Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

VẤN ĐỀ TIẾP NHẬN CÁC YẾU TỐ NGHỆ THUẬT CỦA THƠ TƯỢNG TRƯNG PHƯƠNG TÂY TRONG THƠ MỚI VIỆT NAM 1932 – 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.18 KB, 8 trang )

VẤN ĐỀ TIẾP NHẬN CÁC YẾU TỐ NGHỆ THUẬT CỦA THƠ
TƯỢNG TRƯNG PHƯƠNG TÂY TRONG THƠ MỚI VIỆT NAM
1932 – 1945
NGUYỄN HỮU HIẾU (*)
Trong giao lưu với văn học nước ngoài, Thơ Mới Việt Nam chịu ảnh
hưởng của thơ ca phương Tây, trong đó có thơ tượng trưng là một thực tế
không phủ nhận. Các tác giả thơ tượng trưng như Baudelaire, Arthur
Rimbaud, Paul Verlaine…, thậm chí cả nhà thơ lãng mạn và tượng trưng Mỹ
Edgar Allan Poe đã để lại dấu ấn âm nhạc khác nhau trong sáng tác của một
bộ phận của các nhà thơ mới. Trong “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh,
Hoài Chân đã khẳng định: “Các nhà thơ mới không nhiều thì ít, ở mức độ
đậm nhạt khác nhau, đều bị ám ảnh bởi Baudelaire, người đã khơi nguồn thơ
ấy”. Ở chuyên luận “Thơ Mới”, Giáo sư Phan Cự Đệ viết: “Từ năm 1936 trở
về sau, trường phái thơ tượng trưng được người ta chú ý hơn cả”. Trong lời
tựa tập thơ “Những bông hoa Ác”, Giáo sư Đỗ Đức Hiểu đã phân biệt hai
“làn sóng” thơ, trong đó làn sóng thứ nhất chịu ảnh hưởng nhiều ở thơ lãng
mạn, còn làn sóng thứ hai với các nhà thơ Xuân Diệu, Hàn Mạc Tử, Bích
Khê, Chế Lan Viên, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng… chịu ảnh hưởng của
thơ tượng trưng. Bản thân Xuân Diệu, một trong những trụ cột của thi đàn
Việt Nam cũng đã thừa nhận một cách không dấu giếm: “Với Baudelaire, tôi
đi toàn vẹn vào tính chất hiện đại của thơ”.1
Thẩm mỹ phương Đông và thẩm mỹ phương Tây có một sự khác biệt
lớn. Về lịch sử phát triển, giữa thơ Việt Nam và thơ phương Tây lại tồn tại
một khoảng cách thẩm mỹ khá xa, vậy điều gì đã khiến cho thơ mới Việt
Nam tiếp cận dễ dàng và rất tự nhiên những yếu tố nghệ thuật của thơ tượng
trưng (đặc biệt thơ Pháp) để tạo thành một khuynh hướng thơ có màu sắc
tượng trưng rất rõ rệt, góp phần làm đa dạng phong cách nghệ thuật của
phong trào Thơ Mới ? Bài viết này dẫn ra một số lý do trực tiếp và sâu xa để
cắt nghĩa sự đồng cảm và tiếp thu một cách tự nhiên ảnh hưởng của thơ
tượng trưng trong thơ của một bộ phận các nhà thơ mớI Việt Nam.
1. Đầu thế kỷ XX, nhu cầu đổi mới văn học được đặt ra một cách cấp


