Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

ĐỀ TÀI đấu TRANH NGĂN CHẶN SỰ SUY THOÁI VỀ đạo đức, LỐI SỐNG CỦA ĐẢNG VIÊN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TE

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.86 KB, 36 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUN TRUYỀN
-----a&b-----

MƠN: XÂY DỰNG ĐẢNG

ĐỀ TÀI: ĐẤU TRANH NGĂN CHẶN SỰ SUY THOÁI VỀ ĐẠO ĐỨC, LỐI
SỐNG CỦA ĐẢNG VIÊN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY
Họ và tên sinh viên: Bạch Thị Tú
Ngày sinh: 10- 01- 2002
Mã sinh viên: 2055270050
Lớp hành chính: Quản lý kinh tế A1 K40
Lớp tín chỉ: K40_XD01001_3

Hà Nội, 2021
1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...............................................................................................................4
1 Lý do chọn đề tài..................................................................................................4
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .....................................................................7
4. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu .........................................................7
5. Kết cấu của tiểu luận ..........................................................................................8
CHƯƠNG 1: Cơ sở lý luận chung về đảng viên
1.1Một số khái niệm và tiêu chuẩn của đảng viên...................................................9
1.2Vai trò của đảng viên........................................................................................11
1.3Nhiệm vụ của đảng viên...................................................................................13
CHƯƠNG 2: Thực trạng sự suy thoái về đạo đức, lối sống của đảng viên trong


nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế hiện
nay
2.1Thực trạng.........................................................................................................15
2.2 Nguyên nhân..................................... ..............................................................21
2.3Vai trò của đảng viên trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế hiện nay.................................................................23

CHƯƠNG 3: Giải pháp đấu tranh ngăn chặn sự suy thoái về đạo đức, lối
sống của đội ngũ đảng viên trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế hiện nay ....................................................26
KẾT LUẬN ............................................................................................36
Tài liệu tham khảo

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trở thành Đảng cầm
quyền, lãnh đạo Nhà nước, để ngăn ngừa nguy cơ tha hóa bởi quyền lực, Đảng ta
và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt coi trọng việc giáo dục đạo đức, lối sống cho
cán bộ, đảng viên; phòng, chống suy thoái trong cán bộ, đảng viên trên các lĩnh vực
này, quan tâm giáo dục lý tưởng, đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân.
Đội ngũ đảng viên là nhân tố chính, cơ bản, chủ yếu nhất cấu thành tổ chức của
Đảng. Cho nên một khi đã xây dựng được một đội ngũ đảng viên thật sự trong
sạch, vững mạnh sẽ là điều kiện, tiền đề đặc biệt quan trọng góp phần quyết định
làm cho tổ chức Đảng vững mạnh, theo đó, cả hệ thống tổ chức Đảng và toàn Đảng
vững mạnh. Khẳng định nội dung tư tưởng này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết một
cách cơ đọng: “Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt”.
[Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, Nxb CTQG Hà Nội, tr.92] Trong quá trình lãnh đạo

cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm chăm lo giáo dục, rèn luyện, nâng cao đạo đức
cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nhờ đó, “đa số cán bộ, đảng viên có
quan điểm, lập trường tư tưởng vững vàng, giữ gìn phẩm chất đạo đức, vai trị tiên
phong, gương mẫu trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ” 1, động viên, khích lệ
nhân dân vượt qua khó khăn, thách thức, đưa công cuộc đổi mới ở nước ta đạt được
những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
 Hiện nay, cả nước đã và đang thực hiện “nhiệm vụ trọng tâm” là phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, đẩy nhanh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp nơng thơn,
hội nhập kinh tế quốc tế. Thời kỳ mới đang đặt ra hàng loạt các vấn đề mới, vừa có
những thời cơ, thuận lợi lớn, đồng thời cũng xuất hiện khơng ít những khó khăn và
3


phức tạp đòi hỏi đội ngũ đảng viên của Đảng phải được chỉnh đốn, nâng cao cả về
đạo đức và lối sống. Tuy nhiên tình trạng suy thối đạo đức, lối sống “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó
có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp là rất
nghiêm trọng.  Dẫn đến tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, nhũng nhiễu nhân dân,
trái với chuẩn mực đạo đức của người cộng sản “cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng
vơ tư”, làm cho nhân dân bất bình, lo lắng. Mặc dù việc ngăn chặn, đẩy lùi tình
trạng suy thối đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên,
nhất là các bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, được Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI
xác định là một trong ba vấn đề đang thực sự cấp bách, cần làm ngay để củng cố
niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân
Trong khi đó những năm qua, cơng tác xây dựng Đảng nói chung và xây dựng
đội ngũ đảng viên nói riêng, tuy có đạt được những kết quả bước đầu rất quan
trọng, song cho đến nay vẫn còn nhiều vấn đề yếu kém bất cập, chưa đáp ứng kịp
những yêu cầu, đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới. Như Nghị
quyết Trung ương bốn khóa XII đánh giá là: “Tình trạng suy thối về tư tưởng

chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa được đẩy lùi,
có mặt, có bộ phận cịn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu
cực vẫn cịn nghiêm trọng tập trung vào một số đảng viên có chức vụ trogn bộ máy
nhà nước... Trong khi đó, sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn
tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.... Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên làm
giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin
của nhân dân đói với Đảng, là một nguy cư trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng
và chế độ” ( trích Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị Trung ương lần thứ
tư Ban Chấp hành trung ương khóa XII, Văn phịng Trungn ương Đảng, Hà nội,
2016.)

