Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

SO SÁNH địa vị PHÁP lí & CHỨC NĂNG, VAI TRÒ của NGÂN HÀNG NHÀ nước cục dự TRỮ LIÊN BANG mỹ (FED)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.12 KB, 30 trang )

CỤC DỰ TRỮ LIÊN BANG MỸ
(FED)

Giảng viên : HỒ THỊ HỒNG MINH
Mơn: Lý thuyết tài chính - tiền tệ.

Thành viên : Trần Thị Quỳnh Ngân
Lê Ngọc Nam
TPHCM - Tháng 4/ 2012

K105041617
K105041613


SO SÁNH ĐỊA VỊ PHÁP LÍ & CHỨC NĂNG, VAI TRÒ
CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC - CỤC DỰ TRỮ LIÊN
BANG MỸ (FED)
I.

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VÀ CỤC DỰ TRỮ LIÊN
BANG MỸ (FED):

Cả hai đối tượng được đề cập trên đều được xem như cùng một hình thức
là “Ngân hàng Trung Ương” , có đặc điểm như sau:
- Nhiệm vụ của NHTW là vừa thực hiện chức năng độc quyền phát hành
giấy bạc ngân hàng vào lưu thông, vừa thực hiện quản lí nhà nước trên
lĩnh vực tiền tệ - tín dụng – ngân hàng.
- Không giao dịch với công chúng mà chỉ giao dịch với kho bạc và các
ngân hàng trung gian.
- Mục đích hoạt động: cung ứng tiền cho nền kinh tế, điều hịa lưu thơng
tiền tệ và quản lí hệ thống ngân hàng nhằm đảm bảo lưu thơng tiền tệ


ổn định, tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế, tăng việc làm và kiểm sốt
lạm phát.
- Có vị trí đặc thù trong bộ máy quản lí và điều hành nền kinh tế vĩ mơ.
- Định chế có sự kết hợp của hai tính chất: Doanh nghiệp và quản lí
hành chính.
Tuy nhiên có nhiều điểm khác biệt giữa địa vị pháp lí và vai trị, chức
năng của Ngân hàng nhà nước Việt Nam so với FED, cụ thể như sau:
Tiêu
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
chí
Lịch sử Sau Cách mạng tháng 8, chính
hình
quyền Việt Nam Dân chủ Cộng
thành
hịa đã từng bước xây dựng nền
tài chính tiền tệ độc lập. Ngày 6
tháng 5 năm 1951, chủ tịch Hồ
Chí Minh đã ký sắc lệnh số
15/SL thành lập Ngân hàng
Quốc gia Việt Nam với các
nhiệm vụ: phát hành giấy bạc,

FED
Cục dự trữ liên bang (tiếng Anh:
Federal Reserve System – Fed)
là ngân hàng trung ương của Hoa
Kỳ. Bắt đầu hoạt động năm 1915
theo "Đạo luật Dự trữ Liên bang"
của Quốc hội Hoa Kỳ thông qua
cuối năm 1913.



quản lý kho bạc, thực hiện chính
sách tín dụng để phát triển sản
xuất, phối hợp với mậu dịch để
quản lý tiền tệ và đấu tranh tiền
tệ với thực dân Pháp.

Địa vị
pháp lí

Ngân hàng TW trực thuộc chính
phủ.
Chính phủ có ảnh hưởng rất lớn
đối với NHTW thông qua việc
bổ nhiệm các thành viên, can
thiệp trực tiếp vào việc xây dựng
và thực thi chính sách tiền tệ.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
là cơ quan ngang bộ của Chính
phủ, là Ngân hàng trung ương
của nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam.

Ngân hàng TW độc lập với chính
phủ.
Chính phủ khơng có quyền can
thiệp vào hoạt động của NHTW,
đặc biệt trong việc xây dựng và
thực thi chính sách tiền tệ.


Ngân hàng Nhà nước là pháp
nhân, có vốn pháp định thuộc sở
hữu nhà nước, có trụ sở chính tại
Thủ đơ Hà Nội.

Hội đồng khơng nhận tài trợ của
Quốc hội và bảy thành viên của Hội
đồng theo cơ chế dân chủ. Thành
viên của Hội đồng là độc lập và
không phải chấp hành yêu cầu của
hệ thống lập pháp cũng như hành
pháp. Tuy nhiên, Hội đồng phải gửi
báo cáo tới Quốc hội theo định kỳ.

FED là ngân hàng của các ngân
hàng và là ngân hàng của Chính
phủ liên bang.
FED vừa là tư nhân, vừa là nhà
nước.


