Tải bản đầy đủ (.pdf) (137 trang)

Quan niệm nghệ thuật vầ con người và thế giới nhân vật trong sáng tác của nguyễn minh châu sau 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (825.5 KB, 137 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LÊ TRỌNG VINH

QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI VÀ
THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA
NGUYỄN MINH CHÂU SAU 1975

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

VINH - 2011


2

MỤC LỤC
Trang
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phạm vi khảo sát
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
6. Phương pháp nghiên cứu
7. Cấu trúc của luận văn
Chương 1. Nguyễn Minh Châu và quá trình đổi mới quan niệm
nghệ thuật về con người
1.1. Tiền đề dẫn đến sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người


của Nguyễn Minh Châu
1.1.1. Bối cảnh xã hội Việt Nam sau 1975
1.1.2. Nhu cầu cấp thiết đổi mới nền văn học Việt Nam
1.1.3. “Tự thay máu” – Khát vọng của “người mở đường tinh anh
và tài năng” Nguyễn Minh Châu
Chương 2: Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Minh
Châu sau 1975
2.1. Nhân vật tư tưởng
2.2. Nhân vật thế sự
2.3. Nhân vật số phận
2.4. Nhân vật bi kịch
2.5. Nhân vật tha hóa – sám hối


3

Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong sáng tác của
Nguyễn Minh Châu sau 1975
3.1. Miêu tả ngoại hình sinh động làm nổi bật tính cách nhân vật
3.2. Đi sâu khai thác tâm lý và sử dụng độc thoại nội tâm
3.3. Nghệ thuật tạo dựng tình huống
3.3.1. Tình huống tự nhận thức
3.3.2. Tình huống nghịch lý
3.3.3. Tình huống bi kịch
3.4. Xây dựng hình ảnh mang tính biểu tượng
3.5. Ngơn ngữ, Giọng điệu
3.5.1. Ngôn ngữ
3.5.2. Sự đa thanh trong giọng điệu
Kết luận
Tài liệu tham khảo



4

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nguyễn Minh Châu là cây bút tiêu biểu, có vị trí quan trọng trong nền
văn học Việt Nam hiện đại. Với một hành trình sáng tác dẻo dai, ơng đã để lại
một di sản văn học lớn, đặc sắc bao gồm mười ba tập truyện ngắn, tiểu thuyết và
một tập tiểu luận phê bình. Trước 1975, những sáng tác nồng hậu Cửa sơng,
Những vùng trời khác nhau, Dấu chân người lính…đã khẳng định phần đóng
góp đáng quý của Nguyễn Minh Châu trong cuộc “chiến đấu cho quyền sống của
cả dân tộc” và đưa ông lên vị trí những nhà văn – chiến sĩ hàng đầu của văn học
cách mạng Việt Nam. Sau 1975, các tiểu thuyết Miền cháy, Lửa từ những ngôi
nhà, Những người đi từ trong rừng ra, Mảnh đất tình yêu và những tập truyện
ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê, Chiếc thuyền ngoài xa,
Cỏ lau…lại tiếp tục khẳng định những đóng góp lớn lao của Nguyễn Minh Châu
trong cuộc “chiến đấu cho quyền sống của từng con người” và đặc biệt vị trí tiên
phong của ơng trong công cuộc đổi mới văn học dân tộc.
1.2. Là nhà văn mẫn cảm và giàu tâm huyết, ngay từ trước 1975, trong sự
gắn bó máu thịt với văn học chống Mỹ, cùng với những thành tựu lớn lao,
Nguyễn Minh Châu đã sớm cảm nhận những giới hạn khó tránh của nền văn học
mang âm hưởng sử thi với quan niệm có phần cịn giản đơn, phiến diện về con
người. Chính vì thế, cùng với việc thành tâm dành trọn vẹn tâm lực của mình đi
sâu khám phá phản ánh những “đề tài sinh tử”, sáng tác những tác phẩm nóng
hổi hơi thở đời sống với “ý thức nóng bỏng được cùng toàn dân tham gia đánh
giặc”, Nguyễn Minh Châu vẫn âm thầm nghĩ suy, trăn trở và nuôi khát vọng “sau
này sẽ có điều kiện được viết về những vấn đề còn ẩn náu trong hai cuộc kháng
chiến cứu nước, những vấn đề về con người của chúng ta” – những gì mà trong



5

điều kiện chiến tranh, khi “cả dân tộc đã dồn vào một con đường: Ấy là đưởng ra
mặt trận, con đường cứu nước” (Nam Cao), khi mà cả người cầm bút và người
đọc đều chỉ “có một mối quan tâm thường trực về vận mệnh dân tộc, về số phận
và khát vọng của nhân dân trong những năm đầy sóng gió” (Nguyễn Minh Châu)
– người nghệ sĩ có lương tri không thể không tạm thời “gác” lại.
1.3. Đất nước thống nhất, đổi mới đất nước, đổi mới nền văn học nghệ
thuật dân tộc, đã trở thành nhu cầu cấp thiết nếu khơng nói là điều kiện sống cịn
để phát triển. Đó là bối cảnh thuận lợi để Nguyễn Minh Châu trở về và tiếp nối
những trăn trở từ rất sớm và da diết của ông ngay từ trong chiến tranh. Cả bằng
tiểu luận phê bình, cả bằng thực tiễn sáng tác, Nguyễn Minh Châu đã mạnh dạn
đề nghị “Hãy đọc lời ai điếu cho một nền văn nghệ minh họa”, phải đổi mới tư
duy nghệ thuật, đặc biệt đổi mới quan niệm nghệ thuật về hiện thực, về con
người. “Dũng cảm rất điềm đạm”, Nguyễn Minh Châu đã âm thầm “tự thay
máu”, âm thầm vượt lên chính mình trong nỗ lực đưa văn chương trở về với đời
sống, “xác thực, đa dạng và cận nhân tình” hơn. Có thể nói, Nguyễn Minh Châu
thực sự là người mở đường “tinh anh và tài năng”, người đã “đi được xa nhất”
trong tiến trình đổi mới văn học Việt Nam đương đại. Đóng góp quan trọng của
Nguyễn Minh Châu vì thế khơng chỉ là di sản văn chương với phong cách riêng
độc đáo, mà còn là và trước hết là những “vệt tư tưởng” sâu đậm – mang ý nghĩa
tiên khởi của ông cho một giai đoạn cách tân quan trọng của văn học dân tộc.
Chính từ những đổi mới sâu sắc trong tư duy nghệ thuật, Nguyễn Minh Châu đã
xây dựng được một thế giới nhân vật đặc sắc, đầy ám ảnh.
1.4. Cho đến nay, đã có hàng trăm cơng trình, bài viết khảo sát khá toàn
diện, sâu sắc về Nguyễn Minh Châu và đóng góp của ơng trong văn học sử dân
tộc. Tuy nhiên, với một nhà văn – một hiện tượng văn học như Nguyễn Minh
Châu, việc nghiên cứu một cách thấu đáo, toàn diện, hoặc đi sâu vào từng
phương diện, vẫn ln là cơng việc cần thiết và có ý nghĩa.