bách. Do những ngẫu nhiên lịch sử, Việt Nam nằm trong vòng đô hộ của đế
quốc tư bản phương Tây, sự giao lưu văn hoá, văn học được mở rộng, sự tự
ý thức của mỗi nền văn học không cho phép giữ mãi tính chất vùng của khu
vực văn hoá Nho giáo và văn tự tượng hình được mà phải nhanh chóng hoà
vào dòng chung của văn học thế giới. Nhu cầu đổi mới ấy khi xuất hiện lại
gặp được sự chín muồi về những điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội… nên
nhanh chóng được hiện thực hoá.
Đầu thế kỷ XX kinh tế đô thị đã phát triển mạnh, tầng lớp thị dân hình
thành và ngày càng đông đảo đi liền với những thị hiếu và nhu cầu mới, chữ
quốc ngữ đã thuần thục, lớp trí thức Tây học ngày càng nhiều… Những điều
kiện ấy giúp con người Việt Nam khi đứng trước “đối chứng” là văn học
phương Tây càng nhận ra một cách rõ hơn sự trì trệ, xơ cứng của nền nếp
thơ cũ đã tồn tại qua bao thế kỷ, càng thấy rõ hơn cần phải có cái gì đó mới
để tăng thêm sinh khí cho thi đàn. Với những điều kiện hết sức khách quan
ấy, thơ Việt Nam gặp gỡ thơ Pháp trở thành vấn đề tất yếu và nguồn thơ
tượng trưng vào Việt Nam cũng nằm chung trong quá trình du nhập các yếu
tố ngoại lai. Có thể xem đây là nhân tố nội tại, hàng đầu của sự tiếp xúc giữa
thơ mới Việt Nam và thơ tượng trưng Pháp. Cũng từ nhu cầu nội tại đó ta
hiểu được vì sao thơ tượng trưng mặc dù là một thi phái thơ hiện đại chủ
nghĩa ra đời sau lại có thể được các nhà thơ Việt Nam tiếp nhận gần như
đồng thời với thơ lãng mạn. Vấn đề ở đây là: nhu cầu hiện đại hoá đặt ra và
các nhà thơ Việt Nam có thể tiếp thu bất kỳ nguồn thơ nào, miễn sao đối
tượng tiếp nhận là mới mẻ và thoả mãn được yêu cầu đổi mới nền thơ dân
tộc. Không phải ngẫu nhiên mà trong thơ mới trước 1945 có hiện tượng
cộng sinh nhiều hình thức khác nhau, có lãng mạn, có tả chân, có tượng
trưng và có cả màu sắc siêu thực trong một số trường hợp ở giai đoạn cuối,
như vậy, sự gặp gỡ giữa thơ Việt Nam và thơ Pháp trở thành vừa như một tất
yếu vừa như một sự lựa chọn tích cực để góp phần nhanh chóng đưa thơ
Việt Nam đi vào quỹ đạo của thơ hiện đại.
2. Sự tương đồng trong ý thức về thân phận giữa các nhà thơ mới Việt

Nam và các nhà thơ tượng trưng trung Phương Tây. Trong Phong trào thơ
mới, Giáo sư Phan Cự Đệ viết: “Nhìn chung từ 1936 trở về sau, trường phái
tượng trưng được người ta chú ý hơn cả. Tại sao đây? … Cái chính vẫn là sự
gặp nhau của những tâm hồn trí thức bất mãn với xã hội, đau buồn, chán
nản, u uất khi phong trào cách mạng của quần chúng bị thất bại hoặc bì đàn
áp dữ dội…”.2
Văn học các nước phương Tây, trong nội dung của nó, ý thức về cá
nhân và thân phận con người xuất hiện sớm. Đó chính là cơ sở ý thức tư
tưởng quan trọng làm xuất hiện những phong trào, những khuynh hướng
nghệ thuật chuyên chú vào những khám phá bản chất đích thực của con
người, vị trí của con người trong trời đất với tất cả những khả năng, những
khát vọng và cả những đổ vỡ đau đớn của họ. Ở phương Đông, với những
khuôn khổ đạo lý chặt chẽ, con ngườI cá nhân dường như rất ít có điều kiện
thể hiện, nếu có thì nhìn chung vẫn là yếu ớt. Đầu thế kỷ XX, vớI những
điều kiện mới (kinh tế hàng hoá, nếp sống đô thị, sự rạn nứt những nguyên
lý đạo đức cổ truyền…), ý thức cá nhân có điều kiện xuất hiện và khẳng
định. Nó giúp các nghệ sỹ, những người nhạy cảm, ý thức được rõ hơn tính
chất thù địch của hoàn cảnh đối với nghệ thuật và họ khám phá ra bi kịch
tâm hồn của chính họ. Trong Thơ Mới ta bắt gặp rất nhiều những câu thơ
đau đớn nói lên khát vọng không thoả, thậm chí là tuyệt vọng không thoả,
thậm chí là tuyệt vọng của các nhà thơ, kiểu như:
-Lũ chúng ta đầu thai nhầm thế kỷ
-Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa
-Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị.
-Trời hỡi hôm nay ta chán hết
Những sắc màu hình ảnh của trần gian…
Có thể xem những câu thơ đó như những minh chứng để thấy rằng: là
những người dân mất nước, các nhà thơ biết nỗi đau của họ, và vì thế thơ
tượng trưng - lối thơ xoay sâu vào chủ thể, lối thơ biểu hiện sự phản ứng đối
với cuộc sống tầm thương nhỏ nhen, vị kỷ, vị lợi trở thành có sức hấp dẫn kỳ

