Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên thị xã sa đéc tỉnh đồng tháp trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (903.74 KB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHẠM VĂN HOÀ

NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO THANH NIÊN
THỊ XÃ SA ĐÉC TỈNH ĐỒNG THÁP
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

ĐỒNG THÁP, THÁNG 12 NĂM 2010


D:\LUẬN VĂN THẠC SỸ\2010\LA.008446.doc

-2-

LỜI CẢM ƠN

Lời nói đầu tiên tơi xin chân thành biết ơn đối với q thầy, cơ giáo Khoa
Giáo dục chính trị, Khoa sau Đại học trường Đại học Vinh và thầy, cô Khoa sau
Đại học trường Đại học Đồng Tháp đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tơi tham
gia học tập suốt thời gian khố học. Q thầy, cơ đã dành nhiều tâm huyết truyền
đạt những tri thức q báu, giúp tơi hồn thành chương trình học và luận văn tốt
nghiệp. Trong đó, Hội đồng bảo vệ luận văn tốt nghiệp và đặc biệt là thầy
PGS.TS Đoàn Minh Duệ đã giảng dạy, hướng dẫn tận tình giúp đỡ tơi trong suốt
thời gian học tập, nghiên cứu, đã đóng góp những ý kiến q báu chân tình để tơi
hồn thành luận văn tốt nghiệp.
Một lần nữa tôi xin gửi lời cám ơn đến Ban Giám hiệu hai trường Đại học


Vinh và Đồng Tháp, q thầy cơ Khoa Giáo dục chính trị, thầy cơ khoa sau Đại
học hai trường; các cộng sự, bạn bè cơ quan đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho
tôi trong suốt quá trình theo học Chương trình Cao học trường Đại học Vinh mở
tại trường Đại học Đồng Tháp cũng như làm hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Đồng Tháp, tháng 12 năm 2010
Tác giả luận văn


D:\LUẬN VĂN THẠC SỸ\2010\LA.008446.doc

-3-

MỤC LỤC

A. Mở đầu……………………………………………………….............Trang 3
B. Nội dung……………………………………………………………...Trang 8
Chương 1. Giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên là yêu cầu cấp thiết
trong sự nghiệp cách mạng của Đảng ta………………………………Trang 8
1.1. Vai trò của việc giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên hiện nay…..Trang 8
1.2. Nội dung và phƣơng pháp giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên
trong tình hình hiện nay……………………………………..………..Trang 22
1.3. Thực trạng đạo đức lối sống và công tác giáo dục đạo đức lối sống cho
thanh niên ở thị xã Sa Đéc trong giai đoạn hiện nay………………..Trang 32
Kết luận chƣơng.....................................................................................Trang 43
Chương 2. Phƣơng hƣớng và những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu
quả công tác giáo dục đạo đức lối sống cho thanh niên thị xã Sa Đéc đến
năm 2020……………………………………………………………….Trang 44
2.1. Phƣơng hƣớng chung……………………………………………..Trang44
2.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức,
lối sống cho thanh niên thị xã Sa Đéc trong giai đoạn hiện nay………….Trang 50

Kết luận Chƣơng 2…………………………………….………………Trang 78
C. Kết luận………………………..……………………………………Trang 79
Danh mục tài liệu tham khảo…………………………………………Trang 81


D:\LUẬN VĂN THẠC SỸ\2010\LA.008446.doc

-4-

A. MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử cách mạng Việt Nam trong gần một thế kỷ qua đã chứng minh,
thanh niên có vai trị hết sức quan trọng, có những cống hiến to lớn cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng một nước Việt Nam
giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước tiến lên chủ nghĩa
xã hội.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh ln dành
cho thanh niên tình cảm thương yêu sâu sắc và sự quan tâm, đào tạo bồi dưỡng
ân cần. Một trong những di sản tinh thần vô giá mà Người để lại cho nhân dân ta
và thế hệ trẻ là những tư tưởng chiến lược về giáo dục, đào tạo, tổ chức và phát
huy vai trò to lớn của thanh niên trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước.
Trong thực tế của cuộc sống cho thấy, việc nghiên cứu và vận dụng sáng
tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức lối sống cho thanh niên là nhiệm
vụ quan trọng, nhằm bồi dưỡng và phát huy lực lượng thanh niên trong thời kỳ
đổi mới, thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Trong những năm qua việc giáo dục lý tưởng cách mạng, giáo dục đạo
đức lối sống cho thanh niên đã được các cấp uỷ, chính quyền, Mặt trận đồn thể