4


Để đảm bảo cho đảng ta vững mạnh về mọi mặt, xứng đáng là đội tiên phong
chính trị của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc, đủ sức
lãnh đạo xã hội, đất nước phát triển một cách toàn diện, vững chắc, Đảng đã chỉ
đạo một cách kiên quyết: Phải tiếp tục thực hiện mạnh mẽ hơn nữa các Nghị quyết
về xây dựng và chỉnh đốn Đảng, bởi gắn liền với sự phát triển của đất nước là lớp
cán bộ, đảng viên ưu tú đã gây dựng và lãnh đạo đất nước phát triển. Nhất là Nghị
quyết Trung ương 6 khóa XIII, tinh thần của Nghị quyết đại hội IX và các nghị
quyết Trung ương tiếp theo của khóa IX, đặc biệt là những nội dung về xây dựng
Đảng của Nghị quyết Trung ương 4 khóa IX mới đây. Trong đó, cơng tác giáo dục
chính trị tư tưởng, rèn luyện đạo đức cách mạng là một trong những nội dung xây
dựng, chỉnh đốn Đảng vừa mang tính bức thiết, cấp bách đồng thời có ý nghĩa
chiến lược lâu dài.
Đây là một đề tài mang tính thiết thực nhằm mang đến những vấn đề hữu ích
cho việc bỏ phiếu bầu cử những cán bộ, đảng viên phục vụ nhân dân các tâng lớp
giai cấp. Đạo đức, lối sống là một vấn đề quan trọng của mỗi cá nhân cũng như Bác
Hồ đã từng nói: “Có tài mà khơng có đức là người vơ dụng” vì vậy, trước khi muốn

làm một việc gì lớn, làm một người nào đó thay mặt người khác thực hiện những
cơng việc tốt đẹp thì bắt buộc phải có cái đức để ràng buộc bản thân, không để bản
thân làm những điều sai trái khơng phù hợp với ln lí đạo đức của con người.
Vì vậy em đã chọn đề tài:” Đấu tranh ngăn chặn sự suy thoái về đạo đức, lối
sống của đảng viên trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và hội nhập quốc tế hiện nay”, làm đề tài tiểu luận của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và đánh giá đúng thực trạng
những vi phạm đạo đức, lối sống của các cán bộ, đảng viên thường gặp phải. Nhằm
ngăn chặn, đẩy lùi những hành vi không phù hợp của các cán bộ, đảng viên, góp
phần thúc đẩy sự phát triển tiến bộ của xã hội. Qua đó xác định phương hướng và
5


đề xuất một số giải pháp để tăng cường việc giáo dục về đạo đức và lối sống của
đảng viên. Từ đó, nâng cao đạo đức và lối sống của đội ngũ đảng viên trong giai
đoạn hiện nay và hiệu quả trong việc củng cố bộ máy của nhà nước đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng, một nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Nhiệm vụ nghiên cứu là:
Làm rõ vai trò, đặc điểm ở nước ta và đội ngũ đảng viên hiện nay.
Làm rõ thêm quan niệm và tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ đảng viên là cán
bộ chuyên trách ở nước ta giai đoạn hiện nay.
Đánh giá đúng thực trạng đạo đức và lối sống của đội ngũ đảng viên là cán bộ
chuyên trách và công tác đảng viên hiện nay; từ đó, rút ra được những nguyên
nhân, nêu ra những kinh nghiệm trong công tác đảng viên góp phần tạo nên đạo
đức lối sống đội ngũ đảng viên.
Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nâng cao đạo dưdcs và lối
sống đội ngũ đảng viên ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các chuẩn mực đạo đức lối sống của cán bộ,

đảng viên ở Đảng ta trong thời kì đổi mới hiện nay và thực trạng đạo đức và lối
sống của đội ngũ đảng viên trên cơ sở đó đề xuát các giải pháp. Từ đó phân tích vai
trị, trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên cần phải làm gì để ngăn chặn sự suy
thoái về đạo đức lối sống của bản thân trong công cuộc xây dựng đất nước tiến lên
xã hội chủ nghĩa và đảm bảo cho đất nước trong thời kì hội nhập quốc tế.
Phạm vi nghiên cứu là các cán bộ, đảng viên trong bộ máy chính trị của nhà
nước Cộng hịa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đang được đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản và cán bộ, đảng viên được nhắc tới chính là những người cấm
quyền, phụng sự nhân dân lãnh đạo đất nước giúp đất nước phát triển hơn.
4. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu

6


Cơ sở lý luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về xây dựng Đảng nói
chung, về vấn đề nâng cao đạo đức và lối sống của đội ngũ đảng viên nói riêng,
nhất là đối với đội ngũ đảng viên là cán bộ chuyên trách; đồng thời kế thừa kết quả
nghiên cứu của các cơng trình khoa học có liên quan đã được công bố.
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng chủ yếu dựa trên cơ sở phương pháp
luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và kinh nghiệm
lãnh đạo, xây dựng Đảng của Đảng ta, kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn,
logic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, điều tra xã hội học, đặc biệt coi trọng
phương pháp tổng kết thực tiễn. Cùng với sự giúp đỡ của q thầy cơ, các đồng chí
lãnh đạo ở Đảng bộ, bản thân trực tiếp tiến hành khảo sát thực tế, đánh giá chất
lượng đội ngũ đảng viên những năm qua, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm góp
phần nâng cao hơn nữa chất lượng đội ngũ đảng viên của Đảng bộ thời gian tới.
5. Kết cấu của tiểu luận
Mở đầu: Nêu lý do chọn đề tài, mục đích nhiệm vụ nghiên cứu
Nội dung chính: Bao gồm 2 phần chính là lý thuyết và vận dụng. Trong các
phần lại chia thành nhiều tiểu mục nhỏ.

Gồm 3 chương với chủ đề là:
Chương 1 Cơ sở lý chung về đảng viên
Chương 2 Thực trạng sự suy thoái về đạo đức, lối sống của đảng viên trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế hiện nay.
Chương 3 Giải pháp đấu tranh ngăn chặn sự suy thoái về đạo đức, lối sống của
đội ngũ đảng viên trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế hiện nay
Kết luận: Tóm lược nội dung chính

7


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẢNG VIÊN
1.1Một số khái niệm và tiêu chuẩn của đảng viên
Đảng viên là người được trang bị thế giới quan khoa học và phương pháp luận với
trình độ giác ngộ cách mạng cao, ý thức giai cấp rõ ràng nên trong suy nghĩ vẽ
hành động, người đảng viên luôn tỏ ra kiên quyết, gương mẫu đi đầu trong mọi
phong trào hành động cách mạng của quần chúng. Khi đảng viên có đủ trình độ lý
luận tiền phong, có lý tưởng giác ngộ cách mạng thật sự thì họ mới có khả năng và
quyết tâm thực hiện nhiệm vụ cao cả, họ mới có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín vận
động, cổ vũ thức tỉnh, lôi cuốn và lãnh đạo được quần chúng.
Theo từ điển tiếng Việt: Đảng viên là người ở trong tổ chức của một chính đảng.
Nghĩa là: Đảng viên là thành viên của một đảng.
Đây là khái niệm chung về Đảng viên, dù là đảng viên cộng sản hay đảng viên
tư sản, đảng viên của các đảng phái chính trị khác nhau trên thế giới. Nghĩa là có
đảng chính trị là có các thành viên – các đảng viên của đảng đó.
Theo điểm 1, điều 1, chương 1, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam: “...Đảng viên
Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội quân tiên phong của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam”.
Đội ngũ đảng viên của Đảng Cộng sản chân chính nói chung và đội ngũ Đảng