Cơ cấu tổ Các thành phần:
Các thành phần:
chức
Bộ máy làm
việc
1. Hội đồng Ngân hàng: 1. Hội đồng thống đốc: Cơ quan
Thống đốc Ngân hàng Nhà quản lí cao nhất của FED là Hội
nước Việt Nam là người đứng đồng Thống đốc gồm 7 thành

đầu của NHNNVN là một viên. Nhiệm kì mỗi thành viên là


thành viên của Chính phủ, 14 năm, trong

nhiệm kì Tổng

được Thủ tướng Chính phủ thống được chỉ định 2 thành viên
VN đề nghị trình Quốc hội để Thượng viện bổ nhiệm (các
VN chấp thuận bổ nhiệm. thành viên còn lại do các Tổng
Thống đốc Ngân hàng Nhà thống tiền nhiệm chỉ định).
nước là Thủ trưởng cơ quan Các thành viên của HĐTĐ không
ngang Bộ (tức là Bộ trưởng) được tái nhiệm nếu như đã hồn
trong Chính phủ. Giúp việc thành xong nhiệm kì của mình.
có các phó Thống đốc phụ
trách từng lĩnh vực cụ thể
(hiện tại là 5 người). Các phó
Thống đốc được thủ tướng
quyết định bổ nhiệm.
Thống đốc thời điểm năm Chủ tịch Hội đồng thống đốc của
2012 hiện nay là ông Nguyễn FED hiện nay là Ben Bernanke.
Văn Bình.
2. Ngân hàng Nhà nước có 24 2. Các ngân hàng dự trữ: FED bao
đơn vị trực thuộc, trong đó 19 gồm 12 ngân hàng và 25 chi
đơn vị giúp Thống đốc Ngân nhánh ở khắp nước Mỹ, mỗi ngân
hàng Nhà nước thực hiện hàng Dự trữ liên bang đại diện
chức năng quản lý nhà nước cho một quận, Ngân hàng dự trữ
và chức năng Ngân hàng New York có vai trò "nổi bật hơn
trung ương, 5 đơn vị là tổ một chút" so với các ngân hàng
chức sự nghiệp.


còn lại.
Ngân hàng dự trữ liên bang khu
vực không phải là công cụ của


chính quyền liên bang, chúng là
các ngân hàng độc lập, sở hữu tư
nhân và hoạt động theo luật pháp
ở địa phương
Các ngân hàng thành viên: Tất cả
các ngân hàng đều là thành viên
của FED, phải tuân thủ mức dự
trữ bắt buộc, được vay tiền từ
FED, được thanh toán bù trừ tại
FED, chịu sự giám sát về các hoạt
động bởi FED.
12 ngân hàng khu vực dự trữ liên
bang khu vực được thành lập bởi
Quốc hội là các chi nhánh của hệ
thống ngân hàng trung ương, có
tổ chức giống một tổ chức tư
nhân.
Các ngân hàng dự trữ liên bang
khu vực hoạt động khơng vì lợi
nhuận và việc sở hữu cổ phần của
nó là điều kiện để trở thành ngân
hàng thành viên.
3. Ủy ban thị trường tự do liên
bang(FOMC): Ủy ban thị trường

gồm 7 thành viên của Hội đồng
thống đốc và 5 đại diện từ các


Ngân hàng dự trữ liên bang khu
vực. Ln có một đại diện của
ngân hàng Fed tại Quận 2, thành
phố New York (hiện tại là
Timonthy Geithner) là thành viên
trong Ủy ban này. Thành viên từ
các ngân hàng khác được luân
phiên theo thời gian 2 hoặc 3
Cách thức
điều hành,
hoạt động

NHNN Chi nhánh tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung
ương: Là các đơn vị phụ
thuộc của NHNN, chịu sự
điều hành và lãnh đạo tập
trung, thống nhất của Thống
đốc NHNN.

năm.
Hội đồng tư vấn liên bang do 12
đại diện của các ngân hàng địa
phương thuộc cục dự trữ Liên
bang, có quyền bỏ phiếu như nhau
khi thơng qua các quyết định.

Chính Hội đồng tư vấn Liên bang
này là người đề xuất các kiến nghị
chinh sách tiền tệ cho Hội đồng
thống đốc.
Giấy bạc do Fed phát hành là
nguồn cung tiền tệ và chúng được
đưa vào lưu thông qua các Ngân
hàng dự trữ liên bang khu vực.
Cổ tức được trả dưới dạng khoản
bù vào lãi suất cho phần dự trữ
thiếu hụt được giữ tại Fed. Cục dự
trữ liên bang không trả lãi suất

cho các khoản dự trữ này.
Chức năng, Đảm trách việc phát hành tiền * Thực thi những chính sách tiền
nhiệm vụ
tệ, quản lý tiền tệ và tham tệ quốc gia để duy trì mức việc
mưu các chính sách liên làm, giá cả ổn định và lãi suất


quan đến tiền tệ cho Chính
phủ như: phát hành tiền tệ,
chính sách tỷ giá, chính sách
về lãi suất, quản lý dự trữ
ngoại tệ, soạn thảo các dự
thảo luật về kinh doanh ngân
hàng và các tổ chức tính
dụng, xem xét việc thành lập
các ngân hàng và tổ chức tín
dụng, quản lý các ngân hàng

thương mại nhà nước...

tương đối thấp.
* Giám sát và quản lý các thể chế
ngân hàng để đảm bảo đó là
những nơi an tồn để gửi tiền và
để bảo vệ quyền lợi tín dụng của
người dân.
* Cung cấp các dịch vụ tài chính
cho các tổ chức tín dụng, Chính
phủ Mỹ và Ngân hàng trung ương
các nước khác như thanh tốn bù
trừ, thanh tốn điện tử, phát hành
tiền...
* Ngồi ra FED còn tiến hành các
nghiên cứu về nền kinh tế Mỹ
cũng như kinh tế các bang, cung
cấp thông tin về nền kinh tế thông
qua các ấn phẩm, hội thảo giáo
dục và qua website.

