Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Giao nhận hàng hóa quốc tế bằng đường biển tại công ty giao nhận kho vận ngoại thương VIETRANS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (700.44 KB, 96 trang )

Lời mở đầu
Để xây dựng đất nước giàu mạnh và phát triển trong bối cảnh tồn cầu
hố, khu vực hố, hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta không thể xem nhẹ hoạt
động ngoại thương vì nó đảm bảo sự giao lưu hàng hố, thơng thương với các
nước bè bạn năm châu, giúp chúng ta khai thác có hiệu quả tiềm năng và thế
mạnh của cả nguồn lực bên trong và bên ngồi trên cơ sở phân cơng lao động
và chun mơn hố quốc tế.
Nhưng nhắc đến hoạt động xuất nhập khẩu hàng hố chúng ta khơng thể
khơng nói đến dịch vụ giao nhận vận tải hàng hoá quốc tế vì đây là hai hoạt
động khơng tách rời nhau, chúng có tác động qua lại thống nhất với nhau. Qui
mơ của hoạt động xuất nhập khẩu tăng lên nhanh chóng trong những năm gần
đây là nguyên nhân trực tiếp khiến cho giao nhận vận tải nói chung và giao
nhận vận tải biển nói riêng phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và bề sâu.
Bên cạnh đó, với hơn 3000 km bờ biển cùng rất nhiều cảng lớn nhỏ rải khắp
chiều dài đất nước, ngành giao nhận vận tải biển Việt Nam thực sự đã có
những bước tiến rất đáng kể, chứng minh được tính ưu việt của nó so với các
phương thức giao nhận vận tải khác. Khối lượng và giá trị giao nhận qua các
cảng biển luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị giao nhận hàng hóa quốc
tế của Việt Nam. Điều này có ý nghĩa rất lớn, nó khơng chỉ nối liền sản xuất
với tiêu thụ, giúp đưa hàng hoá Việt Nam đến với bạn bè quốc tế mà cịn góp
phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá nước ta trên thị trường thế
giới.
Tuy nhiên, hiện nay khi mà chúng ta chưa có một hệ thống văn bản pháp
luật đồng bộ, chặt chẽ quản lý hoạt động này, lại trong bối cảnh “Nhà nhà
làm giao nhận, người người làm giao nhận” thì hoạt động giao nhận vận tải
trở nên hết sức lộn xộn, khó quản lý và ngày càng bộc lộ nhiều tiêu cực.
Trước tình hình đó, Cơng ty giao nhận kho vận ngoại thương - Vietrans
vốn là doanh nghiệp nhà nước đi đầu trong lĩnh vực giao nhận ở Việt Nam
cũng không tránh khỏi những trở ngại. Trải qua hơn 30 năm hoạt động,
Vietrans đã từng bước hoàn thiện và củng cố hoạt động kinh doanh của mình.
Tuy vậy, để tồn tại và phát triển lâu dài, cơng ty khơng cịn cách nào khác là


phải nhìn
1


nhận lại tình hình, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp thực tế để thúc đẩy
hiệu quả hoạt động hơn nữa.
Trong thời gian thực tập và tìm hiểu tại VIETRANS, với kiến thức của
một sinh viên khoa Kinh Tế Ngoại Thương trường Đại học Ngoại Thương,
cùng với mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào sự phát triển của công ty,
em đã chọn đề tài: “Giao nhận hàng hóa quốc tế bằng đường biển tại Cơng
ty giao nhận kho vận ngoại thương - VIETRANS”.
Khoá luận được chia làm 3 phần:
Chương I: Lý luận chung về dịch vụ giao nhận vận tải hàng hoá bằng đường biển
Chương II: Thực trạng giao nhận hàng hóa quốc tế bằng đường biển tại công ty giao
nhận kho vận ngoại thương - VIETRANS
Chương III: Biện pháp phát triển dịch vụ giao nhận vận tải biển tại VIETRANS

Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với thầy giáo hướng dẫn TS. Vũ Sĩ
Tuấn và các anh chị, cô chú công tác tại VIETRANS đã tận tình chỉ bảo, giúp
đỡ em hồn thành khoá luận tốt nghiệp này.
Tuy nhiên, do sự hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn cũng như sự
giới hạn về thời gian, bài viết của em chắc chắn khơng tránh khỏi những thiếu
sót cả về nội dung lẫn hình thức. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý
q báu của các thầy cơ và các bạn để giúp em trong q trình nghiên cứu và
cơng tác sau này.
Em xin chân thành cảm ơn!


Chương I
Lý luận chung về dịch vụ giao nhận vận tải

hàng hoá bằng đường biển
I. Dịch vụ giao nhận và người giao nhận

1. Dịch vụ giao nhận
1.1. Khái niệm
Giao nhận vận tải là những hoạt động nằm trong khâu lưu thông phân
phối, một khâu quan trọng nối liền sản xuất với tiêu thụ, hai khâu chủ yếu của
chu trình tái sản xuất xã hội. Giao nhận vận tải thực hiện chức năng đưa sản
phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ, hồn thành mặt thứ hai của lưu thơng
phân phối là phân phối vật chất, khi mặt thứ nhất là thủ tục thương mại đã hình
thành.
Giao nhận gắn liền với vận tải, nhưng nó khơng chỉ đơn thuần là vận tải.
Giao nhận mang trong nó một ý nghĩa rộng hơn, đó là tổ chức vận tải, lo liệu
cho hàng hoá được vận chuyển, rồi bốc xếp, lưu kho, chuyển tải, đóng gói, thủ
tục, chứng từ…Với nội hàm rộng như vậy, nên có rất nhiều định nghĩa về giao
nhận.
Theo qui tắc mẫu của Liên đoàn các hiệp hội giao nhận quốc tế (FIATA),
dịch vụ giao nhận được định nghĩa như là “bất kỳ loại dịch vụ nào liên quan
đến vận chuyển, gom hàng, lưu kho, bốc xếp, đóng gói hay phân phối hàng hoá
cũng như các dịch vụ tư vấn hay có liên quan đến các dịch vụ trên, kể cả các
vấn đề hải quan, tài chính, mua bảo hiểm, thanh toán, thu thập chứng từ liên
quan đến hàng hoá”.