cộng sản Việt Nam nói riêng là tập hợp những chiến sĩ cách mạng tiên tiến, ưu tú
nhất, giác ngộ nhất và kiên quyết nhất trong đội tiên phong có tổ chức chặt chẽ nha
của giai cấp công nhân, đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, đại biểu
trung: thành của giai cấp cơng nhân và tồn thể nhân dân lao động: suốt đời phấn
đấu, sinh cho lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân.
  Từ những u cầu có tính ngun tắc của các nhà kinh điển của chủ nghĩa MácLênin và những quy định ghi trong điều lệ Đảng. Có thể khái quát những nội dung
về tư cách đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tình hình hiện nay
Trong giai đoạn hiện nay, tiêu chuẩn đảng viên cần phải:
8


Đảng viên phải là người giác ngộ lý tưởng cách mạng trung thành và có kiến
thức năng lực phấn đấu xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đây 1
vấn đề cốt lõi của tư cách đảng viên. Phải kiên định: “Độc lập dân tộc phải gắn liền
với Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lí tưởng của Đảng ta, dân tộc ta. Chủ nghĩa Mác
– Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động của Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, không chấp nhận đa nguyên đa đảng. Nhà nước Việt Nam là nhà nước của
dân, do dân và vì dân, thể hiện khối đại đồn kết tồn dân tộc, trên nền tảng liên
minh của giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và tầng lớp trí thức, dưới sự
lãnh đạo của Đảng tập chung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, sinh hoạt
và hoạt động của đảng. Kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc
tế trong sáng của giai cấp cơng nhân”. ( trích Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện
Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) ban chấp hành Trung ương khóa VIII )
“Mọi đảng viên phải nêu cao vai trị tiên phong gương mẫu, vững vàng về chính
trị, có đạo đức trong sáng, có lối sống lành mạnh, gắn bó với nhân dân,thực sự tiêu
biểu cho lực lượng tiến bộ nhất ở cơ sở, phấn đấu trở thành người lao động giỏi,
người công dân mẫu mực. Đảng viên hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh,
phải phấn đấu làm kinh tế giỏi, đi đầu trong việc áp dụng kinh tế kĩ thuật và công
nghệ mới, ra sức làm giàu chính đáng và lơi cuốn, vận động bà con cùng làm giàu

khơng cam chịu nghèo đói”. (trích Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị
lần thứ năm ban chấp hành Trung ương khóa IX)
Đảng viên phải là người có ý thức tự giác và tín tổ chức kỷ luật cao, chăm lo xây
dựng và bảo vệ sự đoàn kết thống nhất của Đảng. Đảng viên phải là người tôn
trọng và bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân.
Phấn đấu để trở thành đảng viên cần:
Một là xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn, là điều có ý nghĩa quyết định đến
phẩm chất chính trị của đảng viên vì Đảng chỉ kết nạp những người giác ngộ về
9


mục đích, lý tưởng cách mạng, khơng thu nhận những người có động cơ lệch lạc,
thiếu trong sáng, nhất là khơngddeer những kẻ có cơ hội lọt vào Đảng.
Hai là, rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng. Không ngừng
học tập và rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực cơng tác, phẩm chất
chính trị, đạo đức cách mạng có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá
nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực
khác.
Ba là, nâng cao năng lục, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, để hồn thành tốt
đảng cần có nhiệt tình. Muốn vậy phải tích cực học tập, nâng cao học vấn, trình độ,
am hiểu khoa học cơng nghệ,....
Bốn là, gắn bó với tập thể, với nhân dân, tích cưucj tham gia hoạt động đồn
thể, cơng tác xã hội. Đảng viên phải là người giữ vững và không ngừng củng cố,
phát triển mối quan hệ với nhân dân. Liên hệ chặt chẽ với quần chúng nhân dân,
tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Chăm lo đời sống vật chất tinh
thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân, Tích cực tham gia cơng tác quần
chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở. Tuyên truyền vận động gia đình và
nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đảng
viên còn được thể hiện qua việc thực hiện xuất sắc nhiệm vụ của người đảng viên
là điều lệ Đảng đã quy định.

Năm là, tích cực tham gia xây dựng Đảng ở cơ xở. Đó là trách nhiệm của đảng
viên vì mỗi đảng viên đồi gắn bó với một tổ chức, hoạt động và trưởng thành trong
tổ chức. Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối chính sách và tổ chức của Đảng.
Phục tùng kỷ luật, giữ gìn đồn kết thống nhất trong Đảng, làm cơng tác phát triển
Đảng viên, sinh hoạt Đảng và đóng đảng phí đúng quy định.
1.2 Vai trò của đảng viên
Theo quan điểm của Mác-Ăngghen: Người đảng viên cộng sản là bộ phận kiên
quyết nhất trong các Đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc
10


đẩy phong trào tiên lên; về mặt lý luận họ hơn bộ phận cịn lại của giai cấp vơ sản ở
chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện tiến trình và kết quả chung của phong trào vô
sản. Đảng viên có vị trí, vai trị hết sức quan trọng. à được xác định trong các mối
quan hệ sau:
Với đường lối nhiệm vụ chính trị, đảng viên có vai trị rất quan trọng trong việc
góp phần xây dựng, hồn thiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Là
người trực tiếp thực hiện và lãnh đạo quần chúng thực hiện đường lối, chủ trương
chính sách của Đảng. Do đó, nếu có đảng viên tốt, đội ngũ đảng viên vững mạnh
thì chẳng những đảm bảo cho đường lối chủ trương, chính sách của Đảng được
thực hiện mà cịn góp phần phát triển đường lối, chủ trương, chính sách. Ngược lại,
có những đảng viên yếu kém, chưa ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ thì dù có đường
lối, chủ trương, chính sách đúng cũng khó đưa vào cuộc sống và khó phát huy được
vai trị cải biến hiện thực. Đảng viên góp phần quan trọng vào việc hoạch định
đường lối, chủ trương của Đảng. Họ là người trực tiếp cùng tổ chức cơ sở đảng nơi
sinh hoạt , dân chủ thảo luận đề ra nhiệm vụ chính trị của đảng bộ, đồng thời lãnh
đạo nhân dân và cùng nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ chính trị ở cơ sở.
Với phong trào quần chúng. Đảng viên là người đa đường lối chủ trương, chính
sách của Đảng vào quần chúng, trực tiếp tổ chức, giáo dục và lãnh đạo quần chúng