Chiến lược mục tiêu của FED:
Thị trường
mở
Dự trữ bắt
buộc
Tỷ lệ chiết
khấu

Những công cụ


Công cụ thi
hành chủ
yếu và hiệu
quả

Cơ số tiền
dự trữ => khối
dự trữ
Tổng dự trữ
Lãi suất tiền
tệ liên bang

Mục tiêu hoạt động

- Dự trữ bắt buộc
- Lãi suất
- Tỷ giá hối đoái

Khối tiền tệ
Lãi suất dài
hạn
Tổng nợ phi
tài chính

Tỷ lệ lạm
phát
Tỷ lệ thất
nghiệp
Tỷ lệ GDP


Mục tiêu trung gian Mục tiêu cuối cùng

- Dự trữ bắt buộc
- Lãi suất
- Tỷ giá hối đoái


- Hạn mức tín dụng
- Hạn mức tín dụng
Ví dụ: năm 2008, để kiềm chế lạm
- Thỏa thuận mua lại
phát NHNN đã quy định hạn mức
- Giao dịch mua đứt
tín dụng của các Ngân hàng thương
- Thị trường mở
mại không vượt qua 30%.
Ví dụ: FED mua số lượng
Trái phiếu và Cổ phiếu Kho
bạc bí mật cho tài khoản
riêng của FED nhằm cung
cấp cho hệ thống Ngân
hàng đầy đủ tiền dự trữ.

II.

HÀNH ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT
NAM VÀ FED TRONG CUỘC KHỦNG HOẢNG KINH
TẾ NĂM 2007 – 2009


Khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ 2007-2009 là cuộc khủng hoảng trong
nhiều lĩnh vực tài chính (tín dụng, bảo hiểm, chứng khốn) diễn ra từ năm
2007 cho đến tận nay. Cuộc khủng hoảng này bắt nguồn từ cuộc khủng
hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp. Và bản thân nó lại là nguồn gốc trực tiếp của
cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu 2007-2010.

Diễn tiến của khủng hoảng


Tình hình phá sản 2007-2008:
Tháng 8 năm 2007, một số tổ chức tín dụng của Mỹ như New Century
Financial Corporation phải làm thủ tục xin phá sản. Một số khác thì rơi vào
tình trạng cổ phiếu của mình mất giá mạnh như Countrywide Financial
Corporation. Nhiều người gửi tiền ở các tổ chức tín dụng này đã lo sợ và đến
rút tiền, gây ra hiện tượng đột biến rút tiền gửi khiến cho các tổ chức đó
càng thêm khó khăn. Nguy cơ khan hiếm tín dụng hình thành. Cuộc khủng
hoảng tài chính thực thụ chính thức nổ ra.
Từ Mỹ, rối loạn này lan sang các nước khác. Ở Anh quốc, ngân hàng
Northern Rock bị chao đảo vì người gửi tiền xếp hàng địi rút tiền gửi của
mình ra.
Trước tình hình đó, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã tiến hành các biện pháp
nhằm tăng mức độ thanh khoản của thị trường tín dụng chẳng hạn như thực
hiện nghiệp vụ thị trường mở mua vào các loại công trái Mỹ, trái phiếu cơ
quan chính phủ Mỹ và trái phiếu cơ quan chính phủ Mỹ đảm bảo theo tín
dụng nhà ở. Tháng Chín 2007, Cục Dự trữ Liên bang còn tiến hành giảm lãi
suất cho vay qua đêm liên ngân hàng (Fed fund rates) từ 5,25% xuống
4,75%. Trong khi đó, Ngân hàng Trung ương Châu Âu đã bơm 205 tỷ Dollar
Mỹ vào thị trường tín dụng để nâng cao mức thanh khoản.
Tháng 12 năm 2007, cuộc khủng hoảng tiến sang nấc trầm trọng hơn khi
những báo cáo kinh tế cuối năm cho thấy sự điều chỉnh của thị trường bất

động sản diễn ra lâu hơn dự tính và quy mơ của khủng hoảng cũng rộng hơn


dự tính. Tình trạng đói tín dụng trở nên rõ ràng. Hệ thống dự trữ liên bang cố
gắng giảm mạnh lãi suất liên ngân hàng vào tháng 12/2007 và tháng 2 năm
2008 nhưng khơng có hiệu quả như mong đợi.
Tháng 3 năm 2008, Ngân hàng dự trữ liên bang New York cố cứu Bear
Sterns, nhưng không nổi. Công ty này chấp nhận để JP Morgan Chase mua
lại với giá 10 dollar một cổ phiếu, nghĩa là thấp hơn rất nhiều với giá 130,2
dollar một cổ phiếu lúc đắt giá nhất trước khi khủng hoảng nổ ra. Việc Ngân
hàng dự trữ liên bang New York cứu không nổi Bear Sterns và buộc lịng để
cơng ty này bị bán đi với giá quá rẻ đã khiến cho sự lo ngại về năng lực can
thiệp của chính phủ cứu viện các tổ chức tài chính gặp khó khăn. Sự sụp đổ
của Bear Stern đã đẩy cuộc khủng hoảng lên nấc trầm trọng hơn.