Theo luật Thương Mại Việt Nam thì “dịch vụ giao nhận hàng hóa là hành
vi thương mại, theo đó người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa nhận hàng từ
người gửi, tổ chức vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm các thủ tục, giấy tờ và các
dịch vụ khác có liên quan để giao hàng cho người nhận theo sự uỷ thác của chủ
hàng, của người vận tải hoặc của người giao nhận khác”.
Như vậy về cơ bản, giao nhận hàng hóa là tập hợp những cơng việc có liên

quan đến quá trình vận tải nhằm thực hiện việc di chuyển hàng hóa từ nơi gửi
hàng (người gửi hàng) đến nơi nhận hàng (người nhận hàng).
1.2. Đặc điểm của dịch vụ giao nhận vận tải
Do cũng là một loại hình dịch vụ nên dịch vụ giao nhận vận tải cũng mang
những đặc điểm chung của dịch vụ, đó là nó là hàng hóa vơ hình nên khơng có
tiêu chuẩn đánh giá chất lượng đồng nhất, không thể cất giữ trong kho, sản
xuất và tiêu dùng diễn ra đồng thời, chất lượng của dịch vụ phụ thuộc vào cảm
nhận của người được phục vụ.
Nhưng do đây là một hoạt động đặc thù nên dịch vụ này cũng có những
đặc điểm riêng:
 Dịch vụ giao nhận vận tải không tạo ra sản phẩm vật chất, nó chỉ làm
cho đối tượng thay đổi vị trí về mặt khơng gian chứ khơng tác động về
mặt kỹ thuật làm thay đổi các đối tượng đó. Nhưng giao nhận vận tải lại
có tác động tích cực đến sự đến sự phát triển của sản xuất và nâng cao
đời sống nhân dân.
 Mang tính thụ động: Đó là do dịch vụ này phụ thuộc rất nhiều vào nhu
cầu của khách hàng, các qui định của người vận chuyển, các ràng buộc
về luật pháp, thể chế của chính phủ (nước xuất khẩu, nước nhập khẩu,
nước thứ ba)…
 Mang tính thời vụ: Dịch vụ giao nhận là dịch vụ phục vụ cho hoạt động
xuất nhập khẩu nên nó phụ thuộc rất lớn vào lượng hàng hóa xuất nhập


khẩu. Mà thường hoạt động xuất nhập khẩu mang tính chất thời vụ nên
hoạt động giao nhận cũng chịu ảnh hưởng của tính thời vụ.
 Ngồi những cơng việc như làm thủ tục, môi giới, lưu cước, người làm
dịch vụ giao nhận còn tiến hành các dịch vụ khác như gom hàng, chia
hàng, bốc xếp nên để hồn thành cơng việc tốt hay khơng cịn phụ thuộc
nhiều vào cơ sở vật chất kỹ thuật và kinh nghiệm của người giao nhận.
1.3. Yêu cầu của dịch vụ giao nhận vận tải

Cũng như bất kỳ một loại dịch vụ nào, dịch vụ giao nhận vận tải hàng hóa
tuy khơng có những chỉ tiêu định tính để đánh giá chất lượng nhưng nó cũng
có những u cầu địi hỏi riêng mà người giao nhận phải đáp ứng mới thỏa
mãn được nhu cầu của khách hàng. Một số yêu cầu của dịch vụ này bao gồm:
Giao nhận hàng hóa phải nhanh gọn. Nhanh gọn thể hiện ở thời gian hàng
đi từ nơi gửi đến nơi nhận, thời gian bốc xếp, kiểm đếm giao nhận. Giảm thời
gian giao nhận góp phần đưa ngay hàng hóa vào đáp ứng nhu cầu của khách
hàng, muốn vậy người làm giao nhận phải nắm chắc quy trình kỹ thuật, chủng
loại hàng hóa, lịch tàu và bố trí hợp lý phương tiện vận chuyển.
Giao nhận chính xác an tồn. Đây là yêu cầu quan trọng để đảm bảo
quyền lợi của chủ hàng và người vận chuyển. Chính xác là yếu tố chủ yếu
quyết định chất lượng và mức độ hoàn thành cơng việc bao gồm chính xác về
số lượng, chất lượng, hiện trạng thực tế, chính xác về chủ hàng, nhãn hiệu.
Giao nhận chính xác an tồn sẽ hạn chế đến mức thấp nhất sự thiếu hụt, nhầm
lẫn, tổn thất về hàng hóa.
Bảo đảm chi phí thấp nhất. Giảm chi phí giao nhận là phương tiện cạnh
tranh hiệu quả giữa các đơn vị giao nhận. Muốn vậy phải đầu tư thích đáng cơ
sở vật chất, xây dựng và hồn chỉnh các định mức, các tiêu chuẩn hao phí, đào
tạo đội ngũ cán bộ nghiệp vụ.


2. Người giao nhận
2.1. Khái niệm
Chưa có một định nghĩa thống nhất nào về người giao nhận được quốc tế
chấp nhận. Người ta thường hiểu người kinh doanh dịch vụ giao nhận hay các
doanh nghiệp giao nhận là người giao nhận (Forwarder, Freight Forwarder,
Forwarding Agent). Theo FIATA, “người giao nhận là người lo toan để hàng
hóa được chuyên chở theo hợp đồng ủy thác và hành động vì lợi ích của người
ủy thác. Người giao nhận cũng đảm nhận thực hiện mọi công việc liên quan
đến hợp đồng giao nhận như bảo quản, lưu kho trung chuyển, làm thủ tục hải

quan, kiểm hố”.
Người giao nhận có thể là chủ hàng (khi chủ hàng tự đứng ra đảm nhận
công việc giao nhận hàng hóa của mình), chủ tàu (khi chủ tàu thay mặt chủ
hàng thực hiện dịch vụ giao nhận), công ty xếp dỡ hay kho hàng, người giao
nhận chuyên nghiệp hay bất kỳ người nào khác có đăng ký kinh doanh dịch vụ
giao nhận hàng hóa. Theo luật Thương mại Việt Nam thì người làm dịch vụ
giao nhận hàng hóa là thương nhân có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
dịch vụ giao nhận hàng hóa.
Từ các định nghĩa trên ta có thể rút ra nhận xét:
 Người giao nhận hoạt động theo hợp đồng ủy thác ký với chủ hàng, bảo
vệ lợi ích của chủ hàng.
 Người giao nhận lo liệu việc vận tải nhưng chưa hẳn là người vận tải.
Anh ta có thể sử dụng, thuê mướn người vận tải. Anh ta cũng có thể có
phương tiện vận tải, có thể tham gia vận tải, nhưng đối với chủ hàng ủy
thác, anh ta là người giao nhận, ký hợp đồng ủy thác giao nhận, không
phải là người vận tải.
 Cùng với việc tổ chức vận tải, người giao nhận còn làm nhiều việc khác
trong phạm vi ủy thác của chủ hàng để đưa hàng từ nơi này đến nơi
khác theo những điều khoản đã cam kết.