thực hiện. Đội ngũ đảng viên len lói sống chung với nhân dân, họ sống, sinh hoạt
và làm việc gắn liền với quần chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết “Mọi chính sách
của Đảng đều do đảng viên mà thấu đến quần chúng”, “Mỗi Đảng viên là một
người thay mặt cho Đảng trước quần chúng, để giải thích chính sách của Đảng và
của Chính phủ cho quần chúng hiểu rõ và vui lịng thi hành ”, [Hồ Chí Minh, Tồn
tập, Nxb CTQG, Hà Nội, tập 3, tr.76]. Họ dược đào luyện và trưởng thành từ trong
phong trào cách mạng của quần chúng, là những người tổ chức và lãnh đạo phong
trào cách mạng quần chúng. Để có thể hồn thành nhiệm vụ đó, đòi hỏi Đảng phải
11


phát huy vai trò của từng đảng viên và cả dội ngũ đảng viên nhằm giảng giải lý
luận và chủ nghĩa làm cho dân hiểu, làm cho dân giác ngộ và phải tập trung sức
mạnh của nhân dân thành khối thống nhất. Như vậy, đảng viên là nhân tố quan
trọng tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân – mối quan
hệ quyết định sự thành bại của công cuộc cách mạng do Đảng lãnh đạo.
Với tổ chức đảng, đảng viên là tế bào cấu thành tổ chức đảng, là những phân tử
tạo thành các tổ chức cơ sở Đảng và tạo thành Đảng. Vì vậy, năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của từng tổ chức cơ sở Đảng được quyết định chủ yếu bởi đội ngũ
Đảng viên của cơ sở tổ chức Đảng; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
cũng được quyết định bởi đội ngũ Đảng viên của Đảng. Đảng mạnh hay yếu đều
phụ thuộc vào đội ngũ đảng viên. Đảng viên có chất lượng cao là cơ sỏ để hình
thành đảng vững mạnh và ngược lại. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Mỗi đảng
viên tốt, mỗi chi bộ tốt là Đảng được mạnh thêm một phần; còn đảng viên kém, chi
bộ kém là những khâu yếu của Đảng” ( trích Hồ Chí Minh: Tồn tập Nxb Chính trị
quốc gia, H.2011, t.12, tr.613 ) và “Đảng mạnh là do các chi bộ mạnh. Chi bộ mạnh
là do các đảng viên hăng hái và gương mẫu” ( trích Hồ Chí Minh: Tồn tập Nxb
Chính trị quốc gia, H.2011, t.10, tr.270 ) Vì thế xây dựng đội ngũ đảng viên tốt là
nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của cấp uỷ Đảng, để nâng cao đạo đức và lối sống
của đảng viên.

1.3 Nhiệm vụ của đảng viên
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam hiện hành chỉ rõ bốn nhiệm vụ của đảng viên
tại Điều 2, chương 1 như sau
1. Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp
hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị
của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao;
phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng.

12


2. Khơng ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực
cơng tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh;
đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham
nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác.
2. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính
đáng của nhân dân; tích cực tham gia cơng tác quần chúng, công tác xã
hội nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
2. Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng;
phục tùng kỷ luật, giữ gìn đồn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên
tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng; làm công tác phát triển
đảng viên; sinh hoạt Đảng và đóng đảng phí đúng quy định.
Xác định đúng tiêu chuẩn và nhiệm vụ của đảng viên là tạo điều kiện cho mỗi
đảng viên phấn đấu để giữ vững và nâng cao danh hiệu của người đảng viên cộng
sản, giữ vững uy tín cho đảng. Là căn cứ cụ thể để các tổ chức đảng tiến hành công
tác đảng viên, để quần chúng nhận xét đánh giá đảng viên, tham gia xây dựng
Đảng, để giới thiệu những người ưu tú phấn đấu vào Đảng.
Như vậy, mỗi cơng dân đều có quyền như nhau để phấn đấu trở thành một đảng

viên, trở thành một thành viên trong tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ đó,
mỗi người đều có ý thức bồi dưỡng, rèn luyện và tu dưỡng bản thân, chỉ cần có chí
thì ắt sẽ đạt được. Và những người đang làm đảng viên thì phải có ý thức giữ mình
làm theo những nhiệm vụ mà một người đảng viên phải làm, điều quan trọng là nếu
một đảng viên thì phải giữa vững trách nhiệm với vai trị mà mình được giao.

13


Chương 2: THỰC TRẠNG SỰ SUY THOÁI VỀ ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG
CỦA ĐẢNG VIÊN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY
Từ sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trở thành Đảng cầm
quyền, lãnh đạo Nhà nước, để ngăn ngừa nguy cơ tha hóa bởi quyền lực, Đảng ta
và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt coi trọng việc giáo dục về đạo đức, lối sống
cho cán bộ, đảng viên; phịng, chống suy thối trong cán bộ, đảng viên trên các lĩnh
vực này, quan tâm giáo dục lý tưởng, đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá
nhân.
2.1 Thực trạng
2.1.1 Ưu điểm
  Hiện nay, đại bộ phận cán bộ, đảng viên kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập
dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, phát huy chủ nghĩa yêu nước, nêu cao trách
nhiệm trước Đảng, vận động, giáo dục và tổ chức quần chúng thực hiện Cương
lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Phần lớn cán bộ
lãnh đạo, quản lý đã nhận thức rõ hơn về nghĩa vụ, trách nhiệm, có ý thức tu
dưỡng, rèn luyện về tư cách, đạo đức và giữ gìn đồn kết nội bộ; nâng cao năng lực
chuyên môn và năng lực lãnh đạo, nhất là năng lực tổ chức thực hiện, tiếp cận và
giải quyết tốt hơn những nhiệm vụ của thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế.
Nhiều cán bộ chủ chốt ở các cấp, các ngành thể hiện rõ nhiệt huyết, trách
nhiệm, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, có phong cách làm việc dân chủ,

có quyết tâm, bản lĩnh chính trị trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ. Họ luôn nêu
cao đạo đức cách mạng, trung thực, giản dị, gần gũi nhân dân, được nhân dân tin
tưởng; là lực lượng nòng cốt, có sức lơi cuốn quần chúng nhân dân trong các phong
trào thi đua yêu nước, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, đạt nhiều thành tựu
quan trọng trong công cuộc đổi mới đất nước. Nhiều người trong số đó trở thành
những gương điển hình tiểu biểu trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
14