Tác động:
Đối với Hoa Kỳ:


Chỉ số bình qn cơng nghiệp Dow-Jones giảm liên tục từ cuối quý III năm
2007.
Cuộc khủng hoảng này là nguyên nhân chính làm cho kinh tế Hoa Kỳ rơi
vào suy thoái từ tháng 12 năm 2007. Đây sẽ là đợt suy thoái nghiêm trọng
nhất ở Hoa Kỳ kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Bình quân mỗi tháng
từ tháng 1 tới tháng 9 năm 2008, có 84 nghìn lượt người lao động Hoa Kỳ bị
mất việc làm.
Cuộc khủng hoảng còn làm cho dollar Mỹ lên giá. Do dollar Mỹ là
phương tiện thanh toán phổ biến nhất thế giới hiện nay, nên các nhà đầu tư
toàn cầu đã mua dollar để nâng cao khả năng thanh khoản của mình, đẩy
dollar Mỹ lên giá. Điều này làm cho xuất khẩu của Hoa Kỳ bị thiệt hại.


Đối với thế giới:

Giá dầu (USD/thùng) giảm mạnh từ giữa năm 2008 do lượng cầu giảm
khi kinh tế thế giới xấu đi.


Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu quan trọng của nhiều nước, do đó khi
kinh tế suy thối, xuất khẩu của nhiều nước bị thiệt hại, nhất là những nước
theo hướng xuất khẩu ở Đông Á. Một số nền kinh tế ở đây như Nhật Bản,
Đài Loan, Singapore và Hong Kong rơi vào suy thoái. Các nền kinh tế khác
đều tăng trưởng chậm lại.
Châu Âu vốn có quan hệ kinh tế mật thiết với Hoa Kỳ chịu tác động
nghiêm trọng cả về tài chính lẫn kinh tế. Nhiều tổ chức tài chính ở đây bị
phá sản đến mức trở thành khủng hoảng tài chính ở một số nước như
Iceland, Nga. Các nền kinh tế lớn nhất khu vực là Đức và Ý rơi vào suy
thoái, và Anh, Pháp, Tây Ban Nha cùng đều giảm tăng trưởng. Khu vực
đồng Euro chính thức rơi vào cuộc suy thoái kinh tế đầu tiên kể từ ngày
thành lập.
Các nền kinh tế Mỹ Latinh cũng có quan hệ mật thiết với kinh tế Hoa Kỳ,
nên cũng bị ảnh hưởng tiêu cực khi các dòng vốn ngắn hạn rút khỏi khu vực
và khi giá dầu giảm mạnh. Ecuador tiến đến bờ vực của một cuộc khủng
hoảng nợ.
Kinh tế các khu vực trên thế giới tăng chậm lại khiến lượng cầu về dầu
mỏ cho sản xuất và tiêu dùng giảm cũng như giá dầu mỏ giảm. Điều này lại
làm cho các nước xuất khẩu dầu mỏ bị thiệt hại. Đồng thời, do lo ngại về bất
ổn định xảy ra đã làm cho nạn đầu cơ lương thực nổ ra, góp phần dẫn tới giá
lương thực tăng cao trong thời gian cuối năm 2007 đầu năm 2008, tạo thành
một cuộc khủng hoảng giá lương thực toàn cầu. Nhiều thị trường chứng
khoán trên thế giới gặp phải đợt mất giá chứng khoán nghiêm trọng. Các nhà

đầu tư chuyển danh mục đầu tư của mình sang các đơn vị tiền tệ mạnh như
dollar Mỹ, yên Nhật, franc Thụy Sĩ đã khiến cho các đồng tiền này lên giá so


với nhiều đơn vị tiền tệ khác, gây khó khăn cho xuất khẩu của Mỹ, Nhật
Bản, Thụy Sĩ và gây rối loạn tiền tệ ở một số nước buộc họ phải xin trợ giúp
của Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Hàn Quốc rơi vào khủng hoảng tiền tệ khi won
liên tục mất giá từ đầu năm 2008.

Hành động của FED:

Mua repo MBS của Fed tăng vọt vào cuối năm 2007.


FED và cuộc khủng hoảng:
Giới chuyên gia đã buộc tội FED góp phần “đổ dầu vào lửa” khiến cuộc
khủng hoảng tài chính 2007-2009 bùng nổ. Nhiều nhà kinh tế, như ông John
Taylor cáo buộc chính sách lãi suất của FED đã dẫn đến tình trạng bong
bóng bất động sản tại Mỹ.
Theo họ, giá nhà đất ở Mỹ tăng vọt trong thập niên đầu thế kỷ 21 không
phải do cung - cầu mà do FED đẩy cầu lên khi giữ lãi suất cho vay ở mức rất
thấp, dẫn đến tình trạng người dân vay quá nhiều và mua nhà một cách
khinh suất.
Bong bóng bất động sản bùng nổ, thị trường nhà đất sụp đổ dẫn đến cuộc
khủng hoảng tài chính. “FED không phải là thủ phạm duy nhất của cuộc
khủng hoảng tài chính, nhưng đã châm dầu vào lửa khi giữ mức lãi suất 1%
vào năm 2003-2004 và chỉ tăng quá ít trong các năm 2004-2006” - nhà kinh
tế David Malpass cáo buộc.
Ngay khi khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp nổ ra, Fed bắt đầu can thiệp
bằng cách hạ lãi suất và tăng mua MBS. Đến khi tình hình phát triển thành