Dù ở các nước khác nhau, tên gọi của người giao nhận có khác nhau,
nhưng tất cả đều cùng mang một tên chung trong giao dịch quốc tế là “ người
giao nhận hàng hóa quốc tế” (international freight forwarder), và cùng làm một
dịch vụ tương tự nhau, đó là dịch vụ giao nhận.

2.2. Phạm vi các dịch vụ của người giao nhận
Cho dù người giao nhận thực hiện rất nhiều dịch vụ khác nhau liên quan
đến hàng hóa nhưng có thể tổng hợp thành các nhóm như sau:


Phạm vi dịch vụ của người

Thay mặt ngư ời gửi
Thay
hàng
mặt ngư ời
Dịch
nhậvụ
n hàn g hóa đặc
Dịch vụ khác

2.2.1. Dịch vụ thay mặt người gửi hàng (người xuất khẩu)
Theo chỉ dẫn của người gửi hàng, người giao nhận sẽ làm các công việc
sau đây:
- Chọn tuyến đường, phương thức vận tải và người chuyên chở thích hợp
sao cho hàng được di chuyển nhanh chóng, an tồn, chính xác, tiết kiệm.
- Lưu cước với người chuyên chở đã chọn.
- Nhận hàng, thiết lập và cung cấp những chứng từ cần thiết như giấy
chứng nhận nhận hàng của người giao nhận.
- Nghiên cứu những điều khoản trong tín dụng thư
- Đóng gói hàng hóa (trừ khi việc đóng gói hàng hóa thuộc trách nhiệm
của người gửi hàng trước khi giao hàng cho người giao nhận) có tính đến tuyến


đường, phương thức vận tải, bản chất của hàng hóa, và những qui chế áp dụng
nếu có, ở nước xuất khẩu, nước quá cảnh và nước nhập khẩu.
- Lo liệu việc lưu kho, cân đo, mua bảo hiểm cho hàng hóa khi khách
hàng yêu cầu.
- Vận tải hàng hóa đến cảng, thực hiện việc khai báo hải quan, các thủ tục
chứng từ liên quan và giao hàng cho người chuyên chở.

- Thực hiện việc giao dịch ngoại hối, nếu có.
- Thanh tốn phí và những chi phí khác bao gồm cả tiền cước.
- Nhận vận đơn đã ký của người chuyên chở giao cho người gửi hàng.
- Thu xếp việc chuyển tải trên đường nếu cần thiết.
- Giám sát việc vận tải hàng hóa trên đường gửi tới người nhận hàng
thông qua những mối liên hệ với người chuyên chở và đại lý của người giao
nhận ở nước ngoài.
- Ghi nhận những tổn thất của hàng hóa, nếu có.
- Giúp đỡ người gửi hàng tiến hành khiếu nại với người chuyên chở về
tổn thất hàng hóa, nếu có.
2.2.2. Dịch vụ thay mặt người nhận hàng (người nhập khẩu)
Theo những chỉ dẫn của khách hàng, người giao nhận sẽ:
- Thay mặt người nhận hàng giám sát việc vận tải hàng hóa khi trách
nhiệm vận tải hàng hóa thuộc về người nhận hàng.
- Nhận và kiểm tra tất cả những chứng từ liên quan đến việc vận chuyển
hàng hóa, quan trọng nhất là vận đơn.
- Nhận hàng của người chuyên chở và nếu cần thì thanh tốn cước.
- Thu xếp việc khai báo hải quan và trả lệ phí, thuế và những phí khác
cho hải quan và những cơ quan liên quan.
- Thu xếp việc lưu kho quá cảnh nếu cần.
- Giao hàng đã làm thủ tục hải quan cho người nhận hàng.
- Giúp đỡ người nhận hàng tiến hành khiếu nại đối với người chuyên chở
về tổn thất hàng hóa nếu có.


- Giúp người nhận hàng trong việc lưu kho và phân phối hàng hóa nếu
hai bên có hợp đồng.
2.2.3. Dịch vụ giao nhận hàng hóa đặc biệt
Giao nhận hàng hóa đặc biệt khác giao nhận hàng hóa thơng thường ở chỗ
cơng việc này địi hỏi người giao nhận phải có thêm các thiết bị chuyên dùng,

đồng thời cũng yêu cầu người giao nhận phải có trình độ chun mơn nghiệp
vụ vững chắc. Dó là do hàng hóa đặc biệt khơng đồng nhất mà có thể là hàng
bách hóa bao gồm nhiều loại thành phẩm, bán thành phẩm, hay hàng sơ chế
hoặc những hàng hóa khác giao lưu trong bn bán quốc tế.
Một số dịch vụ giao nhận hàng hóa đặc biệt mà người giao nhận thường
gặp hiện nay:
Giao nhận hàng cơng trình
Hàng cơng trình chủ yếu là máy móc nặng, thiết bị để xây dựng những
cơng trình lớn như nhà máy hoá chất, nhà máy thuỷ điện, sân bay, cơ sở lọc
dầu. Giao nhận hàng loại này là phải từ nơi sản xuất đến tận cơng trường xây
dựng trong đó việc di chuyển cần phải có kế hoạch cẩn thận để đảm bảo giao
hàng đúng thời hạn. Đây là một lĩnh vực chun mơn của người giao nhận vì
nó cần những thiết bị đặc biệt như cần cẩu loại nặng, xe vận tải ngoại cỡ, tàu
chở hàng loại đặc biệt v.v…
Giao nhận quần áo treo trên mắc
Quần áo may mặc được chuyên chở bằng những chiếc mắc áo treo giá
trong những container đặc biệt gọi là container treo (hanging container). Đây
cũng chỉ là những chiếc container 20’, 40’ bình thường nhưng được lắp đặt
thêm những thanh bar ngang hoặc dọc hay những sợi dây có móc để móc mắc
treo vào. Loại container này có những yêu cầu về vệ sinh rất nghiêm ngặt. ở
nơi đến, quần áo được chuyển trực tiếp từ container vào cửa hàng để bầy bán.