6

Chọn nghiên cứu từ một phương diện cơ bản: Đổi mới tư duy nghệ thuật,
đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Minh Châu, từ đó làm
sáng tỏ sự chi phối của quan niệm nghệ thuật tới thế giới nhân vật của nhà văn
chúng tôi mong muốn góp phần lý giải, khẳng định những nét riêng độc đáo
trong phong cách sáng tạo của Nguyễn Minh Châu và vị trí, đóng góp quan trọng
của ơng với văn học Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn văn học đổi mới.
2. Lịch sử vấn đề
Thực tế, có hàng trăm cơng trình nghiên cứu và các bài viết về cuộc đời
và văn nghiệp của Nguyễn Minh Châu, đặc biệt là những đóng góp của ơng đối
với nền văn học đổi mới sau 1975. Ở đây, chúng tôi tập trung vào những cơng
trình, bài viết có liên quan tới q trình đổi mới quan niệm nghệ thuật của
Nguyễn Minh Châu và thế giới nhân vật trong sáng tác sau 1975 của nhà văn.
Theo khảo sát của chúng tơi các cơng trình nghiên cứu và các bài viết chủ yếu
tập trung vào các vấn đề cơ bản sau đây:
Xu hướng thứ nhất, các cơng trình, bài viết và những ý kiến tập trung
khẳng định vị trí tiên phong của Nguyễn Minh Châu trong công cuộc đổi mới
văn học.
Đi theo hướng này, Lã Nguyên đã đánh giá hành trình gian nan trong
sáng tác của Nguyễn Minh Châu: “Không phải ngay lúc đầu, những sáng tác
mới của Nguyễn Minh Châu đã được chính giới văn nghệ tiếp nhận dễ dàng.
Phản ứng ấy là tất yếu. Sau năm 1975, trên cái nền chung của văn học Việt
Nam, khi nó đang vận động theo qn tính của giai đoạn trước đó, sự đổi mới
của Nguyễn Minh Châu diễn ra âm thầm, chậm chạp nhưng hết sức mạnh
mẽ, càng về sau càng trở nên kiên quyết, triệt để” [49]. Nhà văn Nguyên Ngọc
nói rõ hơn: “Thế hệ nhà văn chúng tơi có thể chia làm ba loại người: loại thứ
nhất họ đang dũng cảm tự vượt lên mình, tiếp tục sáng tác chất lượng ngày càng

khá hơn, dám chiến đấu để trở về với hiện thực của chính mình. Loại thứ hai là


7

những người viết ít hoặc khơng viết nữa nhưng họ tâm huyết với văn học làm
mọi điều để văn học tiến lên, để đổi mới thực sự bằng công việc của chính họ.
Loại thứ ba là những người mà chỉ riêng sự xuất hiện của tài năng mới kiểu
Nguyễn Huy Thiệp, họ cũng không chịu được. Người xếp hàng đầu loại thứ
nhất là Nguyễn Minh Châu. Họ là những người dũng cảm nhất của thế hệ
chúng tôi” [35, 80]. Nhà văn Nguyễn Khải khẳng định: “Mãi mãi nền văn học
kháng chiến, cách mạng sẽ ghi nhớ những cống hiến của anh Châu. Anh là
người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam và cũng là
người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ, tài năng sau này. Anh Châu là
bất tử” [35, 107-108]. Cũng bàn về hành trình gian nan, dũng cảm và khẳng định
vị trí tiên phong của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong “Lời mở đầu” Hội thảo
khoa học nhân giỗ đầu nhà văn Nguyễn Minh Châu, nhà văn Nguyên Ngọc đã
khẳng định: “...Trong thế hệ đó, anh là người cảm nhận ra sớm nhất, sâu xa
nhất, tận máu thịt tâm tưởng mình các u cầu bức bách; sống cịn của cuộc trở
dạ nọ, mà ngày nay chúng ta gọi là công cuộc đổi mới văn học. Và lặng lẽ, âm
thầm, khiêm nhường và cực kỳ dũng cảm anh kiên định đi vào con đường đầy
chơng gai và hiểm nguy đó. Lặng lẽ bởi cuộc đi tìm kiếm thực sự nào, nhất là với
những người đi tiên phong, bao giờ cũng ít nhiều là đơn độc, lắm khi lẻ chiếc
đến cô đơn. Dũng cảm bởi vì đối với nhà văn, mỗi sự có tính khám phá, như
chính lời anh nói bao giờ trước hết cũng là sự đổi thay “tự thay máu” của chính
mình và trên con đường đó cho đến hơm nay, trong số tất cả chúng ta, tơi nghĩ
có thể khẳng định Nguyễn Minh Châu là người đã đi được xa nhất... Nguyễn
Minh Châu thuộc số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của
văn học ta hiện nay” [35, 183]. Đề dẫn cuốn Nhà văn Nguyễn Minh Châu con
người và tác phẩm, Tôn Phương Lan và Lại Nguyên Ân đánh giá: “Từ cuộc đời

cầm bút của ông, có thể nghĩ về một kiểu nhà văn. Từ con đường sáng tác của
ơng, có thể nghĩ đến một con đường cách tân đổi mới văn học...” [35, 247]. Mai


8

Hương, trong bài viết Đổi mới tư duy văn học và đóng góp của một số cây bút
văn xi đã khẳng định: “Ngay từ trước 1975, bằng sự mẫn cảm và tài năng, một
số cây bút đã sớm nhận ra sự bất cập và khoảng cách của văn học với đời sống.
Biết đó là khoảng cách khó tránh và khó vượt trong hoàn cảnh chiến tranh, khi
mà mọi nỗ lực của văn học đang phải dồn vào mục tiêu gần như duy nhất “chiến
đấu cho quyền sống của cả dân tộc”, nhưng các nhà văn vẫn âm thầm nuôi
khát vọng, âm thầm dự cảm về một sự đổi mới tất yếu của văn học. Nguyễn
Minh Châu là một trong số ít cây bút mẫn cảm có bản lĩnh và tài năng đó”.
Ngồi ra, nhiều cơng trình, bài viết đã tập trung khẳng định vị trí tiên
phong của Nguyễn Minh Châu qua một số thể loại và tác phẩm cụ thể. Lã
Nguyên nhận xét: “Khi truyện ngắn Bức tranh vừa xuất hiện, giới phê bình đã
nhận thấy bước ngoặt tất yếu sẽ xảy ra trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn
Minh Châu. Quả thế, liền sau Bức tranh, Nguyễn Minh Châu liên tiếp cho ra đời
hàng loạt tác phẩm làm xôn xao dư luận. Cơng chúng bỗng nhận ra có một
Nguyễn Minh Châu của những Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Dấu vết
nghề nghiệp, Bến quê, Chiếc thuyền ngoài xa, Một lần đối chứng, Khách ở quê
ra... Khác xa với Nguyễn Minh Châu thời Dấu chân người lính. Vậy là Nguyễn
Minh Châu đã tự đổi mới trước khi làn song đổi mới đang dâng lên mạnh mẽ
trong đời sống tinh thần dân tộc” [50]. Nói đến thành cơng trong sáng tác của
Nguyễn Minh Châu sau 1975 trước hết là nói đến sự thành cơng của thể loại
truyện ngắn. Nhận xét về một số truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau 1975,
Trần Đình Sử viết: “Bắt đầu từ truyện ngắn Bức tranh, rồi tập Người đàn bà trên
chuyến tàu tốc hành và nay là tập Bến quê, truyện ngắn của Nguyễn Minh
Châu xuất hiện như một hiện tượng văn học mới, một phong cách trần thuật

mới” [35, 209]. Hoàng Ngọc Hiến nhận xét về nét đặc sắc của truyện ngắn Bức
tranh: “Sự thật về bản thân mình là loại sự thật con người e ngại nhất. Quá
trình nhận thức về con người họa sỹ lại chạm nọc một thói xấu thường được che