khủng hoảng tài chính từ tháng 8 năm 2007, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ
(Fed) đã tiếp tục tiến hành các biện pháp nới lỏng tiền tệ để tăng thanh
khoản cho các tổ chức tài chính. Cụ thể là lãi suất cho vay qua đêm liên
ngân hàng đã được giảm từ 5,25% qua 6 đợt xuống còn 2% chỉ trong vòng


chưa đầy 8 tháng (18/9/2007-30/4/2008). Lãi suất này sau đó còn tiếp tục
giảm và đến ngày 16/12/2008 chỉ còn 0,25%, mức lãi suất gần 0 hiếm thấy.
Fed còn thực hiện nghiệp vụ thị trường mở (mua lại các trái phiếu chính
phủ Hoa Kỳ mà các tổ chức tài chính nước này có) và hạ lãi suất tái chiết
khấu. Giữa tháng 12 năm 2008, Fed tuyên bố có kế hoạch thực hiện chính
sách nới lỏng tiền tệ mặt lượng.
Tháng 12 năm 2007, Chính phủ Hoa Kỳ đã lập ra và giao cho Fed chủ trì
chương trình Term Auction Facility để cấp các khoản vay ngắn hạn có kỳ
hạn từ 28 đến 84 ngày theo lãi suất cao nhất mà các tổ chức tài chính trả qua
đấu giá. Tính đến tháng 11 năm 2008, đã có 300 tỷ dollar được FED đem
cho vay theo chương trình này. FED cịn tiến hành cho vay thế chấp đối với
các tổ chức tài chính với số tiền tổng cộng tới 1,6 nghìn tỷ tính đến tháng 11
năm 2008.


FED: 3 giải pháp cơ bản chống lạm phát giai đoạn khủng hoảng 2007
-2009:
Để chống lạm phát, chống khủng hoảng kinh tế, ổn định và phát triển
nền kinh tế của Mỹ trong thời gian vừa qua, FED - Cục dự trữ quốc gia
Hoa Kỳ đã thực hiện 3 giải pháp cơ bản:
Thứ nhất, cắt giảm lãi suất
Đây được xem là giải pháp cơ bản nhất của FED trong việc chống lạm
phát và chống khủng hoảng kinh tế của Mỹ. Mục đích của giải pháp này là
nhàm bảo đảm cho các DN của Mỹ huy động được vốn với lãi suất thấp để

giảm chi phí, giảm giá thành trong điều kiện giá xăng dầu thế giới tăng
cao. Trong trường hợp giá đầu ra chưa thể tăng tương ứng với đầu vào đối
với các hàng hóa mà DN bán ra, thì việc cắt giảm lãi suất từ 5,6% xuống


còn 2% của FED là hết sức quan trọng giúp các DN của Mỹ tồn tại và hoạt
động kinh doanh có lãi. Bên cạnh đó, với lãi suất thấp, các ngân hàng cho
vay tiêu dùng lãi suất sẽ thấp, điều này giúp cho các con Nợ của ngân hàng
giảm bớt căng thẳng về vốn vay và thúc đẩy sức tiêu dùng của nền kinh tế.
Thứ hai, bơm tiền vào lưu thông trên hai kênh
Cho các ngân hàng thương mại vay với lãi suất thấp để ngân hàng cho
các DN vay lãi suất thấp nhằm tay tính thanh khoản đối với hệ thống ngân
hàng, đồng thời hòan thuế cho người dân nhằm kích cầu tiêu dùng đối với
nền kinh tế.
Hai kênh truyền dẫn của chính sách tiền tệ là Kênh lãi suất và Kênh giá
cả tài sản..
Thứ ba, không khống chế bất kỳ giá đầu ra của hàng hóa nào, kể cả
xăng dầu
FED có quan điểm rất rõ ràng khơng dùng giải pháp hành chính để can
thiệp vào giá cả thị trường, mà dùng các biện pháp kinh tế như chính sách
thuế, chính sách tín dụng lãi suất thấp và tăng tính cạnh tranh của nền kinh
tế.
Những giải pháp này của FED hồn tồn ngược với chính sách thắt chặt
tiền tệ của Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế nền kinh tế Mỹ nhờ có các
giải pháp của FED đến nay cơ bản đã vượt qua thời kỳ khủng hoảng, mặc
dù lãi suất thấp song đồng Đô-la Mỹ vẫn tăng giá so với các đồng tiền tệ
khác

Tình hình ở Việt Nam:



Về hoạt động ngân hàng và thị trường tiền tệ
Tuy cuộc khủng hoảng chưa có ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thống
ngân hàng, nhưng một số tác động gián tiếp là đáng kể. Trước hết, đó là diễn
biến của tỷ giá và lãi suất USD. Tỷ giá USD với đồng Việt Nam trên thị
trường có nhiều biến động do tâm lý của người dân
Về thị trường chứng khoán, luồng tiền đầu tư gián tiếp vào Việt Nam
suy giảm và đã có hiện tượng các nhà đầu tư nước ngồi rút vốn khỏi thị
trường. Mặc dù tình hình kinh tế vĩ mơ của Việt Nam trong những tháng gần
đây có những chuyển biến tích cực, nhưng thị trường chứng khốn Việt Nam
tiếp tục sụt giảm. VN-index giảm liên tục và lập đáy mới xuống dưới 350
điểm. Việc nhà đầu tư nước ngồi có biểu hiện rút khỏi thị trường chứng
khốn Việt Nam đã gây tâm lý hoang mang cho các nhà đầu tư trong nước.
Khủng hoảng Kinh tế còn gây ra nhiều ảnh hưởng nghiêm trọng khác
trong hàng loạt các lĩnh vực của đời sống kinh tế: Thương mại, đầu tư, tăng
trưởng kinh tế trong một thời gian dài.
Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam và những chính sách phục hồi nền
kinh tế
Trong những tháng đầu năm 2009, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
(NHNN) đã từng bước nới lỏng chính sách tiền tệ (CSTT) để thúc đẩy phát
triển sản xuất kinh doanh và chủ động hạn chế tác động của khủng hoảng tài
chính, ngăn chặn nguy cơ suy giảm kinh tế. Tuy nhiên, cùng với đà tăng
trưởng trở lại của kinh tế trong nước cũng như thế giới, càng về những tháng
cuối năm diễn biến thị trường tài chính - tiền tệ càng trở nên phức tạp, áp lực
lạm phát trở lại đối với nền kinh tế ngày càng rõ nét.


Với mục tiêu duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mơ, kiểm sốt lạm phát, tăng
trưởng kinh tế bền vững trong năm 2010, chủ động đối phó với diễn biến
phức tạp của thị trường tài chính và kinh tế thế giới, NHNN đã quyết định:

1. Điều chỉnh lãi suất cơ bản tăng từ 7%/năm lên 8%/năm (Quyết định
số 2665/QĐ-NHNN), tăng lãi suất tái cấp vốn tăng từ 7%/năm lên
8%/năm, lãi suất chiết khấu tăng từ 5%/năm lên 6%/năm (Quyết định
số 2664/QĐ-NHNN) áp dụng từ 01/12/2009.
Bên cạnh đó, với mục tiêu điều hành tỷ giá trong mối quan hệ với lãi
suất, chỉ số giá tiêu dùng, diễn biến của cán cân thanh tốn quốc tế
phù hợp với tín hiệu của thị trường, có sự điều tiết của Nhà nước,
NHNN cơng bố mức tỷ giá bình quân liên ngân hàng áp dụng cho
ngày 26/11/2009 là 17.961(tăng 5,16%) và áp dụng biên độ tỷ giá mới
cho giao dịch mua bán giao ngay giữa USD và VND là ± 3% từ ngày
26/11/2009.
2. NHNN cũng cam kết sẽ hỗ trợ mạnh mẽ trong việc bán ngoại tệ cho
các ngân hàng thương mại kèm nhiều biện pháp hỗ trợ khác nhằm
bình ổn thị trường ngoại hối. Các TCTD có trạng thái ngoại tệ từ âm
5% trở xuống được NHNN cam kết bán ngoại tệ hỗ trợ nhằm đảm bảo
hệ thống ngân hàng cung cấp đủ ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu, đặc biệt ưu tiên những mặt hàng nhập khẩu phục vụ sản
xuất..
Quyết định thay đổi các loại lãi suất cùng với tỷ giá đã đưa đến những
phản ứng tích cực của thị trường, cụ thể là: Ngay sau khi mức lãi suất
cơ bản mới có hiệu lực, các NHTM đồng loạt đều tăng lãi suất huy
động lên mức cao (10,5 % sau đó giảm xuống 10,499 %). Lãi suất cho
vay ở các kỳ hạn đều tăng trần lên mức 12%. Như vậy lãi suất huy
động và cho vay của các ngân hàng đã gần tiến gần tới lãi suất thực


của thị trường; Tín du ̣ng đố i với nền kinh tế tháng 12/2009 ước tăng
0,87% so với mức tăng 3,57% của tháng 11 và mức tăng 2,04% của
tháng 10. Ngoài ra, sự điều chỉnh tỷ giá lần này của NHNN đã lập tức
có hiệu quả, tác động ngay đến giá USD trên thị trường tự do. Ngay

trong ngày 25/11/2009, khi NHNN công bố thông tin về việc điều
chỉnh tỷ giá, giá USD trên thị trường tự do đã giảm từ mức 19.75019.800 buổi sáng xuống còn 19.500-19.700 vào buổi chiều. Sáng ngày
26/11, tỷ giá tự do tiếp tục giảm còn 19.300-19.500 VND/USD.
Trước những quyết định điều chỉnh của NHNN cũng như hiệu quả
từ những quyết định này mang lại, cộng đồng quốc tế đã dành cho
Việt Nam sự đánh giá cao cũng như những nhận định lạc quan về
-