Cách này loại bỏ được việc phải chế biến lại quần áo nếu đóng nhồi trong
container, đồng thời tránh được ẩm ướt, bụi bậm.
Giao nhận hàng triển lãm
Người giao nhận thường được người tổ chức triển lãm hay các đơn vị
tham gia triển lãm giao cho việc chuyên chở hàng đến nơi triển lãm ở nước
ngoài. Đây thường là hàng tạm nhập tái xuất hoặc tạm xuất tái nhập nên cũng
có những thủ tục riêng trong giao nhận khơng giống hàng hóa xuất nhập khẩu

thơng thường địi hỏi người giao nhận phải có kinh nghiệm.
2.2.4. Các dịch vụ khác
Ngồi những dịch vụ nêu trên, tuỳ thuộc vào yêu cầu của khách hàng,
người giao nhận có thể làm những dịch vụ khác nảy sinh trong quá trình
chuyên chở và cả những dịch vụ đặc biệt như gom hàng, dịch vụ liên quan đến
hàng cơng trình, cơng trình chìa khóa trao tay v.v…
Người giao nhận cũng có thể thơng báo cho khách hàng của mình về nhu
cầu tiêu dùng, thị trường mới, tình hình cạnh tranh, chiến lược xuất khẩu,
những điều khoản cần đưa vào hợp đồng mua bán ngoại thương, tóm lại là tất
cả những vấn đề liên quan đến công việc kinh doanh của khách hàng, cho dù
khách hàng có yêu cầu hay không.
2.3. Địa vị pháp lý của người giao nhận
Do chưa có luật lệ quốc tế quy định về lĩnh vực này nên địa vị pháp lý của
người giao nhận ở từng nước có khác nhau, tùy theo luật pháp ở nước đó.
ở những nước có luật tập tục (common law) - luật không thành văn, thông
dụng trong các nước thuộc khối liên hiệp Anh, hình thành trên cơ sở tập quán
phổ biến trong quan hệ dân sự từ nhiều thế kỷ - thì địa vị pháp lý của người
giao nhận dựa trên khái niệm về đại lý. Người giao nhận lấy danh nghĩa của
người ủy thác (người gửi hàng hay người nhận hàng) để giao dịch cho công
việc của người ủy thác.


Hoạt động của người giao nhận khi đó phụ thuộc vào những quy tắc
truyền thống về đại lý, như việc phải mẫn cán khi thực hiện nhiệm vụ của
mình, phải trung thực với người ủy thác, tuân theo những chỉ dẫn hợp lý của
người ủy thác, mặt khác được hưởng những quyền bảo vệ và giới hạn trách
nhiệm phù hợp với vai trò của một đại lý.
Trong trường hợp người giao nhận đảm nhận vai trò của người ủy thác
(hành động cho lợi ích của mình), tự mình ký kết hợp đồng với người chuyên
chở và các đại lý, thì người giao nhận sẽ không được hưởng những quyền bảo

vệ và giới hạn trách nhiệm nói trên, anh ta phải chịu trách nhiệm cho cả q
trình giao nhận hàng hóa kể cả khi hàng nằm trong tay những người chuyên
chở và đại lý mà anh ta sử dụng.
ở những nước có luật dân sự (civil law) - luật quy định quyền hạn và việc
bồi thường của mỗi cá nhân - thì địa vị pháp lý quyền lợi và nghĩa vụ của
người giao nhận ở các nước khác nhau có khác nhau. thông thường những
người giao nhận phải lấy danh nghĩa của mình giao dịch cho cơng việc của
người ủy thác, họ vừa là người ủy thác vừa là đại lý. Đối với người ủy thác
(người nhận hàng hay người gửi hàng) họ được coi là đại lý còn đối với người
chuyên chở họ lại là người ủy thác. Tuy nhiên thể chế mỗi nước sẽ có những
điểm khác biệt.
Liên đồn các hiệp hội giao nhận quốc tế (FIATA) đã soạn thảo Điều kiện
kinh doanh tiêu chuẩn để các nước tham khảo xây dựng các điều kiện cho
ngành giao nhận của nước mình, giải thích rõ ràng các nghĩa vụ, quyền lợi và
trách nhiệm của người giao nhận.
Điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn quy định người giao nhận phải:
- Tiến hành chăm sóc chu đào hàng hóa được ủy thác.
- Điều hành và lo liệu vận tải hàng hóa được ủy thác theo chỉ dẫn của
khách hàng về những vấn đề có liên quan đến hàng hóa đó.


- Người giao nhận không nhận đảm bảo hàng đến vào một ngày nhất
định, có quyền cầm giữ hàng khi khách hàng của mình khơng thanh tốn các
khoản phí.
- Chỉ chịu trách nhiệm về lỗi lầm của bản thân mình và người làm cơng
cho mình, khơng chịu trách nhiệm về sai sót của bên thứ ba, miễn là đã tỏ ra
cần mẫn thích đáng trong việc lựa chọn bên thứ ba đó.
Những điều kiện này thường được hình thành phù hợp với tập quán
thương mại hay thể chế pháp lý hiện hành ở từng nước.
ở những nước chưa có Điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn thì hợp đồng giữa

người giao nhận và khách hàng sẽ quy định quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm
mỗi bên.
2.4. Quyền và nghĩa vụ của người giao nhận
Dù ở địa vị đại lý hay người ủy thác người giao nhận cũng phải chăm sóc
chu đáo hàng hóa được ủy thác, thực hiện đúng những chỉ dẫn của khách hàng
về những vấn đề có liên quan đến vận tải hàng hóa.
Khi đóng vai trị là đại lý, người giao nhận chịu trách nhiệm do lỗi lầm sai
sót của bản thân mình và những người dưới quyền (cán bộ nhân viên trong
doanh nghiệp) như giao hàng trái chỉ dẫn, lập chứng từ nhầm lẫn, quên thông
báo khiến hàng phải lưu kho, lưu bãi tốn kém, làm sai thủ tục hải quan…
Người giao nhận không chịu trách nhiệm về tổn thất do lỗi lầm, sai sót của bên
thứ ba (người chuyên chở, người ký hợp đồng phụ, nhận lại dịch vụ…) miễn là
người giao nhận đã thể hiện sự cần mẫn thích đáng trong việc lựa chọn bên thứ
ba đó.
Khi đóng vai trị là người ủy thác thì ngồi những trách nhiệm của đại lý
nói trên, người giao nhận còn chịu trách nhiệm về cả những hành vi và sơ suất
của bên thứ ba mà người giao nhận sử dụng để thực hiện hợp đồng. Trong vai
trò này người giao nhận thường đưa ra “giá trọn gói” chứ không phải chỉ nhận
hoa hồng như đại lý. Người giao nhận thường đóng vai trị người ủy thác khi