phong cách Hồ Chí Minh.  Việc thực hiện các chuẩn mực đạo đức, lối sống đã tạo
được sự chuyển biến cơ bản ở các cơ quan đoàn thể, về nhận thức của cán bộ, đảng
viên và công chức, viên chức trong việc tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối
sống theo tấm gương của Bác, nâng cao tinh thần nhân văn, cơng tâm, trí tuệ và
khách quan, qua đó đã mang lại những kết quả tích cực trong thực hiện nhiệm vụ
công tác. Vấn đề tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ được quan tâm hơn; công
tác kiểm tra, giám sát thực thi công vụ được chú trọng, từ đó làm chuyển biến về
hành động, nâng cao trách nhiệm, ý thức rèn luyện, cải tiến lề lối làm việc, cán bộ,
công chức, viên chức, người lao động trong mỗi cơ quan, đơn vị chủ động phòng
ngừa, ngăn chặn được các biểu hiện tiêu cực, vi phạm kỷ luật, đạo đức, lối sống,
mất đồn kết, ngăn chặn tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
    Nhìn tổng thể, trên mọi mặt đời sống xã hội, công cuộc xây dựng con người mới,
xã hội mới đã đạt được những kết quả quan trọng. Sự năng động, sáng tạo của các
tầng lớp nhân dân được phát huy, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được mở
rộng, công tác an sinh xã hội có chuyển biến rõ nét, đem lại những quyền và lợi
ích  thiết thực đối với nhân dân. Đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của nhân
dân được nâng lên rõ rệt. Đông đảo quần chúng nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo
của Đảng, phấn khởi trước những thành tựu của đất nước.
    Tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái, ý thức về giá trị truyền thống lịch sử
dân tộc, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc được mọi tầng lớp nhân dân
coi trọng. Ngày càng có nhiều người dân quan tâm tìm hiểu chủ trương, nghị quyết

của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tích cực tham gia các hoạt động xã
hội. Các phong trào hướng về cội nguồn, thiện nguyện, xây dựng q hương giàu
mạnh, gia đình hồ thuận, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hố” được mọi tầng lớp nhân dân đón nhận và hưởng ứng.
    Từ khi Đảng ra đời đến nay, đạo đức cách mạng được giáo dục sâu rộng, có ý
nghĩa định hướng hành vi của con người, đã đem lại những thay đổi mang tính cách
15


mạng trong lao động, sản xuất và chiến đấu, trong công tác và sinh hoạt đời thường
của mỗi cán bộ, đảng viên, góp phần trực tiếp bảo đảm thắng lợi của cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân và những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của thời kỳ
đổi mới. 
2.1.2 Nhược điểm
Tuy nhiên, tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán
bộ, đảng viên, gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự nghiệp cách mạng của Đảng. Việc
thực hiện tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ chưa thường xuyên, liên tục, kém
hiệu quả, việc kiểm tra, giám sát chưa tích cực, chủ động, chưa đưa nội dung kiểm
điểm việc thực hiện chuẩn mực đạo đức vào sinh hoạt chi bộ hàng tháng, các đồn
thể chưa có hình thức sinh hoạt phong phú mà chủ yếu làm theo yêu cầu cấp có
thẩm quyền. Có thể thấy những việc liên quan sai phạm về đạo đức của cán bộ,
công chức, viên chức trong giai đoạn hiện nay xuất hiện chủ yếu tập trung vào
các lĩnh vực như: đất đai, xây dựng, công an, kiểm lâm, y tế, giao thơng... Trong
đó, có nhiều vụ việc cán bộ, công chức, viên chức vi phạm đạo đức công vụ, đạo
đức nghề nghiệp gây hậu quả nghiêm trọng, như một số vụ công chức kiểm lâm,
viên chức làm công tác quản lý, bảo vệ rừng lơ là, thiếu trách nhiệm để cho "lâm
tặc" phá rừng trong nhiều năm; một số viên chức ngành y tế lợi dụng vị trí việc
làm vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, xâm phạm nhân phẩm,
danh dự và thể xác của người khác; một số cán bộ dự án "rút ruột" cơng trình
xây dựng; một số cơng chức, viên chức thanh tra giao thông, công an giao thông

nhận tiền “mãi lộ” của lái xe và doanh nghiệp; một số cơng chức địa chính cố ý
sai phạm để trục lợi cá nhân; có cán bộ làm cơng tác đền bù, giải tỏa thiếu quản
lý, tắc trách để cấp dưới gây ra những sai phạm gây nhiều dư luận, bức xúc cho
người dân; thậm chí cơng chức làm cơng tác văn thư, lưu trữ của cơ quan chuyên
môn cũng hách dịch, rề rà, gây khó dễ cho các cá nhân đến liên hệ cơng tác...
Bên cạnh đó, tình trạng cán bộ, công chức, viên chức bớt xén thời gian làm việc,
16


đùn đẩy trách nhiệm, giải quyết công việc sai quy định, hướng dẫn, giải thích
cơng việc cho người dân một cách lịng vịng, khó hiểu, thái độ làm việc hời hợt,
thiếu nhiệt tình và thiếu hẳn tính thân thiện hoặc thiếu nhiệt tình trong việc tiếp
cơng dân. Và chuyển biến nhận thức và nhất là làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh cịn hạn chế, chưa rõ nét. Một số cán bộ, đảng viên chưa nhận
thức đầy đủ về ý nghĩa của việc thực hiện chuẩn mực đạo đức theo tấm gương Hồ
Chí Minh, cịn ngại rèn luyện, tu dưỡng, phấn đấu. Một bộ phận cán bộ, đảng viên,
công chức, viên chức, kể cả lãnh đạo, quản lý chưa thật sự gương mẫu.
Còn hiện tượng đùn đẩy, né tránh trách công việc, chưa thường xuyên học tập bồi
dưỡng, nâng cao trình độ chun mơn, năng lực cơng tác hạn chế; một số đơn vị,
tình trạng mất đồn kết nội bộ vẫn cịn xảy ra, có biểu hiện cục bộ, kèn cựa địa vị,
ganh tị, bè phái, lợi ích nhóm, trong thực hiện nhiệm vụ chun mơn khơng phối
hợp với nhau, làm việc theo kiểu “mạnh ai nấy làm” dẫn đến hiệu quả công việc
không cao.
Trong việc thực hiện nhiệm vụ, công tác tiếp xúc, tiếp nhận hồ sơ giải quyết
công việc cho nhân dân, một số cán bộ, công chức, viên chức tỏ rõ thái độ hách
dịch, nhũng nhiễu khi giải quyết cơng việc, gợi ý, vịi vĩnh trong khi thực hiện
nhiệm vụ.
Ở một số các cơ quan đơn vị từ trung ương đến địa phương, tình trạng lạm chức
lạm quyền vẫn còn xảy ra. Một là vấn đề lạm quyền xong sau đó là vấn đề tham
nhũng. Ví dụ, người dân đi làm thủ tục giấy tờ nhưng cán bộ, đảng viên lại quát