tình hình kinh tế sắp tới.
Ơng Benedict Bingham - đại diện thường trú cao cấp của của IMF tại
Việt Nam phát biểu: “Tôi nghĩ rằng quyết định này của NHNN Việt
Nam cho thấy họ đã quyết tâm ngăn chặn các rủi ro kinh tế vĩ mô mà
họ đang phải đối mặt, và tơi cho rằng quyết định này mang tính tích

cực.”
- Báo cáo của Goldman Sachs (Mỹ) ngày 25/11/2009 cũng cho rằng
lần điều chỉnh này là cần thiết: “Lần can thiệp này của NHNN Việt
Nam là cần thiết để ổn định thị trường tiền tệ trong nước”, “động thái
tăng lãi suất cơ bản là cần thiết để kiểm soát các rủi ro do tăng trưởng
quá nóng và lạm phát cao gây ra. Lãi suất cơ bản được nâng lên sẽ cải
thiện sức hấp dẫn cho đồng tiền nội địa, qua đó ổn định tỷ giá VND/
USD và “việc thu hẹp biên độ giao dịch là nỗ lực của NHNN nhằm
làm chậm lại sự mất giá của VND so với đồng USD”.
- Báo cáo của Standard Chartered Bank (Anh) về kinh tế Việt Nam đặc
biệt đánh giá cao quyết định tăng lãi suất cơ bản của NHNN: “lãi suất


cơ bản tăng giúp đồng tiền nội địa hấp dẫn hơn và giúp giảm các quan
ngại về sự mất giá của VND. Các nhà đầu tư sẽ có xu hướng nắm giữ
VND hơn là USD do lãi suất VND tăng, qua đó, giảm sức ép lên cung

USD”.
- Phát biểu tại Hội nghị CG tháng 12 năm 2009, bà Victoria Kwakwa,
Giám đốc Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam khẳng định: " Những
ngày gần đây, Việt Nam đã công bố những biện pháp kinh tế vĩ mô
quan trọng mà tất cả đều đúng hướng xét về mặt bảo đảm ổn định
kinh tế vĩ mô, điều mà tất cả chúng ta đều cho là quan trọng để tiếp
tục có được tăng trưởng. Thành cơng này đã được các đối tác nói
riêng và cộng đồng tồn cầu nói chung ghi nhận".

III.

TẦM ẢNH HƯỞNG TO LỚN CỦA FED ĐỐI VỚI NỀN
KINH TẾ THẾ GIỚI:

Với vai trò là Ngân hàng trung ương của nền kinh tế mạnh nhất thế
giới, mỗi quyết định của FED đều gián tiếp ảnh hưởng lớn đến nền
kinh tế toàn cầu. Người ta hay nói vui rằng “một cái hắt hơi sổ mũi
của chủ tịch FED” cũng đủ làm chao đảo nền kinh tế thế giới, xét về
mặt nào đó cũng khơng phải là khơng có lý. Vậy FED đã tác động đến
-

nền kinh tế toàn cầu như thế nào?
Vài giờ sau cuộc tấn công khủng bố 11/9/2001, Cục Dự trữ Liên bang
Mỹ đã đưa ra lời tuyên bố: “Cục Dự trữ Liên bang sẽ vẫn mở cửa và
hoạt động. Cánh cửa phịng cho vay có chiết khấu ln sẵn sàng đáp
ứng mọi nhu cầu thanh khoản của người dân”.
Hai câu nói ngắn gọn và súc tích này ngay lập tức đã xoa dịu các thị

-


trường trên toàn cầu.
Thứ Hai Đen là tên mà giới tài chính đặt cho ngày thứ Hai, 19 tháng
10 năm 1987. Hơm đó, chỉ số bình quân công nghiệp Dow Jones đã


tụt tới 508 điểm xuống cịn 1739 (22,6%). Tình trạng tương tự xảy ra
đồng thời khắp thế giới. Vào cuối tháng 10, các thị trường chứng
khốn của Hồng Kơng đã tụt 45,8%, Úc 41,8%, Tây Ban Nha 31%,
Anh Quốc 26,4%, Hoa Kỳ 22,68% và Canada 22,5%. Với hệ thống
Tài chính đứng trên bờ vực của sự bế tắc, những viên chức FED thông
báo rằng Ngân hàng TW đảm bảo cung cấp khả năng thanh toán tiền
mặt cần thiết để giữ cho các thị trường tài chính hoạt động sơi nổi, và
cửa sổ chiết khấu của FED sẵn sàng cung cấp cho các công ty môi
giới nhằm giúp cho các công ty này hồn thành nghĩa vụ của nó trên
thị trường.
FED đã thực hiện vai trò như “người cho vay cuối cùng” để ngăn chặn
một sự đổ vỡ của hệ thống thanh tốn.
- Tạp chí Time của Mỹ vừa bình chọn ông Ben Bernanke,Chủ tịch Cục
Dự trữ Liên bang (FED) của nước này là nhân vật của năm 2009.
Time nhận định, dưới sự lãnh đạo của Bernanke, hình ảnh trầm mặc
vốn có của ngân hàng trung ương đã trở thành một sân khấu cho sự
ứng biến linh hoạt. Thậm chí, các nhà bình luận của tạp chí này cịn
khẳng định, Bernanke đã khơng chỉ định hình lại chính sách tiền tệ
của Mỹ, mà còn dẫn dầu những nỗ lực cứu kinh tế thế giới.
Để lí giải cho hiện tượng FED, có thể đưa ra một số nguyên nhân sau
đây:
Đầu tiên ta phải hiểu tại sao một lời tuyên bố chỉ với vỏn vẹn hai câu
khơng trau chuốt lại có ảnh hưởng sâu sắc tới một nền kinh tế 10 nghìn tỷ
đơla và trên thực tế là tới nền kinh tế toàn cầu? Nhờ đâu, Cục Dự trữ Liên
bang – một thể chế khơng trực tiếp được dân bầu – lại có sức mạnh to lớn