thu gom hàng lẻ, khi kinh doanh vận tải đa phương thức, khi đảm nhận tự vận
chuyển hàng hóa hay nhận bảo quản hàng hóa trong kho của mình.
Trong việc hình thành những Điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn, người giao
nhận được hưởng một số miễn trừ trách nhiệm mà lẽ ra họ phải chịu. Trong
luật tập tục, người giao nhận khi hoạt động như người chuyên chở, họ phải
chịu trách nhiệm về tổn thất hàng hóa trừ trường hợp tổn thất do nội tì của hàng
hóa, do thiên tai hay những nhân tố khác được miễn trừ trách nhiệm theo luật
tập tục.
Theo Luật Thương mại Việt Nam 1997, điều 167 quy định người làm dịch

vụ giao nhận có những quyền và nghĩa vụ sau đây:
- Được hưởng tiền công và các khoản thu nhập hợp lý khác.
- Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình theo hợp đồng.
- Trong quá trình thực hiện hợp đồng, người giao nhận có thể thực hiện
khác với chỉ dẫn của khách hàng nếu có lý do chính đáng vì lợi ích của khách
hàng nhưng phải thông báo ngay cho khách hàng.
- Sau khi ký kết hợp đồng, nếu xảy ra trường hợp có thể dẫn đến việc
khơng thực hiện được tồn bộ hoặc một phần những chỉ dẫn của khách hàng thỉ
phải thông báo ngay cho khách hàng biết để xin chỉ dẫn thêm.
- Trong trường hợp hợp đồng khơng có sự thỏa thuận về thời hạn cụ thể
thực hiện nghĩa vụ với khách hàng thì phải thực hiện các nghĩa vụ của mình
trong thời hạn hợp lý.
Theo Luật Thương mại Việt Nam, người làm dịch vụ giao nhận không
phải chịu trách nhiệm về những mất mát, hư hỏng phát sinh trong những
trường hợp:
- Do lỗi của khách hàng hoặc của người được khách hàng uỷ quyền;
- Đã làm đúng theo những chỉ dẫn của khách hàng hoặc của người được
khách hàng uỷ quyền.
- Khách hàng đóng gói và ghi ký mã hiệu không phù hợp.


- Do khách hàng hoặc người được khách hàng uỷ quyền thực hiện việc
xếp dỡ hàng hóa.
- Do khuyết tật của hàng hóa.
- Do có đình cơng.
- Trường hợp bất khả kháng.
Người giao nhận không chịu trách nhiệm về việc mất khoản lợi đáng lẽ
khách hàng được hưởng về sự chậm trễ hoặc giao nhận hàng sai địa chỉ mà
không phải do lỗi của mình, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2.5. Mối quan hệ của người giao nhận với các bên liên quan

Như trên đã nói, người giao nhận là người nhận sự ủy thác của chủ hàng
để lo liệu việc vận chuyển hàng hóa từ nơi này đến nơi khác, mà trong quá
trình vận chuyển hàng hóa phải qua rất nhiều giai đoạn, chịu sự kiểm tra, kiểm
soát của rất nhiều cơ quan chức năng. Do đó, người giao nhận cũng phải tiến
hành các cơng việc có liên quan đến rất nhiều bên.

Sơ đồ mối quan hệ của người giao nhận với các bên liên quan
Chính phủ & các cơ quan chức năng:
Bộ Thương Mại
Hải quan
Cơ quan quản lý ngoại hối

Người gửi hàng HĐ ủy thác

Người giao

HĐ ủy thác
HĐ bảo hiểm

Người nhận

HĐDV

Ngân hàng

Người chuyên

Người bảo hiểm



Sơ đồ trên biểu thị mối quan hệ giữa người giao nhận với các bên liên
quan nhưng không phủ nhận mối quan hệ giữa các bên với nhau, nhưng do
phạm vi nghiên cứu giới hạn nên bài viết này không đề cập đến.
Trước hết là quan hệ với khách hàng, có thể là người gửi hàng hoặc người
nhận hàng thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau, mang nhiều quốc tịch
khác nhau. Mối quan hệ này được điều chỉnh bằng hợp đồng ủy thác giao nhận.
Quan hệ với Chính phủ và các cơ quan chức năng đại diện cho Chính phủ
như: Bộ Thương mại, Hải quan, Giám định, Cơ quan quản lý ngoại hối, kiểm
dịch, y tế,…
Quan hệ với người chuyên chở và đại lý của người chuyên chở: đó có thể
là chủ tàu, người mơi giới, hay bất kỳ người kinh doanh vận tải nào khác, mối
quan hệ này được điều chỉnh bằng hợp đồng cung cấp dịch vụ.
Ngoài ra, người giao nhận cịn có mối quan hệ nghiệp vụ với ngân hàng,
người bảo hiểm.
2.6. Vai trò của người giao nhận trong thương mại quốc tế
Từ trước đến nay các “Forwarders” vẫn được coi như những người trung
gian trong q trình vận chuyển và giao nhận hàng hố. Nhiều người cho rằng
sự tồn tại của nghề này sẽ không cịn được bao lâu nữa bởi lẽ cơng nghệ thơng
tin trên mạng toàn cầu đã phát triển mạnh mẽ và trở nên phổ biến, các chủ hàng
có thể giao dịch trực tiếp với các nhà vận chuyển lớn.
Tuy nhiên, nhận định như vậy cịn q sớm vì người giao nhận vẫn đóng
một vai trị rất quan trọng. Họ là người điều phối làm sao để tồn bộ q trình
vận chuyển hàng hóa được thơng suốt. Chúng ta biết thương mại điện tử là rất
tốt, nhưng người ta vẫn phải cần một ai đó thực giao nhận món hàng. Các hãng
tàu chỉ quan tâm làm sao cho các container của họ được đầy hàng. Các nhà
cung cấp hàng hóa đơi khi cũng có thể chấp nhận vận chuyển một container
đầy hàng của họ cho một khách hàng nào đó. Nhưng nếu một container lại


chứa hàng của rất nhiều người mua thì có lẽ chẳng ai khác ngồi người giao

nhận có thể đưa chúng đến tay người mua hàng. Có thể nói, người giao nhận
đóng một vai trị rất quan trọng trong thương mại quốc tế.
II. Nghiệp vụ giao nhận hàng hoá vận tải biển

3. Cơ sở pháp lý
Hoạt động giao nhận về thực chất là hoạt động tác nghiệp liên quan đến
nhiều vấn đề như vận tải, hợp đồng mua bán, thanh toán, thủ tục Hải quan cho
nên khi thực hiện nghiệp vụ giao nhận cần quan tâm đến những cơ sở pháp lý
trực tiếp và gián tiếp điều tiết hoạt động đó.
Cơ sở pháp lý cho việc giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu bao gồm các
quy phạm pháp luật quốc tế (các Công ước về vận đơn vận tải, Công ước về
hợp đồng mua bán hàng hóa…); các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà
nước Việt Nam về giao nhận vận tải; các loại hợp đồng và tín dụng thư…

Các công ước quốc tế bao gồm:


Công ước Viên 1980 về buôn bán quốc tế.



