Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Nâng cao chất lượng tuyên tryuền, giáo dục ý thức pháp luật cho người lao động và người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố vinh, tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (766.22 KB, 101 trang )

BÙI VĂN HƢNG
NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG TUYÊN TRUYỀN, GIÁO DỤC Ý
THỨC PHÁP LUẬT CHO NGƢỜI LAO ĐỘNG VÀ NGƢỜI SỬ
DỤNG
LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN

CHUYÊN NGÀNH : LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC
BỘ MƠN GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ

: 60.14.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN THÁI SƠN

VINH – 2010

1


A. MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật có một vị trí vai trị quan
trọng trong đời sống xã hội, là cơng việc khơng thể tách rời với q trình xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Tuyên truyền, giáo dục pháp luật là khâu
đầu tiên trong hoạt động thực thi pháp luật, là phương tiện truyền tải chính sách
pháp luật của Nhà nước tới toàn thể cán bộ và nhân dân và nhất là đối với người
lao động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp, vì đây là một trong


những đối tượng quan trọng tham gia sản xuất tạo ra giá trị vật chất và giá trị
tinh thần của xã hội, đồng thời là nhân tố góp phần quyết định sự phát triển của
đất nước.
Xác định vai trò quan trọng của pháp luật, trong những năm qua hoạt
động tuyên truyền, phổ biến giáo dục ý thức pháp luật cho người lao động,
người sử dụng lao động ở các doanh nghiệp được các cơ quan quản lý Nhà nước
và các tổ chức đoàn thể các cấp trong cả nước nói chung, ở thành phố Vinh, tỉnh
Nghệ An nói riêng tích cực triển khai và đạt được nhiều kết quả quan trọng, từng
bước làm chuyển biến nhận thức về pháp luật của người lao động và người sử
dụng lao động.
Tuy nhiên, qua khảo sát thực tế vì nhiều lý do khác nhau cho thấy chất
lượng công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao ý thức pháp luật cho
người lao động và người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp ở thành phố
Vinh còn những hạn chế, bất hợp lý, chưa tương xứng với vị trí, yêu cầu nhiệm

2


vụ. Những hạn chế đó được thể hiện ở việc: Nhận thức pháp luật và ý thức tuân
thủ pháp luật của người lao động cịn thấp, khơng đồng đều; việc tổ chức tuyên
truyền, giáo dục đến các đối tượng chưa kịp thời, thiếu trọng tâm, trọng điểm;
đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật tại doanh nghiệp
cịn nhiều hạn chế; đầu tư cho cơng tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật chưa
đúng mức, doanh nghiệp chưa quan tâm đầu tư kinh phí cho các hoạt động tuyên
truyền, phổ biến pháp luật tại doanh nghiệp; sự phối hợp giữa các cơ quan, đoàn
thể liên quan chưa thực sự đồng bộ và chặt chẽ, dẫn đến bỏ trống địa bàn hoặc
trùng lặp, gây lãng phí; hình thức, phương pháp tuyên truyền, phổ biến pháp luật
vẫn mang nặng tính hành chính, thiếu sự chủ động tham gia từ phía các đối
tượng được tuyên truyền, chưa thật sự phù hợp với tính chất cơng việc, điều kiện
làm việc của từng đối tượng người lao động và người sử dụng lao động trong

các loại hình doanh nghiệp khác nhau. Những hạn chế đó đã kéo theo thực trạng
là quyền lợi của người lao động trong một số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh
Nghệ An chưa được đảm bảo, nhiều chủ doanh nghiệp chấp hành pháp luật lao
động chưa nghiêm; chưa xây dựng hoặc sửa đổi, bổ sung thoả ước lao động tập
thể, nội quy lao động; còn nợ đọng bảo hiểm xã hội; bảo hộ lao động, vệ sinh
lao động chưa đạt yêu cầu và còn để xảy ra mất an toàn trong lao động sản xuất.
Là cán bộ làm cơng tác Lao động – Người có cơng và Xã hội, được học
tập và nghiên cứu chuyên ngành Lý luận và Phương pháp dạy học bộ mơn giáo
dục chính trị tại trường Đại học Vinh; đồng thời trực tiếp tham gia công tác viên
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật của tỉnh, từ đó có điều kiện nắm bắt
được thực trạng công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, ý thức về
pháp luật của các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Vinh và xu thế vận động,
phát triển chung của ngành, lĩnh vực, tôi thấy cần thiết phải có những giải pháp
khắc phục tình trạng trên nhằm nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục ý
thức cho người lao động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp trên
địa bàn thành phố Vinh để góp phần thực hiện mục tiêu giữ vững và ổn định
chính trị - xã hội, xứng tầm là đô thị loại một và sớm trở thành trung tâm kinh tế,
văn hoá của vùng Bắc Trung bộ và đảm bảo thực hiện nhiệm vụ, tính chất, vai

3


trò của pháp luật, tiến tới mục tiêu xây dựng hồn thiện Nhà nước pháp quyền
của dân, do dân, vì dân và bắt kịp với sự phát triển của thời đại. Với những lý do
trên, chúng tôi chọn đề tài: Nâng cao chất lƣợng tuyên truyền, giáo dục ý
thức pháp luật cho ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động trong các
doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đề tài được nghiên cứu trong giai đoạn các cấp, các ngành đang thực hiện
chủ trương của Đảng về tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục

pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân với mục
tiêu tiếp tục tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tôn trọng và chấp hành pháp
luật của người dân nói chung, và đặc biệt là cho người lao động và người sử
dụng lao động nói riêng, tiến tới xây dựng quan hệ lao động hài hòa tại các
doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất kinh tế, ổn định tình hình
chính tri, xã hội.
Liên quan đến nội dung đề tài đã có một số cơng trình nghiên cứu như: Một
số hình thức phổ biến giáo dục pháp luật (Bộ Tư pháp - Vụ Phổ biến, Giáo dục
pháp luật - NXB Công an Nhân dân); 10 năm hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt
Nam hướng phát triển (Bộ Tư pháp, Cục trợ giúp pháp lý); Sổ tay nghiệp vụ Phổ
biến Giáo dục pháp luật (Hội đồng phối hợp công tác Phổ biến giáo dục pháp
luật tỉnh Nghệ An - Sở Tư pháp, 2006); Bộ luật Lao động của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam (NXB Lao động - Xã hội Hà Nội 2009); Nâng cao hiệu
quả phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước tại trung tâm học tập cộng đồng các phường, xã trên địa bàn thành phố
Vinh (Thạc sỹ Bùi Thị Kim Ngân); Những giải pháp cơ bản tăng cường giáo
dục ý thức bảo vệ môi trường cho thanh niên phường Cửa Nam và Đơng Vĩnh,
thành phố Vinh (Thạc sỹ Nguyễn Thị Phương Thảo).
Ngồi ra còn một số văn bản của Đảng và Nhà nước, như: Chỉ Thị số 32CT/TW Ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng Về tăng cường sự