9

dấu kỹ: Thói đạo đức giả. Nguyễn Minh Châu sớm nhận ra điều này mà nhiều
năm sau chúng ta mới nhận thấy” [35, 262]. Một số ý kiến đánh giá cao vị trí
tiên phong của Nguyễn Minh Châu ở thể loại tiểu thuyết, đặc biệt hai tiểu thuyết
Miền cháy và Những người đi từ trong rừng ra được sáng tác ngay sau chiến
tranh. Hồ Phương nhận xét: “Sau xuân 1975, nước nhà được thống nhất, Nguyễn
Minh Châu chuyển đề tài khá nhanh, Miền cháy, Những người đi từ trong rừng
ra... một loạt những tiểu thuyết mới của anh ra đời chủ yếu đề cập đến những
vấn đề sau chiến tranh, những vấn đề cấp bách to lớn, không đơn thuần chỉ là
kinh tế mà cả những vấn đề cấp bách, nóng bỏng về cuộc sống tinh thần và đạo
đức... Một lần nữa bạn bè của anh lại ngạc nhiên trước sự mẫn cảm, sự nắm
bắt nhanh nhạy của anh trước bước chuyển biến lịch sử của dân tộc, của đất
nước, trong khi đó khơng ít người dường như vẫn chưa kịp tỉnh, vẫn còn bị
dòng thác suy nghĩ, rung cảm cũng như mọi thói quen, hành động và sống
trong chiến tranh nhận chìm, lơi cuốn...” [35,111]. Cũng nói về hai tiểu thuyết
trên, nhà văn Ngô Thảo lại quan tâm ở một khía cạnh khác: “... Khi đồng nghiệp
đang viết ký sự thì Nguyễn Minh Châu lại đặt bút viết ngay tiểu thuyết Miền
cháy, Những người đi từ trong rừng ra là hai tập kế tiếp mạnh thể loại của Dấu
chân người lính. Anh đi tìm một chủ nghĩa nhân văn mới, thể hiện trong những
người chiến sỹ quân đội đang dẹp bỏ hận thù để xây dựng cuộc sống mới...”.
Ngô Thảo cũng đánh giá cao vị trí tiên phong của Nguyễn Minh Châu từ góc độ
thể loại: “Với tư cách là một tiểu thuyết có lẽ Miền Cháy là tập sách viết sớm
nhất về đề tài này. Chúng ta còn nhớ sau ngày đại thắng, các tác giả quen biết
trong quân đội đã viết một loạt bút ký, ký sự in ở báo rồi xuất bản thành sách...

gần như cùng một lúc, Nguyễn Minh Châu đã cho đăng những chương đầu của
Miền cháy cũng đồng thời với các sự kiện ấy, những con người ấy, vào thời điểm
lịch sử ấy” [64]. Ngồi ra cịn một số bài viết của các tác giả: Hoàng Thị Hường
với Nguyễn Minh Châu với vai trị mở đường trong cơng cuộc đổi mới văn xi


10

sau 1975; Nguyễn Khải với Nguyễn Minh Châu, niềm hãnh diện của những
người cầm bút; Nguyễn Văn Long với Nguyễn Minh Châu và hành trình khơng
ngừng nghỉ,... đều thống nhất đánh giá cao vị trí tiên phong của Nguyễn Minh
Châu trong công cuộc đổi mới văn học.
Xu hướng thứ hai, các cơng trình, các bài viết tập trung đánh giá về
đổi mới quan niệm nghệ thuật nói chung và đổi mới quan niệm nghệ thuật về
con người nói riêng trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu
Trong bài viết trong Nguyễn Minh Châu và những trăn trở trong đổi
mới tư duy nghệ thuật, Lã Ngun đánh giá cao sự tìm tịi, đổi mới của Nguyễn
Minh Châu: “Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc truyền thống văn xuôi
tâm lý được hình thành trong sáng tác của Nam Cao” và chỉ ra hiệu quả của sự
đổi mới nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu. Đó cũng là thành quả
lao động sáng tạo nghệ thuật của một nhà văn tâm huyết với nghề: “những cách
tân nghệ thuật Nguyễn Minh Châu vừa góp phần mở rộng khả năng phản ánh
hiện thực của văn xi tự sự, vừa làm giảm bớt tính loại biệt ước lệ và sự gián
cách của nội dung nghệ thuật với hiện thực đời sống... thành công của ông
trong những năm gần đây là sự gặp gỡ kỳ diệu giữa thời đại và cảm quan
nghệ thuật nhạy bén của người nghệ sỹ với những kiếm tìm chân lý kiên trì,
những suy ngẫm trăn trở đầy trách nhiệm của một nhà văn tài năng và tâm
huyết” [49]. Cũng quan tâm từ góc độ thi pháp, trong bài Những đổi mới về thi
pháp trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975, Nguyễn Tri Nguyên nhận
định: “Cùng với nhiều nhà văn cùng thế hệ trẻ hoặc trẻ hơn, Nguyễn Minh Châu

đã góp phần đổi mới nền văn học nước nhà sau 1975, từ nền văn học đơn thanh
điệu trong thi pháp thể hiện sang một nền văn học đa thanh điệu, phức điệu
trong thi pháp” [20, 246]. Nguyễn Văn Long và Trịnh Thu Tuyết với cơng trình
Nguyễn Minh Châu và công cuộc đổi mới văn học sau 1975, đã nhận xét: “Trong
xu hướng vận động chung của văn xuôi Việt Nam những năm sau chiến tranh,