tháo với sắc mặt cứng nhắc khơng có thiện chí của một người đảng viên nên có,
thậm chí cịn trốn tránh đùn đẩy khơng tiếp dân. Đến lúc làm giấy tờ thì mượn cớ
làm trì trệ khơng đưa nhưng đến khi người dân biếu xén thì tất cả mọi việc lại
nhanh chóng. Đạo đức của một người cán bộ có chuẩn mực hay không đều thể hiện
qua hành động với các mỗi quan hệ được nói đến.

17


Trước tình hình đó thì Đảng đã ra chỉ thị 05 - CT/TW của Bộ Chính trị về “ Đẩy
mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và
chủ đề năm 2019  “trọng dân, dân chủ và vì dân”. Các cán bộ, đảng viên phải bắt
buộc học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của bản thân mình, thực hiện tốt các
chuẩn mực đạo đức cơ bản như:
Thứ nhất, sống có lý tưởng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, hết
lòng phụng sự nhân dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. Đây là quy định đầu tiên của Đảng ta ban hành trong quy định 08 ngày
25/10/2018 vừa qua.
Thứ hai, chấp hành nghiêm các quy định của Đảng, Nhà nước, cơ quan, đơn vị
và hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao.
Thứ ba, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư, chống chủ nghĩa cá
nhân, giữ gìn đồn kết, thân ái.
Thứ tư, kiên qút đấu tranh với những hành vi suy thoái về đạo đức; xây dựng
lối sống trung thực, trong sáng, giản dị, khiêm tốn.
Thứ năm, tích cực trau dồi đạo đức nghề nghiệp, có ý thức giữ gìn danh dự,
lương tâm của người cán bộ, công chức, viên chức.
Bác Hồ đã từng nói: “Có tài mà khơng có đức là người vơ dụng, có đức mà
khơng có tài làm việc gì cũng khó”. Làm một người lãnh đạo thì bản thân người đó
phải có đủ đức và tài, nhưng điều cơ bản cốt lõi là phải có cái đức. Một người có
đức dù khó làm việc nhưng với lương tâm trách nhiệm của bản thân thì người làm

đó đặt cả cái tâm của mình vào mà làm việc. Một người cán bộ phải biết u
thương dân, nếu khơng thương dân, vì lợi ích của bản thân, vì chủ nghĩa cá nhân
làm lu mờ lí trí thì người đó khơng cứng đáng làm cán bộ. Tuy nhiên, để làm một
đảng viên thì trước hết phả có tài sau đó tu dưỡng thêm đạo đức của bản thân cho
tròn trách nhiệm với cương vị của mình. Cái đức của người cán bộ, đảng viên là

18


khơng làm cho dân chịu đói khổ, nếu người dân phải chịu đói khổ tức đấy là do cán
bộ, đảng viên.
Đồng thời một người cán bộ, đảng viên có đạo đức tốt đẹp để làm việc và sinh
sống, lối sống của đảng viên có trách nhiệm với chính bản thân họ. Lối sống lành
mạnh hay tồi tệ sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới bản thân và gián tiếp với công việc.
Trong các chuẩn mực đạo đức cách mạng mà Hồ Chí Minh đã nhắc tới thì có một
chuẩn mực là “cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư”, một người đảng viên phải
có đủ những phẩm chất này, đây là những phẩm chất cao đẹp hướng con người ta
đến một thế giới chân thiện mĩ, góp phần thúc đẩy ý chí, tinh thần của con người.
Một người cán bộ trước hết phải cần cù, chịu khó, chăm làm việc, chăm học hỏi có
như vậy mới tìm ra, đưa ra được những ý kiến, những kế sách để phát triển trong
cuộc sống cũng như trong công việc. Tiếp theo, giản dị được gắn với một chữ
kiệm, khơng khoa trương hào nhống, khơng xa xỉ lãng phí, khơng hoang phí tiệc
tùng là những thứ mà các cán bộ, đảng viên cần phải biết. Thuế của người dân đóng
để trả lương cho người lãnh đạo phục vụ nhu cầu của người lãnh đạo khơng giúp
dân mà ngược lại chèn ép dân đó là sai trái. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là một nước của dân, do dân, vì dân nhưng những người lãnh đạo là đầy tớ
của nhân dân làm dân phải khổ thì khơng thể nào chấp nhận được. Vì vậy, khơng
phải cứ kiệm cho mình là được mà phải lấy dân làm gốc không được tham nhũng
quan liêu rồi lấy tiền đó mà thụ hưởng, làm một người phải chính đáng, chính danh
ngơn thuận vì mới được tin tưởng. Phải công khai rõ ràng rành mạch không để xảy

ra sai sót ảnh hưởng tới nhân dân, tới lợi ích của đất nước, không để chủ nghĩa cá
nhân chi phối con người cũng như ngăn chặn sự thiên vị bất cơng của người cán bộ
đối với gia đình người thân xảy ra tại nơi làm việc.
Lối sống của người đảng viên phải rõ ràng rành mạch vì có thể đó chính là hình
mẫu mà những lớp trẻ theo đuổi. Theo pháp luật, những người mang tội nặng nhẹ
19