Các công ước về vận tải như Công ước quốc tế để thống nhất một số
quy tắc về vận đơn đường biển ký tại Brussels ngày 25/8/1924 cịn
được gọi là quy tắc Hague. Cơng ước này cho đến nay đã được sửa
đổi chỉnh lý hai lần, lần thứ nhất vào năm 1968 tại Visby nên được gọi
là Nghị định thư Visby 1968 và lần sửa đổi thứ hai vào năm 1979, gọi
là Nghị định thư SDR. Ngoài ra cịn có Cơng ước Liên hợp quốc về
chun chở hàng hóa bằng đường biển ký tại Hamburg ngày
31/3/1978, thường gọi tắt là Công ước Hamburg hay qui tắc Hamburg
1978.




Điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn Incoterm 2000 giải thích các điều
kiện thương mại của phòng thương mại quốc tế.




Quy tắc và thực hành thống nhất tín dụng chứng từ UCP 500 của
phòng thương mại quốc tế Paris.

Bên cạnh luật pháp quốc tế, Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều văn
bản quy phạm pháp luật liên quan đến vận tải, giao nhận hàng hóa xuất nhập
khẩu như Bộ luật Hàng hải Việt Nam 1990, Luật thương mại Việt Nam 1997,
Quyết định 2106/QĐ-GTVT qui định thể lệ bốc dỡ, giao nhận và bảo quản
hàng hóa tại cảng biển Việt Nam, Điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn Việt Nam
(do VIFAS ban hành trên cơ sở của FIATA), Luật kinh doanh bảo hiểm, rồi
Luật thuế v.v…
Các loại hợp đồng làm cơ sở cho hoạt động giao nhận bao gồm hợp đồng
mua bán ngoại thương, hợp đồng thuê tàu, hợp đồng ủy thác giao nhận, hợp
đồng bảo hiểm.
4. Các nguyên tắc giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu
Các văn bản hiện hành đã quy định những nguyên tắc chung trong giao
nhận hàng hóa.
- Việc bốc dỡ, giao nhận, bảo quản hàng hóa xuất nhập khẩu tại cảng là
do cảng tiến hành trên cơ sở hợp đồng giữa chủ hàng hoặc người được chủ
hàng ủy thác với cảng. Người được chủ hàng ủy thác thường là người giao
nhận.
- Đối với hàng không qua cảng (khơng lưu kho tại cảng) thì chủ hàng

hoặc người được ủy thác có thể giao nhận trực tiếp với tàu, chỉ thỏa thuận với
cảng về địa điểm bốc dỡ, thanh tốn chi phí bốc dỡ và các chi phí phát sinh
khác.
- Việc bốc dỡ hàng hóa trong phạm vi cảng do cảng tổ chức thực hiện.
Nếu chủ hàng đưa phương tiện và nhân công vào cảng để bốc dỡ thì chủ hàng
phải thỏa thuận với cảng và phải trả lệ phí liên quan, nếu có.
- Khi được ủy thác nhận hàng từ tàu, cảng nhận hàng bằng phương thức
nào thì phải giao hàng bằng phương thức ấy.


- Người giao nhận hàng phải xuất trình chứng từ hợp lệ xác nhận quyền
được nhận hàng và phải nhận liên tục trong một thời gian nhất định khối lượng
hàng hóa ghi trong chứng từ. Cảng khơng chịu trách nhiệm về hàng hóa khi đã
ra khỏi cảng.
- Việc giao nhận được tiến hành trên cơ sở ủy thác của chủ hàng tức là
chủ hàng ủy thác việc gì thì chỉ làm việc đó.
Ngồi ra cịn có những qui tắc cơ bản như việc giao nhận phải đảm bảo
định mức xếp dỡ của cảng, hàng thơng qua cảng phải có đầy đủ ký mã hiệu…
5. Trình tự của hoạt động giao nhận hàng hoá bằng đường biển
3.1. Giao nhận hàng xuất khẩu
3.1.1. Đối với hàng hóa khơng phải lưu kho bãi tại cảng
Hàng không phải lưu kho bãi tại cảng là hàng xuất khẩu do chủ hàng
ngoại thương vận chuyển từ các nơi trong nước để xuất khẩu, có thể bảo quản
tại các kho riêng của mình chứ khơng qua các kho của cảng. Từ kho riêng, các
chủ hàng hoặc người được chủ hàng ủy thác có thể giao trực tiếp cho tàu.

Các bước giao nhận bao gồm:

 Đưa hàng đến cảng
Chủ hàng hoặc người được chủ hàng ủy thác bằng phương tiện của mình

vận chuyển hàng đến cảng.

 Làm thủ tục xuất khẩu, giao hàng cho tàu
- Đăng ký với cảng về máng, địa điểm, cầu tầu xếp dỡ
- Làm thủ tục hải quan cho hàng xuất khẩu, xin giấy chứng nhận vệ sinh,
kiểm dịch nếu cần,…
- Tổ chức vận chuyển, xếp hàng lên tàu
- Liên hệ với thuyền trưởng để lấy sơ đồ xếp hàng


- Tiến hành xếp hàng lên tàu do công nhân của cảng làm, nhân viên giao
nhận phải theo dõi quá trình để giải quyết các vấn đề xảy ra, trong đó phải xếp
hàng lên tàu và ghi vào tally sheet (phiếu kiểm kiện)
- Tàu sẽ lập biên lai thuyền phó ghi số lượng, tình trạng hàng hóa xếp lên
tàu (là cơ sở để cấp vận đơn). Biên lai phải sạch.
- Cung cấp chi tiết để người chuyên chở cấp vận đơn và đưa vận đơn cho
người chuyên chở ký, đóng dấu.
- Lập bộ chứng từ thanh toán tiền hàng mà hợp đồng hoặc L/C qui định
- Thông báo cho người nhận hàng biết việc giao hàng
- Mua bảo hiểm cho hàng hóa (nếu trong hợp đồng qui định)
- Tính tốn thưởng phạt xếp dỡ hàng nhanh chậm (nếu có)
3.1.2. Đối với hàng hóa phải lưu kho bãi tại cảng
Hàng hóa không được giao trực tiếp cho tàu mà phải thông qua cảng.
Trình tự giao nhận bao gồm:

 Giao hàng cho cảng
- Chủ hàng hoặc người được chủ hàng ủy thác ký hợp đồng lưu kho bảo
quản hàng hóa với cảng
- Cung cấp cho cảng các giấy tờ:
 Chỉ dẫn xếp hàng (Shipping Instruction)

 Danh mục hàng hóa xuất khẩu (Cargo list)
 Thông báo xếp hàng của hãng tàu cấp (Shipping Order), nếu cần.
- Giao hàng vào kho, bãi của cảng

 Cảng giao hàng cho tàu
- Trước khi giao hàng cho tàu, chủ hàng phải:
 Làm các thủ tục cần thiết để xuất khẩu: hải quan, kiểm dịch, vệ sinh…
 Báo cho cảng ngày giờ dự kiến tàu đến (ETA), chấp nhận NOR
 Giao cho cảng sơ đồ xếp hàng


- Xếp và giao hàng cho tàu
 Trước khi xếp, tổ chức vận chuyển hàng từ kho ra cảng, lấy lịch xếp
hàng, ấn định máng xếp hàng, bố trí xe và công nhân, người áp tải
(nếu cần).
 Tiến hành bốc và giao hàng cho tàu. Việc xếp hàng lên tàu do công
nhân của cảng làm. Hàng sẽ được giao cho tàu dưới sự giám sát của
đại diện hải quan. Trong quá trình giao hàng, nhân viên kiểm đếm của
cảng phải ghi số lượng hàng giao vào Tally Report, cuối ngày phải ghi
vào Daily Report và khi xếp xong một tàu, ghi vào Final Report. Bên
phía tàu cũng có nhân viên kiểm đếm và ghi tình hình vào Tally Sheet.
Việc kiểm đếm cũng có thể th nhân viên của cơng ty kiểm kiện.
 Khi giao nhận xong một lô hoặc cả tàu, cảng phải lấy biên lai thuyền
phó (Mate’s Receipt) để trên cơ sở đó lập vận đơn.



Lập bộ chứng từ thanh toán

Căn cứ vào hợp đồng mua bán và L/C, người giao nhận phải lập hoặc lấy

các chứng từ cần thiết tập hợp thành bộ chứng từ, xuất trình cho ngân hàng để
được thanh toán tiền hàng. Nếu thanh toán bằng L/C thì bộ chứng từ thanh tốn
phải phù hợp với nhau và phù hợp về mặt hình thức với L/C và phải xuất trình
trong thời hạn hiệu lực của L/C.


Thông báo cho người mua về việc giao hàng và mua bảo hiểm cho
hàng hóa nếu cần.

- Thanh tốn các chi phí cần thiết cho cảng như chi phí bốc hàng, vận
chuyển, lưu kho, bảo quản…
- Tính tốn thưởng phạt xếp dỡ (nếu có)
3.1.3. Đối với hàng container
a/ Gửi hàng nguyên container (FCL - Full Container Load)


- Chủ hàng hoặc người được chủ hàng ủy thác sẽ phải giao dịch với hãng
tàu hoặc đại diện của hãng tàu để xin container và/hoặc đàm phán giá cả.
- Sau khi hai bên đã có thoả thuận, hãng tàu sẽ cấp lệnh giao vỏ container.
- Chủ hàng lấy container rỗng về địa điểm đóng hàng của mình
- Mời đại diện hải quan, kiểm nghiệm, kiểm dịch, giám định đến kiểm tra
và giám sát việc đóng hàng vào container. Sau khi đóng hàng xong, nhân viên
hải quan sẽ niêm phong, kẹp chì.
- Chủ hàng sẽ giao container cho tàu tại bãi container quy định trong thời
gian quy định (closing time) của từng chuyến tàu (thường là 8 tiếng trước khi
tàu xếp hàng) và lấy biên lai nhận container để chở của tàu.
- Sau khi container đã được xếp lên tàu thì mang biên lai này đến hãng
tàu để đổi lấy vận đơn.
b/ Gửi hàng lẻ (LCL - Less than Container Load)
- Chủ hàng giao dịch với hãng tàu hoặc đại lý của hãng tàu, cung cấp cho

họ những thông tin cần thiết về hàng xuất. Sau khi được chấp nhận, hai bên sẽ
thoả thuận với nhau về ngày, giờ, địa điểm giao nhận hàng.
- Chủ hàng hoặc người giao nhận mang hàng đến giao cho người chuyên
chở tại CFS hoặc ICD quy định.
- Các chủ hàng mời đại diện hải quan kiểm tra, kiểm hố, giám sát việc
đóng hàng vào container của người chuyên chở hoặc người gom hàng. Sau khi
hải quan niêm phong kẹp chì container, chủ hàng phải hoàn thành nốt thủ tục
để bốc container lên tàu và yêu cầu cấp vận đơn.
- Người chuyên chở cấp biên lai nhận hàng hoặc một vận đơn chủ
(Master Bill of Lading).
- Người chuyên chở xếp container lên tàu và vận chuyển đến nơi đến.
3.2. Giao nhận hàng nhập khẩu
3.2.1. Hàng không phải lưu kho bãi tại cảng


Chủ hàng hoặc người được chủ hàng ủy thác đứng ra giao nhận trực tiếp
với tàu.
- Để có thể tiến hành dỡ hàng, 24 giờ trước khi tàu đến vị trí hoa tiêu, chủ
hàng phải trao cho cảng một số chứng từ:
 Bản lược khai hàng hóa (2 bản)
 Sơ đồ xếp hàng (Cargo plan - 2 bản)
 Chi tiết hầm hàng (2 bản)
 Chi tiết về hàng quá khổ q tải (nếu có)
- Chủ hàng xuất trình vận đơn gốc cho đại diện của hãng tàu
- Trực tiếp nhận hàng từ tàu và lập các chứng từ cần thiết trong quá trình
nhận hàng như:
 Biên bản giám định hầm tàu (lập trước khi dỡ hàng) nhằm bảo lưu
trách nhiệm của tàu về những tổn thất xảy ra sau này.
 Biên bản dỡ hàng (COR) đối với tổn thất rõ rệt
 Thư dự kháng (LR - Letter of Reservation) đối với tổn thất khơng rõ

rệt
 Bản kết tốn nhận hàng với tàu (ROROC)
 Biên bản giám định
 Giấy chứng nhận hàng thiếu (do đại lý hàng hải lập)
- Khi dỡ hàng ra khỏi tàu, chủ hàng có thể đưa về kho riêng để mời hải
quan kiểm hố. Nếu hàng khơng có niêm phong kẹp chì phải có hải quan áp tải
về kho.
- Làm thủ tục hải quan cho hàng nhập
- Vận chuyển hàng về kho hoặc phân phối ngay hàng hoá
3.2.2. Đối với hàng phải lưu kho, lưu bãi tại cảng
Cũng như đối với hàng xuất khẩu, trình tự nhận hàng gồm các bước sau:


