gác cô độc
hƣớng về phƣờng Dạ Lạc/Đêm đêm đẫy dầi canh tan tác/ Bốn vực nhạc động
vẫy ngƣời/ Dẫu đèn treo ánh đỏ quạnh máu ngƣời/ Ta về gác chiếu chăn gào
tự tử… Văn Cao đã từng đêm nhìn qua khn gác nhỏ, xóm Dạ Lạc mờ đục
dưới ánh sáng bạc phếch của điện đường.Trong cái phờ phạc của mùa đông
Hà Nội, những con quạ đen thui chập chờn lượn vòng, đe dọa. Đêm đêm tiếng
bánh xe lăn lọc cọc đi xi về cửa Ơ. Ngọn đèn dầu đỏ loét lắc lư bên hông xe
soi thấp thoáng những những cẳng chân, cẳng tay đen đúa thị ra dưới manh
chiếu nát. Tiếng vó ngựa gieo rời rạc trong mưa phùn gió buốt, chen lẫn vào
tiếng nói cười đàn ca rộn rã hắt ra từ hai lề con phố. Những hình ảnh ấy đã ám
ảnh tâm trí Văn Cao:
... Ngã tƣ nghiêng nghiêng xe xác

Đi vào ngõ khói Cơng n
Thấy bâng khng lối cỏ hƣ huyền
Hƣơng nha phiến chập chờn mộng ảo


24

Bánh nghiến nhựa đƣờng xe xào xạo
Ai vạc xƣơng đổ sọ xuống lòng xe
Chiếc quỷ xa qua bốn ngả ê chề
Chở vạn kiếp đi hoang ra khỏi vực.
Đó là một bức tranh về thảm trạng xã hội những đêm trước cách mạng
đã được tiếng lòng của người nghệ sĩ chân chính ghi lại bằng những thi ảnh
độc đáo.
Những bài thơ Của Văn Cao trước cách mạng mặc dù chưa được chú ý
nhiều nhưng giọng thơ của ông đã kịp lưu lại trong tâm trí của bạn đọc hồi đó.
Đặc biệt là cách gieo vần và xử lí thanh điệu đã tạo dấu ấn riêng để khơng
chìm lẫn vào Thơ mới. Bài thơ Một đêm đàn lạnh trên sơng Huế có một cách
gieo vần tạo thanh âm, nghe như âm điệu của tiếng ghi ta đang khẽ khàng
từng giọt bật bưng, nhất là hai khổ thơ đầu. Một cách sử dụng thanh điệu tài
tình nhờ hiệu ứng của các từ láy nẩy nẩy, nhịp nhịp, ngòn ngọt, tƣơng tƣ,
nhẹ nhẹ, điệp cú ở khổ hai và kết thúc các chữ cuối của khổ thơ bằng thanh
bằng:
Nẩy nẩy tơ đồng nhịp đơi
Lịng nâng ngịn ngọt lại đầu mơi
Này em hát khúc tƣơng tƣ nhé
Ngâm khẽ em ơi nhẹ nhẹ lời
Sao đàn u hồi gì mùa thu?
Sao đàn u hồi gì mùa thu?
Tri âm nghe nhƣ dây đồng vọng

Lạc lõng đêm vàng khi nhạc ru.


×