11

Nguyễn Minh Châu thực sự trở thành một trong những người mở đường xuất
sắc bởi sự đổi mới “điềm đạm”, nhưng toàn diện sâu sắc trong cả tư tưởng
nghệ thuật lẫn sáng tác văn chương” [42, 66-67]. Trong bài viết Sáng tác của
Nguyễn Minh Châu trong sự vận động của văn xuôi đương đại, Trịnh Thu Tuyết
cũng đã chỉ ra quá trình vận động và đổi mới quan niệm về nhà văn và sứ mệnh
văn chương trong ý thức nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu: “Từ cuộc chiến đấu
giành quyền sống cho cả dân tộc chuyển sang “cuộc chiến đấu giành quyền sống
cho từng con người”, nhiệm vụ của nhà văn và văn học đã thay đổi (…). Giữa
những cây bút thời đổi mới, Nguyễn Minh Châu nổi lên như một nhà văn có tầm
nhìn sắc sảo và trái tim trung hậu khi ơng lặng lẽ quan sát dịng đời chảy trôi vô
tận, khám phá những đá ngầm và ghềnh thác, khái quát những quy luật vĩnh
hằng, những triết lý nhân sinh, đề xuất những phép ứng xử, bày tỏ dứt khốt tình
cảm và thái độ hoặc căm phẫn, lên án cái xấu, cái ác hoặc yêu thương trân
trọng với cái thiên lương tiềm ẩn trong mỗi con người” [70, 21].
Bên cạnh sự đổi mới về thi pháp trong sáng tác, đổi mới quan niệm về
vai trò của nhà văn và sứ mệnh của văn chương, Nguyễn Minh Châu còn có sự
đổi mới quan niệm về hiện thực trong sáng tác. Mai Hương trong bài viết Đổi
mới tư duy văn học và đóng góp của một số cây bút văn xuôi đã khẳng định:
“Ngay khi đang viết những trang Dấu chân người lính hào sảng, ơng đã cảm
nhận khá sâu sắc sự “bất lực” của văn học. Trong hình dung của ông hiện thực
đời sống như “một cánh rừng già chưa khai phá” với biết bao “những vấn đề

còn ẩn náu”. Vậy nhưng văn học, người cầm bút lại quá “non trẻ” và vụng dại.
Ngay từ thời điểm đó, Nguyễn Minh Châu đã lặng lẽ suy ngẫm và đúc kết
được những điều sau này đã trở thành những vấn đề thiết cốt của đổi mới tư
duy nghệ thuật, đổi mới văn học”. Trịnh Thu Tuyết cũng khẳng định sự đổi mới
và mở rộng phạm vi hiện thực trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu: “Không
thể phủ nhận những ảnh hưởng tích cực của thời đại, của những xu hướng đổi


12

mới văn học mạnh mẽ đối với sáng tác của Nguyễn Minh Châu nhưng cũng có
thể thấy rất rõ vai trò đặc biệt nổi trội của nhà văn “điềm đạm” mà “dũng
cảm” ấy trong việc đưa văn học trở về với cuộc sống nhân sinh, thế sự” …
“thận trọng mà chắc chắn, ông đã từng bước lấp đi một mảng yếu trong văn học
viết về chiến tranh, đó là mảng đề tài viết về đời sống hàng ngày.. mở rộng phạm
vi phản ánh của văn chương” [70, 60].
Trong sự đổi mới quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu phải kể
đến sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người. Đi sâu nghiên cứu ở phương
diện đổi mới này, Nguyễn Văn Hạnh khẳng định: “Trong sáng tác của Nguyễn
Minh Châu, dù đó là tiểu thuyết hay truyện ngắn, cốt truyện thường khơng đóng
một vai trị nào đáng kể. Nhà văn tập trung chú ý vào số phận con người, tính
cách nhân vật, và đã huy động vào đấy tâm hồn đa cảm dồi dào, ấn tượng tươi
mới và xúc động về cuộc sống, bút pháp chân thực và một giọng văn trữ tình
trầm lắng, ấm áp. Suy nghĩ trăn trở không ngừng về số phận những con người
lao động bình thường trước những thử thách ác liệt của chiến tranh, cũng như
trong cuộc sống vật chất hàng ngày xuyên thấm các trang viết của Nguyễn Minh
Châu” và “Nguyễn Minh Châu đã cảm nhận được ngày càng rõ nét những
chuyển động có ý nghĩa thời đại của cuộc sống và của văn học, anh đã tự mạnh
dạn phủ định mình, đổi mới cách viết, từ một cách nhìn mới về con người, về
cuộc sống”, chính sự đổi mới quan niệm về con người “đã biến anh thành một

trong những đại diện sớm sủa, kiên định và có uy tín của trào lưu văn học đổi
mới ở nước ta hiện nay” [16]. Trong bài viết Nguyễn Minh Châu và sự trăn trở
của một ngịi bút đầy trách nhiệm, Đinh Trí Dũng đã khẳng định nỗ lực đổi mới
quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu: “Nguyễn Minh Châu như một
người lính hành quân không mệt mỏi, luôn trăn trở đào sâu vào những tầng
vỉa mới của đời sống, phát hiện những kiểu người mới, những giá trị mới. Và
giọng văn của Nguyễn Minh Châu cũng có những biến đổi: ân tình, sâu sắc,


13

nhiều lúc “đầy trắc ẩn”. Sự đổi mới cái nhìn về con người đã đem lại cho tác
phẩm Nguyễn Minh Châu những gương mặt lạ...” [12]. Phạm Quang Long
trong bài viết, Thái độ của Nguyễn Minh Châu đối với con người niềm tin pha
lẫn với âu lo, đã nhận xét: “Trong suốt cuộc đời cầm bút của mình Nguyễn Minh
Châu khi thì bằng tác phẩm, khi thì bằng những suy nghĩ đầy tâm huyết đã nêu
ra những vấn đề có ảnh hưởng quan trọng tới cả một xu hướng phát triển của
nền văn học nước nhà. Đối với một nhà văn, làm được như thế cũng đã có thể
yên tâm với nghiệp của mình nhưng Nguyễn Minh Châu, theo tơi, cịn làm
được nhiều hơn thế. Dấu ấn của ơng để lại trong văn học nước nhà không
phải chỉ là số đầu sách đã xuất bản mà là một vệt tư tưởng về con người, một
sự thức tỉnh cho cả xã hội và cho văn chương nói chung” [44]. Hồ Hồng
Quang trong bài Tác phẩm viết về chiến tranh những năm 1980, một sự chiêm
nghiệm lại về cuộc chiến và người lính cách mạng của Nguyễn Minh Châu, đã
cho thấy sự đổi mới cái nhìn về con người, về hiện thực chiến tranh trong sáng
tác của Nguyễn Minh Châu, đồng thời khẳng định “vị trí của một trong những
người có cơng đầu trong việc góp phần đổi mới văn học Việt Nam trong
những năm 80” [20, 237]. Đánh giá đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người
của Nguyễn Minh Châu, Trịnh Thu Tuyết khẳng định Nguyễn Minh Châu đã
nhìn nhận con người trong tính tồn vẹn, tổng thể và nhà văn “đã lấy con người

làm đối tượng quan sát, phản ánh và chuẩn mực giá trị cao nhất với chính con
người. Đó chính là cách nhìn dựa trên nền tảng của triết học nhân bản, giúp nhà
văn khám phá con người sâu sắc, tồn diện hơn, sự phản ánh chính xác, thấu đạt
nhân tình hơn” và với cái nhìn đổi mới về con người “đã giúp cho nhà văn có
thể phát hiện ra những vênh lệch, phần dư thừa hoặc thiếu hụt, phần khơng
trùng khít giữa con người cá nhân với con người xã hội, giữa con người bên
trong và con người bên ngoài.” [70,41].