4


lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý
thức chấp hàng pháp luật của cán bộ, nhân dân; Quyết định số 37/2008/QĐTTg ngày 12/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ Về việc phê duyệt chương trình
phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2008-2012; Quyết định số 31/2009/QĐTTg ngày 24/02/2009 của Thủ tướng Chính phủ Về việc phê duyệt Đề án tuyên
truyền, phổ biến pháp luật cho người lao động và người sử dụng lao động trong
các loại hình doanh nghiệp từ năm 2009-2012; Quyết định số 4172/QĐ-UBND
ngày 24/8/2009 của UBND tỉnh Nghệ An Về phê duyệt đề án tăng cường hỗ trợ
pháp lý cho doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Nghệ An đến năm 2015; Báo cáo

đánh giá hàng năm (2005, 2006, 2007, 2008, 2009) về công tác phổ biến giáo
dục pháp luật trên địa bàn tỉnh của Hội đồng Phối hợp công tác Phổ biến, Giáo
dục pháp luật của tỉnh Nghệ An; Báo cáo đánh giá 5 năm (2003 - 2009) và kế
hoạch thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật 5 năm (2009 - 2013)
của Liên đoàn Lao động tỉnh Nghệ An; Kế hoạch số 329/KH-UBND ngày
21/10/2010 của Ủy ban Nhân dân tỉnh Về thực hiện đề án Tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục ý thức pháp luật cho người lao động, người sử dụng lao động
trong các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2010 - 2012 và các bài viết
đăng trên báo, tạp chí nghiên cứu chuyên ngành cũng đã đề cập đến hoạt động
tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật, hỗ trợ pháp lý đối với người dân
nói chung và người lao động nói riêng.
Dưới giác độ khác nhau, các cơng trình nghiên cứu trên đã phân tích thực
trạng phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung ở tầm vĩ mơ; việc tổng hợp số liệu
chỉ dựa trên báo cáo của các huyện, thành, thị, cơ sở xã, phường, thị trấn và các
doanh nghiệp; các giải pháp đưa ra cịn mang tính chung chung; chưa có cơng
trình nào đi sâu nghiên cứu một cách thỏa đáng, có hệ thống, đánh giá đầy đủ,
khách quan cơ sở lý luận và thực trạng hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo
dục ý thức pháp luật cho người lao động và người sử dụng lao động trong các
doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Từ đó, chúng tơi chọn

5


đề tài này làm luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Lý luận và Phương pháp dạy học
bộ môn giáo dục Chính trị. Bởi vì, có tăng cường và nâng cao chất lượng công
tác tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật mới làm cho người lao động, người
sử dụng lao động nhận thức được vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của pháp luật
như một yếu tố không thể thiếu được trong đời sống xã hội, trong lựa chọn và
hành động của con người khi giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội liên quan. Đó
cũng là sự đòi hỏi khách quan từ thực tế đối với các chuyên gia nghiên cứu, xây

dựng luật pháp và các giải pháp tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật trong
đời sống xã hội trong thời kỳ hội nhập.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1 Mục đích
Bước đầu làm rõ cơ sở lý luận của công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức
pháp luật và tìm ra các giải pháp nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền,
giáo dục ý thức pháp luật lao động cho người lao động, người sử dụng trong các
doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu một số khái niệm: ý thức pháp luật; tuyên truyền, giáo dục ý
thức pháp luật... các quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí
Minh và Đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp
luật cho người lao động và người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp để
làm cơ sở lý luận cho đề tài.
Khảo sát thực trạng công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật lao động
cho người lao động, người sử dụng trong các loại hình doanh nghiệp trên địa bàn
thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
Đề xuất phương hướng và các nhóm giải pháp nâng cao chất lượng cơng
tác tun truyền, giáo dục ý thức pháp luật lao động cho người lao động, người
sử dụng trong các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

6


Đề tài tập trung nghiên cứu và giải quyết một số nội dung của vấn đề cần
nâng cao chất lượng tuyên truyền, phổ biến ý thức pháp luật cho người lao động,
người sử dụng trong các loại hình doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Vinh,
tỉnh Nghệ An.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Đề tài được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - LêNin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về công tác tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục ý thức pháp luật.
Đề tài sử dụng các phương pháp biện chứng duy vật, điều tra, phỏng vấn,
phân tích, tổng hợp, kiểm tra, đánh giá, so sánh để nghiên cứu thực trạng, xác
định nguyên nhân để làm cơ sở cho việc đặt ra các giải pháp cho thời gian tới.
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Làm rõ thực trạng công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật cho
người lao động và người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp trên địa bàn
tỉnh Nghệ An; ngồi ra, luận văn có thể làm tư liệu giảng dạy tại các Trường
Cao đẳng, Đại học, Trung học trên địa bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
Đề xuất một số giải pháp góp phần nhằm nâng cao chất lượng công tác
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục ý thức pháp luật nói chung, luật lao động riêng
cho người lao động và người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp trên địa
bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn gồm 2 chương 4 tiết.

7


B. PHẦN NỘI DUNG

Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, GIÁO DỤC
Ý THỨC PHÁP LUẬT CHO NGƢỜI LAO ĐỘNG VÀ NGƢỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ VINH, NGHỆ AN

1.1. Tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật cho ngƣời lao động,

ngƣời sử dụng lao động và các doanh nghiệp là yêu cầu tất yếu, khách quan
trong giai đoạn hiện nay
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản trong đề tài
Ý thức pháp luật
Ý thức là sự phản ánh thế giới xung quanh vào bộ óc con người, ý thức có
kết cấu phức tạp bao gồm các yếu tố cơ bản như: cảm xúc, nhu cầu, ý chí, tri
thức... trong đó tri thức là quan trọng nhất và là phương thức tồn tại của ý thức.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm những quan
điểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống... nảy sinh từ tồn
tại xã hội và phản ảnh tồn tại xã hội trong những giai đoạn nhất định.
Giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân có sự khác nhau tương đối. Ý thức
xã hội và ý thức cá nhân tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ, biện chứng với nhau,
thâm nhập vào nhau và làm phong phú nhau. Ý thức xã hội gồm những hiện
tượng tinh thần, những bộ phận, những hình thái khác nhau, phản ánh tồn tại xã
hội bằng những phương thức khác nhau. Tùy theo góc độ xem xét, chúng ta có
thể phân ý thức xã hội thành các dạng ý thức xã hội thông thường, ý thức lý
luận, tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội.