nhường vậy? Và tại sao sức mạnh đó lại ảnh hưởng đến cuộc sống hàng
ngày của người dân Mỹ?
Ngân hàng trung ương Mỹ, cơ quan được coi là lực lượng quyền lực
nhất trong việc quyết định số phận của nền kinh tế Mỹ cũng như kinh tế
tồn cầu. Vai trị này xuất phát từ chỗ, FED là cơ quan kiểm sốt nguồn
cung tiền của nước Mỹ và điều khiển chính sách lãi suất của Mỹ, theo đó
ảnh hưởng tới tốc độ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp, sức mạnh của đồng
USD, và tất nhiên là cả “trọng lượng” chiếc ví của người tiêu dùng.
Hệ quả kéo theo đối với tác động lên nền kinh tế hàng đầu Thế giới tất
nhiên là làm cả thế giới chuyển biến theo, cụ thể hơn đó là:
- Thứ nhất các quyết định về tăng giảm lãi suất của FED tác động trực
tiếp đến sức mạnh của đồng USD, qua đó ảnh hưởng mạnh đến các
đối tác thương mại của Mỹ. Nếu FED tăng lãi suất đồng USD nhằm
kiềm chế lạm phát, vơ hình chung làm tăng sức mạnh của đồng USD
trên thị trường tiền tệ quốc tế, làm tăng nhập khẩu, giảm xuất khẩu,
giảm đầu tư vào Mỹ.
- Thứ hai, FED còn trực tiếp can thiệp vào việc xác lập giá trị đồng
USD thông qua hoạt động mua bán USD và các ngoại tệ khác. Ví dụ,
nếu Mỹ bán đồng Yen ra đồng thời mua vào USD thì giá trị của USD
sẽ tăng, trong khi giá trị Yen giảm xuống, dẫn đến tỉ giá USD/Yen
tăng.
- Thứ ba, Đô-la Mỹ là đồng tiền dự trữ của hầu hết các quốc gia trên thế
giới. Mỹ gây ảnh hưởng lên OPEC, buộc các kết toán giao dịch dầu
hỏa phải được thực hiện bằng đô-la Mỹ. Và hiện nay trên thế giới rất
nhiều quốc gia hiện là chủ nợ của Mỹ, trong đó Trung Quốc là chủ nợ


nắm giữ lượng cơng trái lớn nhất của chính phủ Mỹ. Kế đến là nhiều

quốc gia thuộc OPEC, vì để đổi lại viện trợ của Mỹ các quốc gia này
phải chấp nhận đổi dầu hỏa lấy công trái chứ không phải là tiền mặt.
Các quốc gia khác như Việt Nam, dù muốn cũng không thể dự trữ
vàng để mua dầu hỏa. Các đặc tính như “khả năng hốn đổi”, hay “giá
trị ổn định” chỉ có được sau khi đồng đơ-la Mỹ đã trở thành đồng tiền
dự trữ của thế giới, chứ khơng phải là nó có trước và làm cho đồng
đô-la Mỹ trở thành đồng tiền dự trữ.
- Thứ tư, Tiền giấy và tiền kim loại do chính phủ phát hành có giá trị là
vì chúng được đảm bảo bằng lượng vàng dự trữ. Hiện nay trên thế
giới, Hoa Kỳ vẫn được xem là đất nước có dự trữ vàng lớn nhất, và
nổi tiếng và hoành tráng nhất vẫn là hầm chứa vàng khổng lồ được đặt
tại Trụ sở Lưu trữ vàng của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ. Vì vậy khơng
lấy làm ngạc nhiên khi cái bóng của FED đã vươn ra toàn thế giới.
- Thứ năm, FED được điều hành bởi những con người tài giỏi nhất và
có uy tín trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, FED đóng vai trị là cầu
nối cho các hoạt động của các NHTW trên toàn thế giới.
Tuy nhiên nếu bây giờ có ai đó nói rằng “Thế giới khơng phải chỉ có
FED!” cũng hồn tồn hợp lí!
Sự phát triển ngày càng hùng mạnh của Liên minh châu Âu EU cùng
với sự gia tăng khoảng cách giữa đồng tiền EURO và USD, thêm vào đó
là sự vươn lên vơ đáng sợ của Trung Quốc đang khiến cho nền kinh tế
Mỹ hoảng sợ! chủ nhân Giải Nobel Kinh tế, cựu chuyên gia kinh tế hàng
đầu của Liên Hợp Quốc và Ngân hàng Thế giới Joseph Stiglitz nhận
định:”Sự suy thoái nếu xảy ra ở châu Âu sẽ làm trầm trọng hơn suy thoái
ở Mỹ và ngược lại.”


×