14

Xu hướng thứ ba, các cơng trình nghiên cứu, bài viết tập trung
đánh giá thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975
Trong bài Ấn tượng về nhân vật nữ của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn
Thị Minh Thái nhận xét: “Chỉ bằng một chùm truyện ngắn mới nhất trong tập
Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành này, với những nhân vật nữ đáng yêu…
cũng thấy rằng, Nguyễn Minh Châu có một cái nhìn ấm áp, nhân hậu, luôn chăm
chút phát hiện ra vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam từ nhiều chiều, nhiều
hướng, nhiều phía khác nhau. Trong cả bối cảnh chiến tranh lẫn bối cảnh đời
thường, những nhân vật ấy đều đẹp. Mỗi nhân vật là một phát hiện mới về hình
tượng người phụ nữ trong văn xuôi hiện đại” [61]. Cũng quan tâm về vấn đề
nhân vật Lê Quang Hưng trong Phiên chợ Giát nhận định: “Hình tượng lão
Khúng chứng tỏ độ chín muồi của quá trình dài trăn trở, đổi mới của ngịi bút
Nguyễn Minh Châu mà trước đó đã phát lộ ở Người đàn bà trên chuyến tàu tốc
hành, Bức tranh, Cỏ lau...Đó là việc đi sâu khám phá nội tâm phong phú, lắm
uẩn khúc của con người. Đó là khả năng hình dung và tái hiện bộ mặt lịch sử
thơng qua các hiện tượng cụ thể, các số phận riêng tư. Phải chăng đây là thể
hiện sinh động của sức khái quát nghệ thuật lớn lao ở ngòi bút Nguyễn Minh
Châu” [22, 188]. Nhà văn Đào Vũ khi bàn về một số nhân vật trong truyện ngắn
của Nguyễn Minh Châu đã nhận xét: “Cái cảm giác lạ lẫm, miễn cưỡng khi gặp

một số nhân vật truyện ngắn của anh Châu gần đây cũng là cảm giác có thật
trong tơi”. Truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành trong tập truyện
ngắn cùng tên của nhà văn Nguyễn Minh Châu là truyện gây nên nhiều luồng ý
kiến khác nhau. Cái cảm giác “lạ lẫm, miễn cưỡng” trên đây của nhà văn Đào Vũ
là cảm giác chung của nhiều người bởi lẽ “... Đây là truyện tinh tế, khó viết. Cái
chất phân tâm này cịn ít trong văn chương ta” [35, 66]. Trịnh Thu Tuyết nhận
xét nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975: “Là phương tiện
phản ánh và khái quát hiện thực, sự mô tả nhân vật cũng đồng thời chịu sự chi


15

phối trực tiếp của quan niệm đối với hiện thực của nhà văn. Tơn trọng tính chân
thực và tồn vẹn của một hiện thực đang diễn tiến, các nhân vật văn học của
Nguyễn Minh Châu đã được đưa về gần với cuộc đời hơn, giàu sức thuyết phục
hơn trong vị thế bình đẳng và tính độc lập tương đối của chúng” [70, 30]. Ngoài
ra khi tiến hành khảo sát nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau
1975 một cách có hệ thống, tác giả Trịnh Thu Tuyết trong bài Nguyễn Minh
Châu với nghệ thuật xây dựng nhân vật truyện ngắn đã nhận xét: Nguyễn Minh
Châu “đã có những thay đổi căn bản trong nghệ thuật xây dựng nhân vật. Từ vai
trị của những khách thể với tính cách định hình trong các sáng tác trước 1975,
nhân vật truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu được miêu tả như những
“chủ thể tự nó” với những bí ẩn khơng lường, những diễn biến phức tạp của quá
trình vận động tâm lý, tính cách... Với sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con
người, Nguyễn Minh Châu đã đến với nhân vật từ góc độ tiếp cận nhân bản, và
sau một chặng đường lao động nghệ thuật vất vả, nghiêm túc, từ Bức tranh đến
Phiên chợ Giát ông đã thu được những thành cơng nhất định” [69].
Ngồi ra cịn nhiều bài viết và cơng trình nghiên cứu về sự nghiệp văn
học và những đóng góp của Nguyễn Minh Châu đối với nền văn học Việt Nam,
đặc biệt trong công cuộc đổi mới văn học những năm 80 của thế kỷ XX, như:

Hành trình dẻo dai của một ngịi bút (Tơn Phương Lan), Nguyễn Minh Châu người mải miết với cái đẹp (Lê Thành Nghị), Sự đổi mới chắc chắn từ một sức
viết dồi dào (Nguyên An), Hướng đi và triển vọng của Nguyễn Minh Châu
(Nguyễn Đăng Mạnh), Nguyễn Minh Châu - một cây bút văn xuôi nhiều triển
vọng (Phan Cự Đệ)...Ở đó ít nhiều đều có đề cập đến vấn đề nhân vật trong sáng
tác của Nguyễn Minh Châu.
Khảo sát qua những cơng trình bài viết về Nguyễn Minh Châu chúng
tôi nhận thấy, các ý kiến đều thống nhất trong xu hướng khẳng định vị trí tiên
phong và những đổi mới cơ bản trong tư duy nghệ thuật, trong quan niệm nghệ


16

thuật về con người và từ đó tạo nên những đổi mới trong thế giới nhân vật của
nhà văn.
Những ý kiến đó là những gợi dẫn quý báu đối với chúng tôi trong việc
lựa chọn và triển khai đề tài. Luận văn của chúng tơi sẽ đi sâu tìm hiểu những
đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Minh Châu và sự chi
phối của quan niệm đó trong thế giới nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật
của nhà văn. Từ đó góp phần khẳng định một cách toàn diện hơn giá trị sáng tác
cũng như đóng góp của Nguyễn Minh Châu - người mở đường “tinh anh và tài
năng” trong tiến trình vận động đổi mới văn xuôi đương đại.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Quan niệm nghệ thuật về con người
và thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975. Luận
văn tập trung khảo sát sự đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người của
Nguyễn Minh Châu và sự chi phối của nó trong việc xây dựng thế giới nhân vật
và nghệ thuật thể hiện nhân vật.
4. Phạm vi khảo sát
- Các sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 gồm:
Tiểu thuyết: Miền cháy (NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1977); Lửa từ

những ngôi nhà (NXB Văn học, Hà Nội, 1977); Những người đi từ trong rừng ra
(NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1982); Mảnh đất tình yêu (NXB Tác phẩm
mới, Hà Nội, 1987).
Truyện ngắn: Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (NXB Tác phẩm
mới, Hà Nội, 1983); Bến quê (NXB Tác phẩm mới, Nà Nội, 1985); Chiếc thuyền
ngoài xa (NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1987); Cỏ lau (NXB Văn học, Hà Nội,
1989).
Tiểu luận: Trang giấy trước đèn (NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994).


17

Ngồi ra cịn nhiều bút kí, truyện ngắn, ghi chép của Nguyễn Minh Châu
đăng trên các báo, tạp chí sau 1975.
- Khảo sát khảo sát một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu trước 1975 và
thêm một số sáng tác của các tác giả cùng thời trong sự so sánh để thấy được nét
đặc sắc trong đổi mới tư duy nghệ thuật và thế giới nhân vật của Nguyễn Minh
Châu.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài nhằm tìm hiểu:
5.1. Quá trình đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn
Minh Châu.
5.2. Sự chi phối của quan niệm nghệ thuật về con người đến việc xây dựng
Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975.
5.3. Sự chi phối của quan niệm nghệ thuật về con người tới Nghệ thuật
xây dựng nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai đề tài luận văn sử dụng các phương pháp:
- Phương pháp phân tích tác phẩm văn học.
- Phương pháp hệ thống, phân loại.