lạ đối với các nhà thơ Việt Nam. Baudelaire đã từng nói: “Ý tưởng về sự ích
lợi là sự thù nghịch nhất của thế giới với ý tưởng của cái đẹp”. Những nhà
thơ tượng trưng, từ Baudelaire đến Arthur Rimbaud, Paul Verlaine,
Mallarmé… càng ngày càng nhận ra cái kỷ nguyên hiện đại mỗi ngày một đi
xa hơn giới hạn của cái thiêng liêng, cái “vầng hào quang”, cái “quầng sáng
tâm linh” đã bị biến mất dưới sức nặng của vật chất hoá và phi nhân tính hoá
các quan hệ giữa con người, với sự tính toán đáng sợ theo tinh thần của thực
chứng luận cuối thế kỷ. Trong các nhà thơ Pháp, Arthur Rimbaud đã từng
ước mơ chạy trốn trước sự buồn chán: rời bỏ thành phố Charleville ra Paris,
rời bỏ Paris sang phương Đông, rồi bỏ phương Đông đến với hư vô… Tuy
hoàn cảnh nước Pháp cuối thế kỷ XIX và Việt Nam đầu thế kỷ XX không
phải tất cả đều tương đồng (về lịch sử, xã hội, quan hệ giai cấp), nhưng trước
những biến động xã hội, giữa các nhà thơ mớI Việt Nam và các nhà thơ
tượng trưng phương Tây đều nảy sinh những động năng tâm lý như nhau, họ
phát hiện ra sự vô vọng trong khả năng dung hoà với xã hội và tìm kiếm lối
thoát cho mình trong những khám phá thẩm mỹ mới.
Nhân tố xã hội như đã chỉ ra là rất quan trọng. Tuy nhiên cần phải
thấy rằng: từ những tiếp thu yếu tố nghệ thuật của thơ tượng trưng đến việc
hình thành một khuynh hướng thơ, lý do thời đại là chưa đủ để cắt nghĩa.
Các nhà thơ mới say thơ Baudelaire và các tác giả tượng trưng không chỉ
dừng lại ở thái độ phản ứng đối với thực tại, ở một tâm hồn đồng điệu, mà
còn ở một nghệ thuật mới tinh vi và quyền rũ: sự phát hiện ra mối tương hợp
các giác quan, những tương quan huyền bí giữa con người và vũ trụ, ở
những miền bí ẩn của tâm linh chưa ai khám phá, ở âm điệu du dương của
nhạc để diễn tả những giai điệu chủ quan của tâm hồn nghệ sĩ, ở cả sự xả
thân cho những tìm tòi mới mẻ của các thi sĩ tượng trưng… Như vậy, để có
thể biến các yếu tố được tiếp nhận từ bên ngoài để tạo thành một bộ phận
thơ ca có khuynh hướng nghệ thuật rõ rệt còn có những yếu tố khác không
kém phần quan trọng, làm cho thơ vừa đảm bảo tính mới lạ, hấp dẫn, vừa
gần gũi với tâm thức thẩm mỹ của người phương Đông và Việt Nam.

3. Đặc trưng ngôn ngữ Việt Nam. Tiếng Việt thuộc vào loại ngôn ngữ
đơn âm tiết, có khả năng gợi cảm lớn. Trong những văn cảnh nhất định, vỏ
âm thanh tự nó có sức mạnh diễn tả sự vật hoặc trạng thái tâm hồn con
người. “Truyện Kiều” của Nguyễn Du từng có những câu thơ rất hay biểu
thị sức mạnh này của Tiếng Việt:
- Tiếng khoan như gió thoảng ngoài
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa
- Đùng đùng gió giục mây vần
Một xe trong cõi hồng trầm như bay…
Có rất nhiều những âm thanh có ý nghĩa tượng trưng, có sức mạnh
diễn đạt những ý nghĩa vượt ra ngoài rất xa sự vật mà nó chỉ định kiểu như
những câu thơ trên. Đó là thế mạnh không thể phủ nhận được của Tiếng
Việt.
Ngoài ý nghĩa tượng trưng, sức ám gợi của âm thanh từ ngữ, tiếng
Việt là thứ ngôn ngữ giàu nhạc tính. Sự phong phú về mặt thanh điệu trong
tiếng Việt thực sự có thế mạnh trong việc diễn tả một cách dễ dàng các sắc
thái, các cung bậc khác nhau, tinh vi của tâm hồn con người. Nó là một
trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo nhạc tính cho thơ. “Âm nhạc
trước mọi sự” (de la musique avant toute chose). Trong sự tìm kiếm thẩm
mỹ, để vừa khai thác tối đa khả năng của ngôn từ, vừa để tìm lối thoát cho
thơ trong việc khắc phục kiểu trình bày trực tiếp sự vật, các nhà thơ tượng
trưng, đi đầu là Varlaine đã đưa âm nhạc lên thành vấn đề đầu tiên trong thơ.
Ở khía cạnh này có sự tương đồng giữa thơ Việt Nam và thơ tượng trưng
Pháp là điều dễ hiểu. Tuy vấn đề nhạc tính trong thơ không phải là mới vì
âm nhạc là một phần không thể thiếu được của thơ, hơn nữa cha ông xưa đã
từng nói “thi trung hữu nhạc”, nhưng vấn đề là ở chỗ: với sự gợi ý của tinh
thần âm nhạc từ thơ tượng trưng, Thơ Mới đã phát huy ở mức độ tối đa vấn
đề nhạc tính, và trong thực tiễn đời sống thơ ca, Thơ Mới đã tạo được những
bài thơ có sức gây ấn tượng mạnh mẽ không phải chỉ là hình ảnh, màu sắc
mà ở chính sự du dương trong âm điệu của nó.