8


Công lao to lớn của C.Mác và Ph.Ăngghen là phát triển chủ nghĩa duy vật
đỉnh cao, xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử và lần đầu tiên giải quyết khoa
học về vấn đề hình thành và phát triển của ý thức xã hội. Hai ông đã chứng minh
rằng đời sống tinh thần xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở của đời sống
vật chất, rằng không thể tìm nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội trong bản
thân nó, nghĩa là khơng thể tìm trong đầu óc con người mà phải tìm trong hiện
thực vật chất. Sự biến đổi của một thời đại nào đó cũng khơng thể giải thích
được nếu chỉ căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. C.Mác viết:... Không thể nhận

định được về một thời đại đảo lộn như thế căn cứ vào ý thức của thời đại ấy.
Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất,
bằng xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ xã
hội [7, 15]. Luận điểm đã chỉ rõ rằng, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý
thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Mỗi
khi tồn tại xã hội nhất là phương thức sản xuất biến đổi thì những tư tưởng và lý
luận xã hội, những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, văn
hóa, nghệ thuật... sớm muộn sẽ biến đổi theo. Vì vậy, ở những thời kỳ lịch sử
khác nhau nếu chúng ta thấy có những lý luận, quan điểm, tư tưởng xã hội khác
nhau thì đó là do những điều kiện khác nhau của đời sống vật chất quyết định.
Tuy nhiên, ý thức xã hội cũng có tác động trở lại tồn tại xã hội, bởi ý thức
xã hội mang tính độc lập tương đối, Ph.Ăngghen viết: “Sự phát triển của chính
trị, pháp luật, triết học, tơn giáo, văn học, nghệ thuật... đều dựa trên cơ sở sự
phát triển kinh tế. Nhưng tất cả cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến
cơ sở kinh tế” [7, 127]. Như vậy, mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự
phát triển xã hội phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể; vào tính chất của
các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng đối với các nhu cầu phát triển xã
hội; vào mức độ rộng của tư tưởng tiến bộ và ý thức tư tưởng phản tiến bộ đối
với sự phát triển xã hội.
Ý thức xã hội tồn tại trong những hình thái khác nhau: ý thức chính trị;

9


đạo đức; tơn giáo; thẩm mỹ; triết học… ở góc độ nghiên cứu đề tài này, hình
thái ý thức xã hội được đề cập đến là ý thức pháp luật (pháp quyền).
Ý thức pháp quyền là toàn bộ các tư tưởng, quan điểm của một giai cấp về
bản chất và vai trò của pháp luật, về quyền và nghĩa vụ của Nhà nước, các tổ
chức xã hội và công dân, về tính hợp pháp và khơng hợp pháp của hành vi con
người trong xã hội, cùng với nhận thức và tình cảm của con người trong việc

thực thị pháp luật của Nhà nước. Ý thức pháp quyền ra đời cùng với Nhà nước;
nó phản ánh trực tiếp các quan hệ kinh tế của xã hội, trước hết là các quan hệ
sản xuất được thể hiện trong hệ thống pháp luật. Pháp luật là ý chí của giai cấp
thống trị được thể hiện thành luật lệ, do đó mỗi chế độ xã hội, mỗi Nhà nước chỉ
có một hệ thống pháp luật của giai cấp nắm chính quyền. Nhưng trong xã hội có
giai cấp đối kháng, các giai cấp khác nhau lại có những ý thức khác nhau về
pháp luật, phản ánh lợi ích của giai cấp mình. Do đó, hiệu lực của pháp luật
không những phụ thuộc vào sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước mà cịn phụ
thuộc vào trình độ hiểu biết và tâm lý pháp luật của xã hội.
Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, về cấu trúc bao gồm hai
bộ phận: Tâm lý pháp luật và tư tưởng pháp luật. Tâm lý pháp luật hình thành
một cách tự phát dưới dạng tình cảm, tâm trạng , cảm xúc đối với các hiện tượng
pháp luật xảy ra trong đời sống xã hội. Tư tưởng pháp luật là tổng hợp các quan
điểm, quan niệm có tính lý luận, phản ánh các hiện tượng pháp luật một cách sâu
sắc, tự giác dưới dạng các khái niệm, các phạm trù khoa học. Ý thức pháp luật
của một người có vai trị rất quan trọng trong việc thực hiện pháp luật và bảo vệ
pháp luật. Vì vậy nâng cao ý thức pháp luật là trách nhiệm của mỗi công dân.
Ý thức pháp luật là nhận thức của con người (chủ thể chính của pháp luật)
về hành vi pháp luật. Đặc điểm cơ bản của ý thức pháp luật là có hành vi tích
cực: đó là sự hiểu biết và tôn trọng pháp luật, tôn trọng hiến pháp; hành vi tiêu
cực: tất cả những hành vi do vô tình hay cố ý xem thường pháp luật. Vấn đề xây

10


dựng ý thức pháp luật ngày càng được nhiều quốc gia quan tâm và trở thành một
trong những cơ sở quan trọng của công tác tuyên truyền pháp luật.