- Phương pháp so sánh.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn được triển khai trong 3 chương:
Chương 1: Nguyễn Minh Châu và quá trình đổi mới quan niệm nghệ
thuật về con người.
Chương 2: Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu
sau 1975.


18

Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong sáng tác của Nguyễn
Minh Châu.
NỘI DUNG
Chương 1
NGUYỄN MINH CHÂU VÀ QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI QUAN NIỆM
NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI
1.1. Tiền đề dẫn đến sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người
của Nguyễn Minh Châu
1.1.1. Bối cảnh xã hội Việt Nam sau 1975
Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã mở ra một trang mới trong lịch sử dân
tộc Việt Nam. Đất nước thống nhất và bước vào một giai đoạn phát triển mới.
Bên cạnh những mặt thuận lợi chúng ta cũng phải đối đầu với rất nhiều khó
khăn, phức tạp. Việt Nam là một nước nông nghiệp, lại phải tiến hành cuộc
kháng chiến chống thực dân và đế quốc kéo dài 30 năm, thiệt hại về vật chất và
tinh thần là rất lớn, dấu vết của mất mát đau thương vẫn vơ cùng nặng nề. Chính
vì vậy cơng cuộc kiến thiết lại đất nước sau chiến tranh gặp muôn vàn khó khăn.
Để khắc phục những khó khăn và mất mát đau thương đó khơng phải là việc đơn
giản và cũng khơng thể nhanh chóng.

Cùng với đó, nền kinh tế tập trung bao cấp đã bộc lộ những hạn chế, bất
cập. Những mặt tiêu cực, những cái xấu, cái ác, phi đạo đức đang len lỏi vào đời
sống. Quan hệ giai cấp xã hội phức tạp hơn, các thế lực thù địch trong và ngoài
nước ra sức chống phá Nhà nước ta. Có thể nói đó là một hiện trạng xã hội
“ngổn ngang, bề bộn bóng tối và ánh sáng, màu đỏ với màu đen, đầy dẫy những
biến động bất ngờ” (Nguyễn Khải) như “một chiến trường mới, lập tức mở ra


19

trên chiến trường cũ ”. Muốn giải quyết được những khó khăn trên, trước hết cần
phải xóa bỏ khoảng cách về tư tưởng, lối sống, chính kiến của mọi người ở mọi
thành phần, giai cấp khác nhau trong xã hội để cả xã hội cùng hướng vào một
mục tiêu chung lúc này là xây dựng một đời sống mới cho cả xã hội. Mọi người
cần nỗ lực chung sức chung lịng đưa đất nước vượt qua thách thức, khó khăn để
phát triển. Trong tác phẩm Miền cháy (1977), Nguyễn Minh Châu đã phát biểu
“Bước ra khỏi cuộc chiến tranh cũng cần phải có đầy đủ nghị lực như bước vào
một cuộc chiến tranh” [23, 881].
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 là mốc son mở ra cho đất
nước một cơng cuộc đổi mới tồn diện, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Đổi mới mạnh mẽ và toàn diện là tinh thần cơ bản của Đại hội Đảng lần thứ
VI: “Phải đổi mới trước hết là đổi mới tư duy, chúng ta mới có thể vượt qua khó
khăn, thực hiện được những mục tiêu do Đại hội VI đề ra”. Sự đổi mới trước hết
diễn ra sôi nổi trên lĩnh vực kinh tế, với mục tiêu xóa bỏ nền kinh tế lạc hậu,
kinh tế tập trung, bao cấp, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị
trường và theo định hướng xã hội chủ nghĩa; từ một nền kinh tế khép kín, kinh tế
Việt Nam đã mở cửa hội nhập với kinh tế thế giới. Một nền kinh tế thị trường
được thiết lập, cùng với những mặt tích cực của nó, cũng đã tạo ra khơng ít
những mặt trái, tiêu cực, khiến cuộc sống hậu chiến trở nên phức tạp, bộn bề.
Nhiều giá trị mới được xác lập. Nhiều giá trị, chuẩn mực đạo đức cũ thay đổi.

Xung đột giữa giá trị tinh thần và vật chất, giữa chân thật và giả dối, giữa tầm
thường và cao thượng... diễn ra sâu sắc, mạnh mẽ trong xã hội và trong bản thân
từng con người. Đúng như nhà văn Nguyễn Minh Châu từng nhận xét: “Cuộc
sống xã hội những năm 80 có nhiều tình huống thời khắc đậm đặc để con người
bộc lộ tính cách mãnh liệt”. Hiện thực đó chính là mảnh đất màu mỡ để nhà văn
khai phá và sáng tạo, nhưng đồng thời cũng là thử thách khắc nghiệt, những đòi
hỏi nặng nề đối với cả nền văn học và mỗi người cầm bút.


20

Ở lĩnh vực văn hóa văn nghệ, đầu năm 1986, Ban Bí thư ra Chỉ thị về cơng
tác tư tưởng, mở rộng dân chủ, sau đó ra thơng báo tun truyền trên báo chí về
phê bình và tự phê bình. Tháng 12 năm 1986, Đại hội Đảng lần thứ VI được tiến
hành, đánh dấu sự đổi mới của Đảng về tư duy, nhận thức, đặc biệt đề cao tinh
thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, phát huy tinh
thần dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân, chống lại tinh thần bảo thủ của quan
niệm cũ, mở ra một bối cảnh mới trong đời sống xã hội và giải phóng khơi mở
cho sự sáng tạo nghệ thuật. Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị yêu cầu: “Thực hiện
chủ trương đổi mới của Đảng trong hoàn cảnh cách mạng khoa học, kỹ thuật
đang diễn ra với quy mô, tốc độ chưa từng thấy trên thế giới và việc giao lưu
giữa các nước và các nền văn hóa ngày càng mở rộng, văn hóa, văn nghệ nước
ta phải đổi mới, đổi mới tư duy, đổi mới cách nghĩ, cách làm; Văn nghệ Việt
Nam phải thể hiện tiếng nói đầy trách nhiệm, trung thực, tự do, tiếng nói của sự
thật, lương tri”. “Đảng khuyến khích văn nghệ sĩ tìm tịi sáng tạo, khuyến khích
và u cầu có những thể nghiệm mạnh bạo và rộng rãi trong sáng tạo nghệ thuật
và phát triển các loại hình và thể loại nghệ thuật, các hình thức biểu hiện”. Sự
thay đổi trên của bối cảnh đất nước cũng đã tác động đến nhận thức của con
người, tạo ra một điều kiện thuận lợi để cho con người trong xã hội mới nhìn
nhận lại mình, nhìn nhận lại các vấn đề trong đời sống xã hội cả ở quá khứ lẫn

hiện tại, trong đó có lĩnh vực văn học nghệ thuật.
1.1.2. Nhu cầu cấp thiết đổi mới nền văn học Việt Nam
Đại hội Đảng lần thứ VI, những chủ trương, chính sách của Đảng thực sự
là động lực, là đòn bẩy, kích thích văn nghệ sĩ sáng tạo với tất cả khả năng và
tâm huyết của mình. Đặc biệt cuộc gặp gỡ của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh
với đơng đảo văn nghệ sĩ trong tháng 10 năm 1987 đã trở thành một sự kiện
trọng đại trong đời sống văn học nghệ thuật. Tại cuộc gặp gỡ này, các văn nghệ
sĩ được phát biểu, bày tỏ tâm tư, mong muốn đổi mới nền văn nghệ Việt Nam và