 Cảng nhận hàng từ tàu
- Cảng dỡ hàng và nhận hàng từ tàu
- Lập các giấy tờ cần thiết trong quá trình giao nhận cùng người giao
nhận
- Đưa hàng về kho bãi cảng

 Cảng giao hàng cho các chủ hàng
- Khi nhận được thông báo hàng đến, chủ hàng phải mang vận đơn gốc,
giấy giới thiệu của cơ quan đến hãng tàu để nhận lệnh giao hàng. Hãng tàu
hoặc đại lý giữ lại vận đơn gốc và trao 2 bản lệnh giao hàng cho người nhận
hàng.
- Chủ hàng nộp phí chứng từ, phí lưu kho, đặt cọc mượn vỏ hoặc tiền đặt
cọc vệ sinh (nếu có), phí xếp dỡ và lấy biên lai.
Chủ hàng mang lệnh giao hàng cùng hố đơn và phiếu đóng gói đến Văn
phịng quản lý tàu tại cảng để ký xác nhận vào lệnh giao hàng và tìm vị trí
hàng.
Chủ hàng mang bộ chứng từ này đến bộ phận kho vận để làm phiếu xuất

kho. Bộ phận này giữ một bản lệnh giao hàng và làm 2 phiếu xuất kho cho chủ
hàng.
- Làm thủ tục hải quan
+ Xuất trình và nộp các giấy tờ
 Tờ khai hàng nhập khẩu
 Giấy phép nhập khẩu
 Bản kê chi tiết
 Lệnh giao hàng của người vận tải
 Hợp đồng mua bán ngoại thương
 Một bản chính và một bản sao vận đơn
 Giấy chứng nhận xuất xứ, Giấy chứng nhận phẩm chất hoặc kiểm dịch
(nếu có)
 Hố đơn thương mại


+ Hải quan sẽ kiểm tra chứng từ và hàng hố, tính và thơng báo thuế
+ Chủ hàng ký nhận vào giấy thơng báo thuế (có thể nộp thuế trong
vịng 30 ngày) và xin chứng nhận hoàn thành thủ tục hải quan
- Sau khi hải quan xác nhận “hoàn thành thủ tục hải quan” chủ hàng có
thể mang hàng ra khỏi cảng và chở về kho riêng.
3.2.3. Hàng container

 Nhập nguyên container (FCL)
- Khi nhận được thông báo hàng đến do hãng tàu gửi thì chủ hàng mang
vận đơn gốc, giấy giới thiệu cuả cơ quan hoặc giấy uỷ quyền (nếu có) đến hãng
tàu để lấy lệnh giao hàng.
- Chủ hàng mang lệnh giao hàng đến hải quan làm thủ tục và đăng ký
kiểm hố (có thể đề nghị đưa cả container về kho riêng hoặc ICD để kiểm tra
hải quan nhưng phải trả vỏ đúng hạn nếu không sẽ bị phạt)
- Sau khi hoàn thành thủ tục hải quan, chủ hàng phải mang bộ chứng từ

nhận hàng cùng lệnh giao hàng đến Văn phòng quản lý tàu tại cảng để xác
nhận lệnh giao hàng
- Lấy phiếu xuất kho và nhận hàng

 Đối với hàng lẻ (LCL)
Chủ hàng mang vận đơn gốc hoặc vận đơn gom hàng đến hãng tàu hoặc
đại lý của người gom hàng để lấy lệnh giao hàng, sau đó nhận hàng tại CFR
quy định và làm các thủ tục như trên.

Chương II
Thực trạng giao nhận hàng hóa quốc tế


bằng đường biển tại công ty giao nhận
kho vận ngoại thương - Vietrans
III. Khái quát về công ty giao nhận kho vận ngoại thương - Vietrans

6. Quá trình hình thành và phát triển
Công ty giao nhận kho vận ngoại thương-Vietrans là một doanh nghiệp
Nhà nước thuộc Bộ Thương Mại, hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế tự
chủ tài chính, là tổ chức về giao nhận đầu tiên được thành lập ở Việt Nam theo
Quyết định số 554/BNT ngày 13/8/1970 của Bộ Ngoại Thương. Khi đó cơng ty
được lấy tên là Cục kho vận kiêm Tổng công ty giao nhận ngoại thương. Hiện
nay tên chính thức của cơng ty là “Công ty giao nhận kho vận ngoại thương”,
tên giao dịch là “Vietnam National Foreign Trade Forwarding and
Warehousing Corporation”, tên tắt là VIETRANS được thành lập theo Quyết
định số 337/TCCB ngày 31/3/1993 của Bộ Thương Mại.
Trước năm 1986, do chính sách Nhà nước nắm độc quyền ngoại thương
nên VIETRANS là đơn vị duy nhất hoạt động trong lĩnh vực giao nhận kho vận
ngoại thương, phục vụ tất cả các Tổng công ty xuất nhập khẩu trong cả nước.

Sau đại hội Đảng tồn quốc lần thứ VI tình hình kinh tế xã hội nước ta có
những biến chuyển mới. Việc trao đổi hàng hóa giữa Việt Nam với các nước
ngày càng phát triển. Các mối quan hệ quốc tế được mở rộng VIETRANS đã
vươn lên trở thành một công ty giao nhận quốc tế có quan hệ đại lý rộng khắp
đồng thời tiến hành cung cấp mọi dịch vụ giao nhận kho vận đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của khách hàng trong và ngoài nước. Nhưng thời kỳ từ 1989 đến
nay, nền kinh tế nước ta đã chuyển sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành
phần kinh tế tham gia vào nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực giao nhận vận
tải. Trong bối cảnh đó, VIETRANS mất thế độc quyền và phải bước vào cuộc
cạnh tranh gay gắt với các tổ chức kinh tế khác hoạt động trong lĩnh vực giao
nhận kho vận. Những biến đổi to lớn về cơ chế kinh tế, môi trường kinh tế xã
hội của thời kỳ chuyển đổi mơ hình kinh tế đã đem lại cho VIETRANS những


×