11



Tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật
Định nghĩa tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật thường được gắn liên
với mục tiêu của tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Tuyên truyền, giáo
dục là sự thống nhất giữa lí luận và thực tiễn; tun truyền, giáo dục cịn cần
thực hiện rộng rãi cách truyền đạt thông tin hai chiều. Nghĩa là, trong tuyên
truyền, giáo dục phải sử dụng đa dạng các hình thức thơng tin phản hồi từ cơ sở,
coi trọng ý kiến của đông đảo nhân dân. Thơng tin phản hồi được thực hiện dưới
nhiều hình thức như: toạ đàm, đối thoại, trao đổi, góp ý… Từ những hình thức
này, mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước sau khi phổ
biến, lấy ý kiến nhân dân sẽ được thực tiễn cuộc sống ở cơ sở kiểm nghiệm, bổ
sung và kiến nghị. Như vậy, có thể hiểu, tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật
là làm cho các cá nhân người lao động và cộng đồng hiểu được, ý thức được
pháp luật để họ tham gia một cách tự giác, có trách nhiệm và hiệu quả trong việc
thực thi pháp luật.
Tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật khơng những thơng qua nói và
viết mà bằng việc làm, bằng hành động cụ thể, nói đi đôi với làm; người làm
công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật phải là người những nắm chắc
kiến thức pháp luật, có trình độ lý luận và kinh nghiệm thực tiễn mà cần phải có
phương pháp thực hiện hiệu quả và phải óc nghĩ, mắt trơng, tai nghe, chân đi,
miệng nói, tay làm trong q trình truyền đạt và trong các các hoạt bổ trợ cho
việc truyền đạt, giảng dạy.
Tuyên truyền, giáo dục pháp luật là một khái niệm rộng bao gồm cả quá
trình nâng cao tri thức pháp luật cho đối tượng và bằng mọi cách (thuyết phục,
nêu gương...) hình thành tình cảm, niềm tin pháp luật cho đối tượng, từ đó nâng
cao ý thức tơn trọng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng.
Từ việc phân tích trên, chúng ta có thể hiểu khái niệm tuyên truyền, giáo dục ý
thức pháp luật theo hai nghĩa:

12



Nghĩa hẹp: Là việc truyền bá pháp luật cho đối tượng nhằm nâng cao tri
thức, tình cảm niềm tin pháp luật cho đối tượng từ đó nâng cao ý thức tôn trọng
pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng.
Nghĩa rộng: Tuyên truyền, giáo dục pháp luật bao gồm tất cả các cơng
đoạn phục vụ cho q trình công tác phổ biến giáo dục pháp luật: định hướng
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; lập chương trình, kế hoạch phổ biến,giáo
dục pháp luật; áp dụng các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật; triển khai
chương trình, kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật; kiểm tra, đôn đốc, uốn nắn,
sơ kết, tổng kết công tác phổ biến giáo dục pháp luật, đúc rút kinh nghiệm,
nghiên cứu khoa học, nâng cao trình độ lí luận... về phổ biến, giáo dục pháp luật.
Trong luận văn này, cụm từ phổ biến, giáo dục pháp luật được dùng cả hai
nghĩa: Trong "hình thức tuyên truyền, giáo dục pháp luật" tuyên truyền, giáo dục
pháp luật có nghĩa hẹp’; trong "Nghiệp vụ tuyên truyền, giáo dục pháp luật”
tuyên truyền, giáo dục pháp luật có nghĩa rộng.
Khái niệm doanh nghiệp
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục
đích thực hiện các hoạt động kinh doanh (khoản 1, Điều 4, Luật Doanh nghiệp
năm 2005).
Mục đích của doanh nghiệp là kinh doanh, tức là việc thực hiện liên tục
một, một số hoặc tất cả các cơng đoạn của q trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu
thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh theo đúng ngành, nghề đã ghi trong Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh; bảo đảm điều kiện kinh doanh theo quy định
của pháp luật khi kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh
nghiệp có trách nhiệm đăng ký mã số thuế, kê khai thuế, nộp thuế và thực hiện
các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật; đảo đảm quyền, lợi ích
của người lao động theo quy định của pháp luật về lao động; thực hiện chế độ


13


bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm khác cho người lao động theo quy
định của pháp luật về bảo hiểm; bảo đảm và chịu trách nhiệm về chất lượng
hàng hoá, dịch vụ theo tiêu chuẩn đã đăng ký hoặc cơng bố. Trong q trình
hoạt động cần thực hiện chế độ thống kê theo quy định của pháp luật về thống
kê; định kỳ báo cáo đầy đủ các thơng tin về doanh nghiệp, tình hình tài chính
của doanh nghiệp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo mẫu quy định; tuân
thủ quy định của pháp luật về quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, bảo
vệ tài ngun, mơi trường, bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng
cảnh. Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Khái niệm ngƣời lao động
Có nhiều quan niệm cho rằng: người lao động là những người trong độ
tuổi lao động theo pháp luật quy định. Họ có cam kết lao động với chủ sử dụng
lao động, thường là nhận yêu cầu công việc, nhận lương và chịu sự quản lý của
chủ lao động trong thời gian làm việc cam kết. Kết quả lao động của họ là sản
phẩm dành cho người khác sử dụng và được trao đổi trên thị trường hàng hóa,
sản phẩm chân tay thì giá trị trao đổi thấp, sản phẩm trí óc thì giá trị trao đổi
cao. Người lao động là người làm công ăn lương. Công việc của người lao động
là theo thỏa thuận, xác lập giữa người lao động và chủ thuê lao động. Thông qua
kết quả lao động như sản phẩm vật chất, sản phẩm tinh thần cung cấp mà người
lao động được hưởng lương từ người chủ thuê lao động; người lao động còn là
người làm các việc mang tính thể chất, thường trong nơng nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp (cách hiểu này ảnh hưởng từ quan niệm cũ: phân biệt người lao động với
người trí thức).
Bộ Luật Lao động quy định, người lao động là người đến tuổi lao động,
có khả năng lao động, đang có giao kết và thực hiện hợp đồng lao động với chủ
sử dụng lao động. Bộ Luật Lao động cũng quy định rõ ràng, cụ thể về các quyền