21

Tổng Bí thư đã đề cập đến vấn đề cần có sự “cởi trói”, đổi mới thực sự cho văn
nghệ để phát huy được năng lực, tư duy và sức sáng tạo của mỗi người cầm bút.
Tất cả đã tạo nên một bầu khơng khí dân chủ, cởi mở, sơi nổi, tạo đà cho văn
nghệ phát triển, tạo tiền đề cho những đổi mới mạnh mẽ của văn học nghệ thuật.
Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị nhấn mạnh quyền được thể nghiệm, quyền được
tự do sáng tác của văn nghệ sĩ. Theo đó, “Tư duy sáng tác là điều kiện sống cịn
để tạo nên các giá trị đích thực trong văn hóa nghệ thuật, để phát triển tài năng”.
Trong công tác lãnh đạo, quản lý, Đảng chỉ đạo tránh “can thiệp thô bạo vào các
vấn đề văn học nghệ thuật”, “ trân trọng nhân cách, tài năng và sự độc đáo của
văn nghệ sĩ, chu đáo, tế nhị, chân tình trong quan hệ đối xử, có cách làm việc
thích hợp với từng cá tính sáng tạo”, đồng thời khuyến khích văn nghệ sĩ cố
gắng phấn đấu tạo ra được “những tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật
cao, tác động sâu sắc đến việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống, trình độ thẩm mĩ của
nhân dân”.
Như vậy khơng khí cởi mở dân chủ của đời sống xã hội, của nền văn nghệ
đã kích thích được sự sáng tạo của văn nghệ sĩ, thực sự mở đường cho văn nghệ
sĩ đến với những sáng tạo nghệ thuật mới mẻ, quan trọng hơn là tạo ra những đổi
mới cơ bản toàn diện trong tư duy, trong quan niệm nghệ thuật của nhà văn sau

1975, đặc biệt là sau Đại hội Đảng lần thứ VI.
Mặt khác, nhu cầu khám phá, phản ánh hiện thực đời sống xã hội sau 1975
đòi hỏi văn học cần phải có sự thay đổi cách nhìn nhận, khám phá và phản ánh
hiện thực phù hợp với yêu cầu mới của đời sống và của công chúng tiếp nhận.
Thực tế, mỗi nền văn học, mỗi giai đoạn văn học đều có những hiện thực lớn,
bao trùm, thu hút sự quan tâm của xã hội nói chung và của nhà văn nói riêng.
Trước 1975, hiện thực - đối tượng phản ánh lớn nhất, bao trùm của văn học
chính là đời sống chính trị - xã hội với hai mảng đề tài cơ bản xây dựng chủ
nghĩa xã hội và cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc. Đây chính là những


22

mảng hiện thực tập hợp những sự kiện, những hiện tượng, những diễn biến quan
trọng nhất của đời sống xã hội, thể hiện những nét bản chất nhất trong thời kỳ
lịch sử đó. Trong hiện thực bao trùm đó, mỗi nhà văn tùy theo vốn sống và sở
trường của mình lại tìm đến, xác định cho mình một "vùng hiện thực", một mảnh
đất riêng để khai thác, phản ánh. Nguyễn Khải, Chu Văn, Đào Vũ, Nguyễn Kiên,
Vũ Thị Thường... gắn bó với đề tài cuộc sống lao động xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc (đặc biệt ở nông thôn). Nguyễn Thi, Anh Đức, Phan Tứ, Nguyễn
Minh Châu…tập trung khai thác đề tài chiến tranh cách mạng. Từ đó hàng loạt
tác phẩm đã ra đời từ Cái sân gạch, Vụ lúa chiêm, Con đường mòn ấy, Xung đột,
Vùng quê yên tĩnh…đến Người mẹ cầm súng, Cửa sông, Dấu chân người lính,
Gia đình má Bảy, Mẫn và Tơi, Hịn đất…Tất cả đều tập trung vào những đề tài
trung tâm, "đề tài sinh tử" của hiện thực đương thời. Và cho dù thể hiện đề tài
nào, qua đó, người đọc đều thấy tầm vóc vĩ đại của con người Việt Nam - những
con người đấu tranh giành độc lập, những con người vươn tới tương lai bằng sức
mạnh phi thường. Nhìn như vậy có thể thấy, trước 1975, hiện thực được giới hạn
trong sự chi phối của hệ thống đề tài đã được định hướng rõ ràng, đúng như
Đảng đã khẳng định "Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội là đề tài cao đẹp nhất trong

văn học nghệ thuật nước ta hiện nay". Đó được coi là những nguồn hiện thực
phong phú, những "mảnh đất màu mỡ, đầy hứa hẹn" "dâng sẵn, đón chờ" mỗi
người nghệ sĩ. Thực tế, việc giới hạn đối tượng phản ánh của văn học trong một
hệ thống đề tài của đời sống chính trị - xã hội như vậy khơng tránh khỏi bó hẹp
phạm vi hiện thực khiến nhà văn khó có thể phát huy được hết khả năng của
mình, khó có thể phản ánh được chân thực và toàn vẹn hiện thực vốn phong phú
và đa dạng của đời sống.
Cuộc sống mới sau 1975 đặt ra rất nhiều vấn đề phức tạp của thời hậu
chiến, địi hỏi nhà văn nói riêng và người nghệ sỹ nói chung phải nhạy bén, nắm
bắt, khám phá và phản ánh kịp thời. Ở thời điểm này, những vấn đề của đời sống


23

chính trị xã hội khơng cịn là mối quan tâm duy nhất, cũng không phải là đối
tượng phản ánh duy nhất của văn học. Sau năm 1975, xã hội việt Nam có sự
chuyển biến mạnh mẽ, trong đó có cả những thuận lợi và khó khăn, có cả tích
cực và tiêu cực, điều này đã tác động sâu sắc đến đời sống văn hóa tinh thần của
con người dẫn đến nhu cầu về văn hóa tinh thần của con người cũng thay đổi.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu từng nói: “Cuộc đời đa sự, con người thì đa đoan”.
Nếu như trước 1975, đất nước đang đối mặt với chiến tranh thì con người ít quan
tâm đến nhu cầu cá nhân, lợi ích bản thân không đặt ra nhiều, đời sống lúc này là
đời sống chung của dân tộc, nhu cầu cá nhân phải gắn với lợi ích của dân tộc.
Tất cả đều hướng đến độc lập của Tổ quốc, sẵn sàng hy sinh vì lý tưởng cao đẹp.
Sau 1975 con người khơng cịn phải đối mặt với chiến tranh, nhưng cuộc sống
thường nhật, đời thường của con người lại vô cùng xơ bồ phức tạp. Khơng tránh
khỏi có lúc con người bị cuốn hút vào vịng xốy của những tiêu cực, xấu xa của
đời sống dẫn tới hạ thấp mình, bon chen, so bì hơn kém, tính tốn, thậm chí là
tha hóa thấp hèn. Sống trong một xã hội đang có sự thay đổi mạnh mẽ, đặc biệt
là sự thay đổi về mặt kinh tế tất yếu, vấn đề vật chất sẽ được đặt ra với mỗi con