thì tùy mức độ rồi xem xét mới được phép kết nạp đảng hay khơng cịn những đảng
viên phạm pháp thì chắc chắn sẽ bị kỉ luật và khai trừ tùy theo mức độ phạm tội. Vì
vậy, để làm một đảng viên trước hết phải biết giữ mình, biết trên biết dưới, biết đối
nhân xử thế với mọi người. Người đảng viên không được làm những điều trái với
vi phạm pháp luật, tuân thủ chặt chẽ khắt khe với những quy định mà một người
đảng viên phải làm và một công dân phải làm. Tuân thủ một lối sống tốt đẹp, hòa
ái, một lối sống hướng con người ta tới đỉnh cao của cuộc đời, hướng tới một thế
giới chân thiện mĩ không giả dối phù phiếm, không bị lay động bởi những cám dỗ
của cuộc sống.
2.2 Nguyên nhân
2.2.1 Khách quan
Tác động tiêu cực từ mặt trái của kinh tế thị trường như việc chạy theo lợi ích,
lợi nhuận; sự phân hóa giàu nghèo, tình trạng bất cơng xã hội, gian lận thương mại,
chủ nghĩa cá nhân… chưa có giải pháp khắc phục tích cực, trong khi có những mặt
trở nên nghiêm trọng. Tình trạng yếu kém trong lãnh đạo, quản lý kinh tế, xã hội; tệ
quan liêu, tham nhũng, hối lộ, sự suy thoái về đạo đức, lối sống trong một số cán bộ
có chức, có quyền… chậm được ngăn chặn, đẩy lùi. 
Tác động từ các thủ đoạn “diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch. Lợi
dụng những khó khăn, yếu kém, sự tha hóa của một số cán bộ ta trong cơ chế mới,
các thế lực thù địch tìm mọi cách khoét sâu thêm mâu thuẫn, tìm cách làm suy yếu
Đảng, tha hóa, lơi kéo, mua chuộc cán bộ, chia rẽ nội bộ… 
Tác động từ cơ sở, tâm lý của xã hội tiểu nông truyền thống đã ăn sâu hàng ngàn

đời nay trong cộng đồng cư dân Việt Nam. Đội ngũ cán bộ phần đông sinh ra, lớn
lên trong di sản kinh tế, tâm lý, tinh thần truyền thống đó. Do vậy, khơng ít người
nặng tính cục bộ địa phương; tự do, tùy tiện, không theo các quy định chung; chủ
nghĩa cá nhân, tư lợi; tuyệt đối hóa kinh nghiệm, nặng thói gia trưởng, bảo thủ, hạn
20


chế tính sáng tạo, thiên về cảm tính, tư duy lý luận chưa phát triển… nên dễ xem
thường tri thức khoa học, lý luận… 
2.2.2 Chủ quan
Do công tác giáo dục chính trị, tư tưởng chưa được coi trọng đúng mức, hoạt
động kém hiệu quả. Nhận thức chính trị, tư tưởng của cán bộ, đảng viên trước hết
phải được bắt nguồn từ sự giáo dục, tuyên truyền của Đảng. 35 năm đổi mới, cơng
tác này cịn nhiều bất cập, nhất là hàng thập niên đầu Đổi mới có nhiều lúng túng,
xáo trộn.
  Do tình trạng lạc hậu của lĩnh vực lý luận chính trị hiện nay. Sự nghiệp đổi mới
của Đảng phải bắt đầu tư sự thay đổi quan điểm lý luận đến thực tiễn đời sống. Đây
là quá trình vừa tìm tịi, thử nghiệm, nhiều vấn đề chưa có tiền lệ, chưa được nhận
thức lý luận làm sáng tỏ.
Do nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, quản lý đảng viên bị bng lỏng, chấp
hành chưa nghiêm. Tình trạng thiếu chặt chẽ trong quản lý cán bộ, đảng viên; việc
kiểm tra, giám sát hoạt động của đảng viên chưa tốt; đấu tranh chống tiêu cực và xử
lý vụ việc chưa nghiêm, chưa triệt để; nắm bắt diễn biến tư tưởng cán bộ, đảng viên
chậm, thiếu đầy đủ; việc bảo vệ tư tưởng và con người cụ thể trong chống tiêu cực
chưa tốt… 
  Do cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện và học tập để chủ nghĩa cá nhân
phát triển, chi phối. Họ nặng tính thực dụng, thiếu tu dưỡng rèn luyện thường
xuyên nên ý thức giác ngộ, lập trường giai cấp phai nhạt, tư tưởng hưởng thụ, bệnh
gia trưởng, hẹp hịi ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân trỗi dậy chi phối suy nghĩ và hành vi. 
 Do những yếu kém trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội vừa là nguyên nhân,

vừa là hệ quả của sự suy thối tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ,
đảng viên. Ai cũng thấy rõ tình trạng yếu kém trong quản lý nhà nước về kinh tế,
21


xã hội ở nước ta hiện nay đều do năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ; do tình
trạng pháp luật chưa đủ, chất lượng chưa cao, thi hành chưa nghiêm ở cả người duy
trì và người chấp hành pháp luật.
2.3 Vai trò của đảng viên trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế hiện nay
2.3.1 Vai trò trực tiếp
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi của nền kinh tế
hiện tại của nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Là nền kinh tế nhiều thành
phần trong đó khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, với mục tiêu dài hạn là
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được chính thức
sử dụng trong các văn kiện đại hội IX (tháng 4/2001) của Đảng; theo đó, “Đảng và
Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quả lí của nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội XII của Đảng (tháng 1/2016) tiếp tực bổ sung,
phát triển: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền
kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo quy luật của king tế thị trường, đồng thời
bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất
nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lí của
Nhà nước pháp quyền”.
Nhân dân và đảng viên đặc biệt là những đảng viên trẻ, họ đi đầu trong công tác
hội nhập và phát triển của đất nước, họ chính là người có ảnh hưởng sự hội nhập và
phát triển đó. Đất nước này là của những người trẻ, họ cố gắng thì họ thành cơng và
hơn hết đảng viên là những người lãnh đạo đất nước.