và nghĩa vụ của người lao động khi tham gia lao động, quy định về hợp đồng lao

14


động, xử lý tranh chấp hợp đồng lao động, các chế độ chính sách đãi ngộ, phúc
lợi xã hội bắt buộc.
Như vậy, để hiểu rõ về người lao động chúng ta phải xem xét các yếu tố
gắn với lao động của người lao động như: sự chuẩn bị năng lực lao động, cam
kết và thực thi cam kết lao động (bao gồm tiếp nhận yêu cầu lao động, phương
pháp và phương tiện lao động, giá thành lao động, đãi ngộ lao động, thái độ lao
động, động lực lao động), kết quả và chất lượng lao động, sự hài lòng và khơng
hài lịng của các bên tham gia hợp đồng lao động.
Khái niệm ngƣời sử dụng lao động
Tại Điều 6 và Điều 8 của Bộ Luật Lao động quy định như sau:
Người sử dụng lao động là doanh nghiệp, cơ quan tổ chức hoặc cá nhân,
nếu là cá nhân thì ít nhất phải đủ 18 tuổi, có thuê mướn, sử dụng và trả cơng lao
động. Người sử dụng lao động có quyền tuyển chọn lao động, bố trí, điều hành
lao động theo nhu cầu sản xuất, kinh doanh; có quyền khen thưởng và xử lý các
vi phạm kỷ luật lao động theo quy định của pháp luật lao động. Người sử dụng
lao động có quyền cử đại diện để thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể
trong doanh nghiệp hoặc thỏa ước lao động tập thể ngành; có trách nhiệm cộng
tác với cơng đồn bàn bạc các vấn đề về quan hệ lao động, cải thiện đời sống vật
chất và tinh thần của người lao động. Người sử dụng lao động có nghĩa vụ thực
hiện hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể và những thỏa thuận khác với
người lao động, tôn trọng danh dự, nhân phẩm và đối xử đúng đắn với người lao
động.
Tại Điều 16 Bộ luật Lao động quy định quyền tuyển chọn lao động của
Chủ sử dụng lao động như sau: Người sử dụng lao động có quyền trực tiếp hoặc
thơng qua các tổ chức giới thiệu việc làm để tuyển chọn lao động, có quyền tăng giảm

lao động phù hợp với nhu cầu sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật.

15


1.1.2. Tính tất yếu, khách quan của cơng tác tun truyền, giáo dục ý
thức pháp luật trong các doanh nghiệp hiện nay
Quan điểm của các nhà kinh điển mácxít, của Đảng và của tư tưởng
Hồ Chí Minh về vấn đề tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật cho người lao
động và người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp.
Trong tư tưởng của Mác - Ăngghen về giáo dục và giáo dục cho cộng
đồng. Mác cho rằng giáo dục cho cộng đồng có vai trị rất quan trọng, từ giáo
dục sẽ giúp cho mọi người nắm vững được cả lí thuyết và thực hành, vận dụng
vào thực tiễn một cách thành thục trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất
cho xã hội: “Công tác giáo dục sẽ làm cho những người trẻ tuổi có khả năng
nắm vững nhanh chóng tồn bộ hệ thống sản xuất trong thực tiễn” [28, 24].
Mác rất coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục cả về lí luận và thực
tiễn. Vì vậy, trong quan điểm của Người, lí luận phải gắn liền với thực tiễn. Phải
đưa đường lối, chủ trương đến với quần chúng nhân dân.
Theo C.Mác: Tư tưởng căn bản không thể thực hiện được gì hết. Muốn
thực hiện thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn [6, 181]. Thực
tế đã chứng minh, tất cả các hoạt động thực tiễn cách mạng, kể cả cách mạng
dân tộc, dân chủ nhân dân cũng như cách mạng xã hội chủ nghĩa chỉ có thể
thắng lợi hồn tồn khi có các chủ trương, đường lối cách mạng đúng đắn. Từ
chủ trương, đường lối cách mạng đó phải phổ biến, tuyên truyền đến cho toàn
thể các tầng lớp nhân dân, vận động quần chúng nhân dân, làm cho dân hiểu,
dân tin, dân làm theo và họ sẽ trở thành lực lượng cách mạng hùng hậu để làm
nên thành công trong các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Khi bàn về mối quan hệ giữa lí luận và thực tiễn, Lênin nói: Q trình

nhận thức chân lí là một q trình từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng
và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Đó là quá trình biện chứng của nhận thức.
Người cũng đã khẳng định “Khơng có lí luận cách mạng thì cũng khơng thể có

16


phong trào cách mạng” [17, 30]. Người cho rằng: Khi đã có đường lối đúng đắn,
vấn đề then chốt là tổ chức thực hiện... nếu khơng thì mọi chỉ thị, nghị quyết chỉ
là mớ giấy lộn.
Các nhà kinh điển Mácxít đề cao công tác tuyên truyền, giáo dục cho
cộng đồng xã hội, đưa các chủ trương, đường lối cách mạng đúng đắn đến với
cộng đồng, với quần chúng nhân dân, vận động quần chúng nhân dân thực hiện
một cách có hiệu quả, nhằm tạo nên sức mạnh thực hiện thành công sự nghiệp
cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn hiện nay những quan
điểm của Mác - Lênin vẫn còn nguyên giá trị. Kế thừa những quan điểm đó
Đảng và Nhà nước ta chỉ đạo phát triển các hình thức tuyên truyền, giáo dục ý
thức pháp luật để góp phần xây dựng nhà nước ta trở thành nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về việc truyên truyền chủ trương, chính sách,
pháp luật cho quần chúng nhân dân
Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ thiên tài - Người thầy vĩ đại của cách mạng Việt
Nam. Những tư tưởng của Người là di sản tinh thần vô giá với những giá trị
nhân văn cao cả. Đặc biệt là tư tưởng về giáo dục và tuyên truyền các chủ
trương, chính sách pháp luật. Tuyên truyền, giáo dục của Hồ Chí Minh là sự
thấm nhuần nguyên tắc lý luận gắn liền với thực tiễn. Theo Hồ Chí Minh, lý
luận có vai trị hết sức to lớn đối với thực tiễn, lý luận như cái kim chỉ nam, nó
chỉ phương hướng cho chúng ta trong cơng việc thực tế. Khơng có lý luận thì
lúng túng như nhắm mắt mà đi.
Tuy nhiên, Người cũng nhắc nhở thêm rằng, có lý luận rồi thì phải biết

kết hợp chặt chẽ với kinh nghiệm thực tế, liên hệ với thực tiễn nếu không lại
mắc phải bệnh lý luận suông. Bởi vì "Lý luận cốt để áp dụng vào cơng việc thực
tế. Lý luận mà không áp dụng vào công việc thực tế là lý luận suông. Và Người
cũng yêu cầu cán bộ, đảng viên, những người trực tiếp tuyên truyền, giáo dục lí
luận chính trị phải gắn lí luận với thực tiễn trong tuyên truyền, đồng thời cần