4. Về sự khác biệt giữa người phương Đông và phương Tây, nhiều
nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng: nếu người phương Tây sớm nhận thức
vũ trụ là khách thể, con người sớm có chiều hướng tách mình ra khỏi nó để
khám phá, chinh phục thì người phương Đông ngược lại, có xu hướng hoà
hợp với vũ trụ, khám phá và biểu hiện mình trong những tương quan huyền
nhiệm với tạo vật. Với người phương Đông, vũ trụ không thể là khách thể và
ngày nay, tuy trong thời đại khoa học, nhưng những dấu tích của quan niệm
người xưa vẫn chưa mất đi trong ý thức con người hiện đại, trong thơ ca
ngoại cảnh vẫn thường được biểu hiện trong mối liên hệ khăng khít với tâm
cảnh. Người xưa vẫn thường nói:
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Câu thơ tuy có vẻ giản dị nhưng đó chính là sự cảm nhận có màu sắc
triết học của người xưa về quan hệ huyền nhiệm giữa con người và thế giới.
Ở đây có vấn đề sự liên quan giữa quan niệm nhất thể cảm giác (unité de
sens) của thơ tượng trưng và quan niệm triết học căn bản của Trung Hoa xưa
về tính nhât thể của vũ trụ. Từ lâu, người phương Đông xem vũ trụ là một
thể thống nhất và con người là tiểu vũ trụ trong cái vũ trụ ấy. Bởi vậy, vạn
vật và con người có mối tương giao thầm kín và người xưa tin rằng nhờ sự
liên hệ mật thiết đó mà Trời và Người có khả năng tương cảm, tương ứng.
Trình Minh Hạo có nói trong Ngữ lục: “Trời và Người gốc không phải là
hai, bất tất phải nói thiên nhân hợp nhất. Tâm của ta chính là Trời đây, phát
huy đến cùng cực cái tâm của ta thì biết được tính, biết được tính tức là biết
Trời” (Thiên nhân bản vô nhị, bất tất ngôn hợp. Tâm tiện thị thiên, tận chi
tiện tri tính, tri tính tiện tri thiên). Tư tưởng thiên nhân hợp nhất đó là cốt lõi
và đặc điểm lớn của triết học Trung Hoa xưa và nó ảnh hưởng tới các quốc
gia nông nghiệp lúa nước phương Đông như Việt Nam một cách mạnh mẽ.
Việc thơ tượng trưng phát hiện ra mối tương hợp, hô ứng với nhau giữa các
giác quan, giữa mùi hương, màu sắc và âm thanh, mối liên hệ huyền bí giữa
con người và vũ trụ là sự trùng hợp thú vị giữa cái tìm tòi được của thơ Pháp
và chiều sâu tâm thức người phương Đông và Việt Nam.

5. Người phương Đông nói chung có thế mạnh về lối tư duy bằng
tượng trưng. Đó là lối tư duy đặc trưng của người trung đại. Khi con người
chưa tách mình ra khỏi tự nhiên và chưa nhận thức nổi nó, người trung đại
thường sử dụng tự nhiên để thực hiện nhu cầu biểu hiện mình và tư duy
tượng trưng được hình thành từ đó. “Thiên nhiên với người trung đại như thể
là cùng một loại với con người… Thiên nhiên là một bình chứa vĩ đại các
tượng trưng”. Đối với người trung đại nói chung là thế, và với một nước
phương Đông như Việt Nam, do còn gắn chặt với điều kiện một xã hội nông
nghiệp cổ truyền nên lối tư duy ấy còn chưa xa lắm, nhất là trong cấu trúc ý
thức xã hội.
Đặc điểm tư duy của người trung đại phương Đông được phản ánh
một cách rõ rệt trong thơ Đường. Trước khi có thơ tượng trưng phương Tây,
người Việt Nam đã trải qua nhiều thế kỷ làm quen với thơ luật Đường của
Trung Quốc. Đó là một thứ thơ gắn chặt với tâm thức của người trung đại và
trong nhiều thế kỷ thơ Đường đã trở thành như quốc thi của người Việt.
Một trong những nội dung chính của thơ Đường là khám phá mối giao
hoà giữa con người với thiên nhiên, và đó là một trong những nét đặc trưng

×