Bộ Kinh tế là bộ phận chủ chốt của sự phát triển. Trong Triết học, kinh tế được
coi là “cơ sở hạ tầng” nhưng tuy nhiên là đóng vai trị rất quan trọng. Những đảng
22


viên trong bộ phận này, họ là những người lãnh đạo, đưa ra những quyết định đúng
đắn trong nền kinh tế phát triển. Việt Nam là một nước đang trong thời kì quá độ,
và đanng phát triển đất nước với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Trong đó, nền kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo có sự quản lý của nhà
nước, vì vậy đảng viên là người quản lí. Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền
kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, pháp luật, và băng cả sức
mạnh vật chất của lực lượng kinh tế nhà nước; đồng thời sử dụng cơ chế thị trường,
áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để
kích thích sản suất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc
phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của
tồn thể nhân dân.
Bộ Ngoại giao và Bộ Chính trị là cơ quan nắm giữ chức vụ để phát triển hội
nhập quốc tế, các quyết định về quan hệ thông qua và được thông qua đều do quốc
hội cho phép và người thực hiện là Bộ Ngoại giao và Bộ Chính trị. Đây chính là
“kiến trúc thượng tầng” của sự phát triển.
Dù là ở phương diện nào trong nền kinh tế hay hội nhập thì người đảng viên
ln có vai trị quyết định những thay đổi của đất nước. Là một công dân của đất
nước, đồng thời cũng là một đảng viên ưu tú được nhân dân tin tưởng được bầu lên
và giữ chức vụ trong Tổ chức Đảng và Nhà nước, người đảng viên phải cố gắng
làm tốt nhiệm vụ mà mình được giao để xứng đáng với cương vị của mình vì ở
chức vụ này rất dễ làm đảng viên mưu cầu chuộc lợi.
2.3.2 Vai trị gián tiếp
Khơng chỉ là người quyết định trực tiếp nữa mà người đảng viên cũng gián tiếp
tham gia xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế hiện nay. Là một đảng viên, họ không được phép thành lập hoặc mở cơng

ty của riêng mình mà họ chỉ được phép tham gia với tư cách cổ đơng để tránh tình
trạng tham ơ rửa tiền. Họ không được phép quyết định sự xoay chuyển của nền
23


kinh tế nhưng họ lại đóng góp cho sự phát triển cho nền kinh tế bằng hình thức
kinh doanh phù hợp với bản thân và phù hợp với sự phát triển.
Hoặc, những đảng viên uy tín được nhờ cậy để khuyên nhủ đưa ra những giải
pháp phù hợp. Có thể là giành một vài lời khuyên với những kiến thức đúng đắn
phù hợp cho người thân, cho bạn bè, cho đồng nghiệp thì đó cũng là một cách gián
tiếp về sự tham gia để phát triển.
Vì vậy, bất kể họ tham gia bằng cách nào, như nào nhưng có một điều có thể
khẳng định là đã là một người đảng viên thì phải chăm lo cho sự phát triển của đất
nước. Một người đảng viên giữ chức vụ càng cao thì càng phải lí trí hơn đừng để
sai lầm củ bản thân mà ảnh hưởng tới đất nước. Rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối
sống của bản thân để tránh tình trạng vì chủ nghĩa cá nhân mà xảy ra sai lầm. Đã là
một người cán bộ, đảng viên thì chính là đầy tớ của nhân dân, mọi sự đều vì dân
tránh trường hợp vì lợi ích của bản thân mà làm dân khổ.
CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP ĐẤU TRANH NGĂN CHẶN SỰ SUY THOÁI VỀ
ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CỦA ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN TRONG NỀN KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ HỘI NHẬP
QUỐC TẾ HIỆN NAY
3.1 Đẩy mạnh cơng tác nghiên cứu lí luận về đạo đức và tổng kết thực tiễn việc
ngăn chặn, đầy lùi sự suy thoái về đạo đức lối sống của đảng viên
Đạo đức là cái gốc của người cách mạng, của người đảng viên của Đảng Cộng
sản. Hiện nay lý luận đạo đức của chúng ta còn lạc hậu, chưa theo kịp với sự phát
triển của thực tiễn mới, của phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế. Do đó, nhiều quan niệm đạo đức đã trở thành lạc hậu,
nhiều chuẩn mực đạo đức đã mất đi chân giá trị và khơng cịn phù hợp trong điều
kiện mới. Trong khi những quan niệm đạo đức mới, những chuẩn giá trị đạo đức

mới đang hình thành và từng bước được định hình. Sự lạc hậu của lý luận đạo đức
và sự yếu kém trong công tác nghiên cứu phát triển lý luận đạo đức, vơ hình trung
24


đã làm cho tình trạng trên kéo dài một cách tự phát: cái cũ, lạc hậu vẫn bền bỉ tồn
tại một cách dai dẳng; cái mới chưa thể hiện được một cách rõ nét, chưa có chỗ
đứng vững chắc trong cuộc sống. Bên cạnh đó, đạo đức, lối sống phương Tây đang
có điều kiện thuận lợi cho việc xâm nhập và tác động mạnh mẽ tới đời sống xã hội
ta, nhất là đối với lớp trẻ. Tình trạng “Tây hóa” đang xảy ra và xảy ra với một tốc
độ lan truyền mạnh mẽ và những đảng viên, đặc biệt là đảng viên trẻ thì tình trạng
này cũng khơng tránh khỏi. Lối sống của các nước phương Tây hoàn toàn khác với
Việt Nam nên các chuẩn mực đạo đức cũng thay đổi ít nhiều và từ đó thì sự thay
đổi về đạo đức lối sống cũng ảnh hưởng tới bản thân người đảng viên, từ đó làm
thay đổi đến hành động của người đảng viên đó.
Nghiên cứu phát triển lý luận đạo đức cách mạng phải bắt đầu từ thực tiễn, tổng
kết thực tiễn là cách tốt nhất để bổ sung, phát triển lý luận đạo đức cách mạng. Do
đó, cần thường xuyên sơ kết, tổng kết việc ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về đạo
đức, lối sống; tổng kết và truyền bá rộng rãi những giá trị mới của con người Việt
Nam trong thời kì cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
Vì vậy, với tình hình phát triển như hiện tại thì rất cần một tư duy lí luận mới
phù hợp cho sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, những khn mẫu đạo đức giáo
điều, cũ mịn, ít có giá trị thiết thực lại được nghiên cứu, rao giảng quá nhiều dẫn
đến nhàm chán, phản tác dụng. Trong khi đó con người và xã hội đang rất cần
những giá đỡ của đạo đức mới trên những bước đi còn chập chững trong lộ trình
phát triển kinh tế trị trường và hội nhập quốc tế của dân tộc, thì lại đang thiếu hụt.
Sự thiếu hụt những giá đỡ của đạo đức đã làm cho chúng ta lúng túng trong xử lý
các quan hệ đạo đức mới, trong tổ chức các thiết chế đạo đức mới. Đơi khi muốn
thốt ra khỏi lối mịn đó thì lại gặp phải những rào cản ngay trong tư duy, nếp nghĩ
đã hằn sâu trong quan niệm, tư tưởng của chính chúng ta. Đảng kêu gọi mọi người

rèn luyện đạo đức, nâng cao đạo đức, lối sống và ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về
đạo đức, lối sống trong Đảng, nhưng công tác lý luận của Đảng vẫn chưa lý giải
25


×