17


giúp đối tượng vận dụng lí luận vào thực tế. Muốn vậy, theo Hồ Chí Minh cả
người tuyên truyền, giáo dục lí luận và người học lí luận phải tuân thủ quy trình
liên hệ giữa lí luận với thực tế, đó là:
Trước hết, phải liên hệ lí luận với thực tế cơng tác tư tưởng của mình, để
cải tạo mình, nâng cao sự tu dưỡng của mình. Người cho rằng: Muốn cải tạo thế
giới và cải tạo xã hội thì trước hết phải cải tạo bản thân.
Thứ hai, đem lí luận học được phân tích các kinh nghiệm cơng tác đã qua
và tìm ngun nhân của những thành cơng và thất bại.
Thứ ba, liên hệ với những vấn đề thực tế và nhiệm vụ hiện nay, để đề ra
cho Đảng đường lối và phương pháp giải quyết các vấn đề đó như thế nào cho
đúng. Và thơng qua những việc làm đó sẽ giúp cho việc củng cố lập trường,
nâng cao quan điểm và phương pháp của mình.
Người ln đề cao công tác tuyên truyền, phổ biến về chủ trương, chính
sách, pháp luật đến với mọi người dân. Để việc tuyên truyền có hiệu quả, người
tuyên truyền và cách tuyên truyền là rất quan trọng. Người nói: “Tuyên truyền là
đem một việc gì đó nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu khơng đạt
được mục đích đó là tun truyền thất bại. Muốn thành cơng thì phải biết cách
tuyên truyền. Trước hết mình phải hiểu rõ... Hai là phải biết cách nói. Nói thì
phải đơn giản, rõ ràng, thiết thực, phải có đầu có đi cho ai cũng hiểu được,
nhớ được” [22, 162]. Người còn khuyên: “Khi tuyên truyền cán bộ phải dùng
cách thuyết phục chứ không được dùng mệnh lệnh, phải ra sức làm cho quần

chúng nhân dân tin tưởng ở Đảng...” [22, 564].
Theo Hồ Chí Minh, muốn làm tốt cơng tác tun truyền thì người cán bộ
phải hiểu quần chúng, tin quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng, làm cho
dân tin, dân phục, dân u, có như vậy mới: “Đồn kết quần chúng chặt chẽ
xung quanh Đảng, tổ chức, tuyên truyền và vận động quần chúng hăng hái thực
hiện chính sách và nghị quyết của Đảng” [22, 290].

18


Người cho rằng, để cho dân hiểu được tầm quan trọng của việc tuyên
truyền, giáo dục thường xuyên, được cập nhật thơng tin và phải thực hiện chính
sách, pháp luật của Nhà nước... thì phụ thuộc vào cơng tác tun truyền. Người
cho rằng: “Người tuyên truyền và cách tuyên truyền là hết sức quan trọng”.
Tuyên truyền, giáo dục của Hồ Chí Minh thể hiện ngay trong cách viết,
cách nói của Người. Trong tun truyền, nói hay viết ln phải ngắn gọn, giản
dị, rõ ràng, sinh động và hấp dẫn, phù hợp với quảng đại quần chúng nhân dân
để mọi người dễ hiểu, dễ nhớ và làm theo. Người nhắc nhở: Tuyên truyền cũng
thế, huấn luyện cũng thế. Phải làm sao dễ hiểu, nói sao để người ta hiểu được,
hiểu để làm. Để đạt được điều đó, theo Hồ Chí Minh, đi nói chuyện ở đâu, phải
hiểu rõ trình độ dân nơi ấy, trong tuyên truyền phải "nói thiết thực, nói đúng lúc,
đúng chỗ" và có phương pháp thích hợp với từng đối tượng.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển các hình thức tuyên
truyền, giáo dục và việc tuyên truyền chủ trương, chính sách, pháp luật cho
cộng đồng xã hội và các doanh nghiệp
Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng việc phát triển các hình thức tuyên
truyền, giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân nói chung và người lao động nói
riêng. Với mục đích đẩy mạnh hơn nữa việc truyên truyền chủ trương, chính
sách, pháp luật. Ban Bí Thư Trung ương đã ban hành Chỉ Thị số 32-CT/TW “Về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật,

nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân”. Chỉ thị đã nêu rõ:
“Trong những năm qua, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đã được Đảng,
Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, coi đó là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm... Trước yêu cầu đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân, cơng tác phổ biến, giáo dục pháp luật cần được tăng cường thường xuyên,
liên tục và ở tầm cao hơn, nhằm làm cho cán bộ, nhân dân hiểu biết và chấp
hành nghiêm chỉnh pháp luật, thơng qua đó mà kiểm tra, giám sát việc thi hành

19


pháp luật” [2, 2]. Chính phủ cũng đã chỉ đạo: “Vận dụng linh hoạt các hình thức,
phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật... Đẩy mạnh các hoạt động tuyên
truyền pháp luật trực tiếp thông qua đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên...
các phương tiện thông tin đại chúng để nâng cao hoạt động tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật” [25, 2].
Trong giai đoạn hiện nay khi Đảng và Nhà nước ta đang tiếp tục thực hiện
công cuộc đổi mới toàn diện mọi mặt của đời sống xã hội với chủ trương cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng Nhà nước Việt Nam pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, thì cơng tác phổ biến giáo dục pháp luật càng phải được đòi hỏi
tăng cường hơn nữa để đưa hệ thống pháp luật đã được đổi mới đi vào cuộc
sống, làm nền tảng hình thành, nâng cao ý thức pháp luật và thói quen sống, làm
theo pháp luật của mỗi cơng dân trong xã hội. Chính vì vậy, Đảng ta đã khẳng
định công tác phổ biến giáo dục pháp luật là một bộ phận quan trọng trong công
tác giáo dục chính trị, tư tưởng của Đảng; là một trong những mắt xích quan
trọng có ý nghĩa đặc biệt của sự tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết số 61/2007/NQ-CP ngày 07 tháng 12 năm 2007 của Chính
phủ về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09 tháng 12 năm 2003
của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) về tăng cường sự lãnh đạo của

Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành
pháp luật của cán bộ, nhân dân, trong đó nhấn mạnh: Cơng tác phổ biến, giáo
dục pháp luật cần phải được tiến hành một cách thường xuyên, liên tục và ở tầm
cao hơn nhằm làm cho cán bộ và nhân dân hiểu biết và chấp hành nghiêm chỉnh
pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Chính phủ ban hành Nghị định số 66/2008/NĐ-CP ngày 25/5/2008 về hỗ
trợ pháp lý cho doanh nghiệp; Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
37/2008/QĐ-TTg ngày 12/3/2008 phê duyệt chương trình phổ biến, giáo dục
pháp luật từ năm 2008 -2012 và Quyết định số 31/2009/QĐ-TTg ngày