người. Hiện thực đó đã đặt ra một vấn đề trong mọi lĩnh vực xã hội, cần phải
điều chỉnh lại các mối quan hệ cho phù hợp với chuẩn mực đạo đức, lối sống của
một xã hội mới. Đó cũng là trách nhiệm nặng nề đặt ra cho các nhà văn sau
1975. Nhà văn do vậy cần phải có cách nhìn nhận, thấy được mọi diễn biến phức
tạp của cuộc sống, dám nói thẳng, nói thật và phản ánh được đúng bản chất hiện
thực của đời sống.
Mở rộng phạm vi hiện thực phản ánh do vậy đã thành một nhu cầu bức
thiết của cả nền văn học: Từ một hiện thực được giới hạn trong sự chi phối của
hệ thống đề tài có định hướng đến một hiện thực toàn vẹn hơn với sự phong phú,
đa dạng của đời sống nhân sinh thế sự. Những mảng đề tài từ hiện thực chính trị
xã hội đến cuộc sống đời tư; từ sinh mệnh lớn lao của cả cộng đồng đến những


24

số phận cá nhân với bao bộn bề, phức tạp, thầm kín…đã đem đến cho văn học
một gương mặt mới mẻ, chân thực, đậm chất nhân văn và thực sự gần gũi với
con người. Nhà văn tìm cảm hứng sáng tạo trong tất cả các sự kiện của đời sống
thường nhật. Khơng cịn khái niệm “vùng cấm” đối với sáng tạo văn học nghệ
thuật. Các thế hệ cầm bút ngày càng nỗ lực khai phá những mảng hiện thực mới.
Từ đó, đối tượng của văn học ngày càng mở rộng hơn, càng phong phú và đa
dạng…Và văn học dần đã khắc phục được sự bất cập của văn học thời chiến
tranh "lấp đi một mảng yếu trong văn học viết về chiến tranh, đó là mảng đề tài
viết về cuộc sống hàng ngày, là số phận cá nhân trong cộng đồng".
Không chỉ mở rộng phạm vi hiện thực, trong quan niệm của nhà văn còn
cần phải đổi mới hướng tiếp cận, phản ánh và lý giải hiện thực. Những năm
tháng chiến tranh, cảm hứng sử thi, cảm hứng ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách
mạng đã chi phối cách tiếp cận hiện thực của nhà văn: Hiện thực lý tưởng và đã
hoàn kết. Cách tiếp cận hiện thực như vậy dẫn đến tình trạng hiện thực được
phản ánh trong tác phẩm đơn giản, xuôi chiều, sáng rõ qua những mô típ chủ đề

xác định và hữu hạn, hạn chế khả năng bao quát, phân tích và lý giải hiện thực
của văn học. Một khi phạm vi hiện thực của văn học được mở rộng, đối tượng
của văn học là "cuộc sống trong tính tổng thể bao la, trong chiều sâu thăm thẳm,
trong khả năng biến đổi thường xuyên, trong vận động không ngừng, trong bản
chất tinh thần phong phú, đầy bất ngờ bí ẩn" (Trần Đình Sử), thì cách tư duy áp
đặt, cứng nhắc và xác định trước đây hoàn tồn khơng cịn phù hợp. Nhà văn cần
"đào sâu" vào hiện thực, “nghiền ngẫm” hiện thực, tác phẩm văn học khơng chỉ
có một mà phải tạo được những tầng bậc chủ đề đa nghĩa có khả năng bao quát
được chân thực hiện thực rộng lớn chưa hoàn tất, đang diễn tiến với đầy những
ẩn mật bất ngờ.
Theo nhà văn Nguyên Ngọc "Đổi mới trước hết là sự tỉnh táo". Ơng
"khơng dùng từ đổi mới mà dùng từ trở lại. Có một lúc nào đó ta đã nhìn nhận


25

không đúng, hành động không đúng, không đúng với hiện thực, không đúng với
quy luật. Nay trở lại chỗ đúng. Đổi mới khơng phải bịa ra một cái gì mới, chưa
từng có, mà là trở lại nhìn nhận hiện thực sao cho tỉnh táo hơn, khách quan hơn,
hiện thực hơn, hiện thực đúng như nó có, khơng tơ vẽ, khơng che giấu, khơng cắt
xén. Nhìn nhận một cách tỉnh táo và dũng cảm. Hiện thực ngày nay đa dạng,
phức tạp, muốn khai phá nó phải tiếp cận từ nhiều phía, bằng nhiều cách". Nhà
văn Nguyễn Tuân cũng cho rằng: "Nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật sẽ có
nhiều tác phẩm hay. Lâu nay người ta đề cập đến một hiện thực một chiều, chứ
không phải hiện thực như nó đang có, tơi gọi những tác phẩm đó là theo một thứ
hiện thực "ảo huyền" (…) là hiện thực ảo (…) Đổi mới trong văn học theo tôi
phải gọi sự vật đúng với cái tên của nó, phải phản ánh hiện thực trong cái vẻ
toàn diện, nhiều chiều, nhiều mặt của nó chứ khơng chỉ một chiều". Thực tế,
trong một loạt tác phẩm văn học ra đời sau 1975 đặc biệt sau 1986, đã xuất hiện
một cách nhìn, cách tiếp cận hiện thực đa dạng, nhiều chiều, thể hiện mối quan

hệ tự do của nhà văn đối với hiện thực, nhờ thế nhà văn có thể "suy ngẫm"
"nghiền ngẫm" hiện thực, từ đó có những khám phá, phát hiện mới mẻ, sâu sắc
đậm giá trị nhân văn và đầy sức hấp dẫn về hiện thực.
Chối bỏ sự minh họa và hiện thực đơn giản một chiều, tạo ra một hiện
thực đa dạng, sáng tạo hiện thực qua trải nghiệm cá nhân, gợi lên những suy nghĩ
và nhân cách, đạo đức đồng thời giải thích động cơ của những cách ứng xử,
những kiểu quan niệm sống khác nhau…đó là những nỗ lực rất lớn đổi mới quan
niệm hiện thực của văn học sau 1975. Đúng như quan niệm của Hồ Anh Thái:
"Nói hiện thực là những gì ta thấy, ta nghe, ta trải nghiệm là chưa đủ. Hiện thực
còn là cái ta cảm". Hiện thực vừa là đời thực, vừa là hiện thực tâm lý, thậm chí
hiện thực tâm linh. Tuy nhiên, dẫu là hình thức nào, hiện thực vẫn mang hơi thở
đời sống đương đại, vẫn tái hiện số phận cá nhân con người. Điều mà độc giả
mong muốn, quan tâm là hiện thực cuộc sống sau 1975 đang diễn ra như thế nào.


×