20


24/2/2009 phê duyệt đề án Tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người lao động
và người sử dụng lao động trong các loại hình doanh nghiệp từ năm 2009 2012, với mục tiêu chung là: Tiếp tục tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tôn
trọng và chấp hành pháp luật nói chung, pháp luật lao động nói riêng đối với
người lao động và người sử dụng lao động, xây dựng quan hệ lao động hài hòa
tại các doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, ổn định xã hội, xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân. Mục tiêu cụ thể đến hết năm 2012, phấn đấu đạt 95%
người sử dụng lao động được tuyên truyền, phổ biến pháp luật lao động và các
quy định pháp luật liên quan tới hoạt động của doanh nghiệp và 70% người lao
động được tuyên truyền, phổ biến pháp luật lao động và các quy định pháp luật
liên quan tới quyền và nghĩa vụ của công dân và người lao động.
Quan điểm của Đảng ta về việc tạo điều kiện cho người dân học tập
thường xuyên, suốt đời, được cập nhật thông tin trên tất cả các lĩnh vực của cuộc
sống. Trong đó Đảng rất chú trọng việc truyên truyền, thuyết phục quần chúng
nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước. Đảng đã chỉ đạo các cấp uỷ Đảng, các cơ quan Nhà nước, các đoàn

thể phải thường xuyên phổ biến giải thích pháp luật trong các tầng lớp nhân dân
đưa việc giáo dục ý thức pháp luật vào các trường học, các cấp học, xây dựng ý
thức sống có pháp luật và tơn trọng pháp luật. Các cơ quan Nhà nước phối hợp
chặt chẽ với các đoàn thể, vận động quần chúng thực hiện đường lối, chính sách
của Đảng, kế hoạch và pháp luật của Nhà nước. Các đồn thể có nhiệm vụ giáo
dục đồn viên, hội viên của mình về chủ nghĩa xã hội, về pháp chế xã hội chủ
nghĩa... Với mục đích: “Tuyên truyền thuyết phục quần chúng tự giác thi hành
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước” [9, 152].
Thực hiện sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, tỉnh Nghệ An đã chú trọng
phát triển các hình thức tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật. Trong Văn kiện
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI đã nhấn mạnh: “Tổ chức Cơng đồn

21


cần đổi mới công tác tuyên truyền giáo dục, nâng cao giác ngộ giai cấp, bản lĩnh
chính trị cho người lao động. Động viên đội ngũ công nhân viên chức, người lao
động khơng ngừng học tập nâng cao trình độ nghiệp vụ, trình độ tay nghề, rèn
luyện ý thức kỷ luật, tăng năng suất lao động, hiệu quả công tác” [35, 66].
Ban Thường vụ Tỉnh uỷ ban hành Chỉ thị số 13-CT/TU ngày 28/7/2003
về về tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Nghệ
An; UBND tỉnh Nghệ An đã ban hành Quyết định số 4172/QĐ-UBND ngày
24/8/2009 phê duyệt đề án “Tăng cường hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trên
địa bàn tỉnh Nghệ An từ nay đến năm 2015”, với mục tiêu thông qua hoạt động
hỗ trợ pháp lý nhằm phổ biến, bồi dưỡng kiến thức pháp luật kinh doanh cho
người quản lý doanh nghiệp; bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ tư vấn pháp lý cho
cán bộ pháp chế, cán bộ phụ trách công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong
doanh nghiệp, nâng cao nhận thức pháp luật cho người lao động, tạo điều kiện
thuận lợi để doanh nghiệp thực thi tốt pháp luật, phục vụ kinh doanh có hiệu
quả; xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước, tổ chức

cơng đồn và doanh nghiệp trong việc thực hiện các hoạt động hỗ trợ pháp lý
cho doanh nghiệp, với mục tiêu phấn đấu đến năm 2012: 80% cán bộ, công chức
quản lý doanh nghiệp; 60% đội ngũ quản lý doanh nghiệp; 40% người lao động
được hỗ trợ pháp lý; Từ năm 2013 đến năm 2015: 100 % cán bộ, công chức
quản lý doanh nghiệp; 80% đội ngũ quản lý doanh nghiệp; 70% người lao động
được hỗ trợ pháp lý.
Sự cần thiết của công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật
trong các doanh nghiệp hiện nay
Doanh nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng của nền kinh tế, là bộ phận chủ
yếu tạo ra tổng sản phẩm trong nước (GDP). Doanh nghiệp là yếu tố quan trọng,
quyết định đến chuyển dịch các cơ cấu lớn của nền kinh tế quốc dân như: Cơ
cấu nhiều thành phần kinh tế, cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu kinh tế giữa các
vùng, địa phương. Doanh nghiệp phát triển là nhân tố đảm bảo cho việc thực

22


hiện các mục tiêu của cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước, nâng cao hiệu quả
kinh tế, giữ vững ổn định, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong
q trình hội nhập.
Có thể nói vai trị của doanh nghiệp không chỉ quyết định sự phát triển
bền vững về mặt kinh tế mà còn quyết định đến sự ổn định và lành mạnh hoá
các vấn đề xã hội, nhất là giải quyết việc làm; xố đói, giảm nghèo; nâng cao thu
nhập, cải thiện đời sống của người lao động.
Đối với thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, trong những năm gần đây, số
doanh nghiệp tăng nhanh đã giải quyết được nhiều việc làm, tăng thu nhập cho
người lao động. Tính từ năm 2006 đến tháng 8/2010 đã phát triển, thành lập lập
4271 doanh nghiệp, tăng bình quân 21,6 %/năm; số hộ được cấp đăng ký kinh
doanh 12.852 hộ, tăng bình quân 11,1% [40, 2]. Với sự phát triển nhanh chóng
các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố đã thu hút hơn 9000 lao động vào làm

việc, góp phần tạo việc làm ổn định việc làm tại chỗ cho 13,92 vạn lao động,
trong đó tạo việc làm mới hơn 12.000 lao động; giảm được 2841 hộ nghèo, hạn
chế gia tăng hộ nghèo trên địa bàn, đưa tỷ lệ hộ nghèo từ 8,5% cuối năm 2005
xuống còn 2% vào cuối năm 2010 [40, 14]. Như vậy, trong hoạt động của các
doanh nghiệp ngồi quốc doanh đã góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập
cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi
và giảm tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực thành, thị.
Lao động ở khu vực doanh nghiệp có thu nhập cao hơn nhiều so với khu
vực cá thể và hộ gia đình, đầu năm 2010 thu nhập bình quân tháng của một lao
động gần 1,5 triệu đồng (tăng 30% so với năm 2000). Thu nhập cao và tăng
nhanh của lao động khối doanh nghiệp góp phần cải thiện và nâng cao mức sống
chung của toàn xã hội và tham gia vào q trình chuyển dịch cơ cấu lao động từ
nơng nghiệp sang các ngành phi nơng nghiệp.
Doanh nghiệp có trách nhiệm đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động,
nhưng trong thực tế vấn đề này có nhiều doanh nghiệp chưa được thực hiện

23


nghiêm túc. Một số doanh nghiệp không tham gia hoặc một thời gian dài mới
tham gia bảo hiểm xã hội cho người lao động; số doanh nghiệp nợ tiền Bảo hiểm
xã hội cịn nhiều, có doanh nghiệp nợ hàng tỷ đồng (số doanh nghiệp này chủ
yếu thuộc các ngành xây dựng cơ bản, Nông nghiệp phát triển nông thôn, Dệt,
May); tình trạng người lao động đủ điều kiện được hưởng chế độ Bảo hiểm xã
hội nhưng không được thực hiện vì doanh nghiệp cịn nợ Bảo hiểm Xã hội chậm
được khắc phục; việc giải quyết các chế độ ốm đau thai sản chưa kịp thời, cịn
một số ít tai nạn lao động chậm được giải quyết chế độ. Số lao động nghỉ nộp
Bảo hiểm Xã hội còn nhiều (trong số này chủ yếu là lao động khơng bố trí được
việc làm lâu dài).
Nguyên nhân chính của việc vi phạm chính sách Bảo hiểm Xã hội là:

công tác tuyên truyền phổ biến Pháp luật lao động, chính sách Bảo hiểm Xã hội
chưa thật sâu rộng, người lao động chưa nhận thức đầy đủ quyền và nghĩa vụ
của mình khi tham gia Bảo hiểm Xã hội. Triển khai công tác Bảo hiểm Xã hội
chủ yếu tập trung ở các doanh nghiệp Nhà nước và cơ quan hành chính sự
nghiệp, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chưa được coi trọng trong tuyên
truyền vận động và bắt buộc nên số người tham gia Bảo hiểm Xã hội cịn ít. Chủ
sử dụng lao động cố ý vi phạm (trốn tránh, gian lận, cố tình nộp chậm dành vốn
cho sản xuất kinh doanh để thu lợi), không nghiêm túc thực hiện quyền lợi và
nghĩa vụ Bảo hiểm Xã hội của mình và người lao động. Tổ chức cơng đồn cơ
sở cịn yếu và thiếu (nhất là khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên 60%
doanh nghiệp chưa có tổ chức cơng đồn) khơng đủ khả năng đại diện để bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng của người lao động. Chế tài xử phạt hành vi gian
lận, trốn tránh, chậm nộp Bảo hiểm Xã hội chưa đủ nghiêm khắc; mức phạt cho
một hành vi vi phạm cịn rất thấp nên có tình trạng doanh nghiệp chấp nhận nộp
phạt song vẫn khơng đóng Bảo hiểm Xã hội.
Về hợp đồng lao động, dưới áp lực của nhu cầu việc làm, của tình hình
sản xuất kinh doanh thì người lao động luôn phải chịu phần thua thiệt khi ký kết

24


và thực hiện hợp đồng lao động, tình trạng vi phạm của chủ sử dụng lao động
trong nhiều đơn vị ký các hợp đồng lao động chuỗi có thời hạn dưới 3 tháng để
làm những cơng việc có tính chất thường xuyên và lâu dài.
Về an toàn vệ sinh lao động, theo đánh giá của các ngành liên quan thì
trong 10 năm qua, cơng đồn các cấp đã tổ chức hoạt động về công tác bảo hộ
lao động nhằm cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao sức khoẻ cho người lao
động như: tích cực, chủ động phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước, người
sử dụng lao động, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, huấn luyện, kiểm tra, giám
sát thực hiện các chế độ, chính sách về bảo hộ lao động, xây dựng mạng lưới an

toàn vệ sinh viên; tổ chức hoạt động có hiệu quả câu lạc bộ bảo hộ lao động;
phối hợp triển khai có hiệu quả Tuần lễ quốc gia về an toàn vệ sinh lao động do
Nhà nước phát động hàng năm; tổ chức 10 cuộc hội thảo công tác bảo hộ lao
động; xây dựng và chỉ đạo các cấp cơng đồn thực hiện chương trình hành động
thực hiện nghị quyết của Tổng Liên đồn Lao động Việt Nam về đẩy mạnh cơng
tác bảo hộ lao động trong công nhân viên chức lao động. Liên đoàn lao động
tỉnh tổ chức tập huấn về công tác bảo hộ lao động cho hơn 700 lượt người là cán
bộ cơng đồn chun trách và cán bộ cơng đồn cơ sở; phối hợp với Ban Bảo hộ
lao động của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, đoàn kiểm tra liên ngành của
tỉnh tiến hành kiểm tra 135 cuộc, tại 1235 đơn vị. Qua kiểm tra đã phát hiện và
uốn nắn kịp thời những sai sót trong cơng tác an tồn lao động và phịng chồng
cháy nổ của các cơ quan đơn vị; Tổ chức phong trào phong trào "Xanh, sạch,
đẹp bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động" từ năm 1999 đến nay được cán bộ, công
nhân, viên chức lao động hưởng ứng, góp phần tạo mơi trường lao động an toàn,
sạch đẹp.
Hoạt động của Câu lạc bộ Bảo hộ lao động do Liên đoàn lao động tỉnh
chủ trì từ năm 1999 đến nay đã phát huy hiệu quả tích cức, góp phần giảm thiểu
các vụ tai nạn lao động tại các đơn vị là thành viên câu lạc bộ. Tham gia điều tra
các vụ tai nạn lao động đảm bảo đúng qui định của pháp luật.

25


×