tập trung giáo dục thường xuyên trên nhiều lĩnh vực. Trên lĩnh vực kinh tế đã
xuất hiện nhiều tấm gương thanh niên làm kinh tế giỏi, năng động, sáng tạo.
Trong lao động sản xuất, trong nghiên cứu khoa học nhiều tài năng trẻ, nhiều
thanh niên đạt giải thưởng cao ở các kỳ thi quốc gia và quốc tế; trên lĩnh vực
xây dựng và bảo vệ tổ quốc, nhiều thanh niên đã tích cực tham gia các phong
trào “thanh niên tình nguyện tuổi trẻ giữ nước”. “Đi đầu trong các phong trào
phòng chống tệ nạn xã hội, giữ gìn trật tự đường phố, giữ gìn vệ sinh mơi


D:\LUẬN VĂN THẠC SỸ\2010\LA.008446.doc

-5-

trường” …Song bên cạnh số đông thanh niên tiên tiến đó vẫn cịn một số bộ
phận thanh niên chưa theo kịp bước tiến của đất nước, thậm chí một số thanh
niên phai nhạt lý tưởng cách mạng, thiếu chí tiến thủ và chạy theo lối sống thực
dụng, lười lao động, tham gia vào các tệ nạn xã hội ….. Trong thời đại ngày nay,
khi mà tình hình trong nước và quốc tế đang có nhiều diễn biến phức tạp, thuận
lợi và nguy cơ thách thức đan xen, thế giới đã đi qua những năm đầu thế kỷ
XXI, thế kỷ của sự bùng nổ thông tin, sự phát triển của cơng nghệ cao và có thể
nói thanh niên là đối tượng dễ bị tác động nhanh và mạnh mẽ nhất.
Ở thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp, đất hẹp người đơng, trong q trình đơ
thị hố, cơng nghiệp - thương mại - dịch vụ phát triển. Đây là môi trường thuận
lợi cho thanh niên Sa Đéc phát huy tính năng động, sáng tạo vốn có của mình,
để tham gia lao động sản xuất, kinh doanh làm giàu cho bản thân, gia đình và xã
hội. Tuy nhiên vẫn cịn một bộ phận thanh niên chịu tác động của cơ chế thị
trường, đua đòi theo lối sống phương Tây, đạo đức xuống cấp, thờ ơ, bàng quan
với các vấn đề xã hội, tổ chức quậy phá, quậy rối trật tự cơng cộng, phạm pháp
hình sự, mãi dâm, hút chích…
Từ những thực tế trên, vấn đề đặt ra là cần đẩy mạnh giáo dục chính trị tư

tưởng, đạo đức lối sống cho thanh niên, nhằm đào tạo cho họ bản lĩnh chính trị
vững vàng, có đạo đức lối sống, giỏi về chun mơn có sức khoẻ để góp phần
cùng với các tầng lớp trong cộng đồng dân tộc Việt Nam thực hiện thành công
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cho đến nay, công tác giáo dục đạo đức lối sống, chính trị tư tưởng cho
thanh niên đã có nhiều cơng trình khoa học đề cập đến, nhưng chưa có cơng
trình nào trình bày một cách hệ thống thực trạng của công tác giáo dục đạo đức
lối sống cho thanh niên thị xã Sa Đéc và những giải pháp khả thi cho công tác
này. Xuất phát từ yêu cầu cấp bách đó chúng tơi mạnh dạn lựa chọn đề tài:
“Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức, lối sống
cho thanh niên thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay”. Làm đề


D:\LUẬN VĂN THẠC SỸ\2010\LA.008446.doc

-6-

tài luận văn khoa học giáo dục, chuyên ngành Lý luận và phương pháp giảng
dạy chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, nhiều bài viết về
đạo đức, lối sống và giáo dục đạo đức cho thanh niên, dưới góc độ tâm lý học như:
PGS.TS Đoàn Minh Duệ và các cộng tác viên với đề tài “ Tình hình tư
tưởng đạo đức lối sống cho các sinh viên trường Đại học, Cao đẳng ở các tỉnh
Bắc miền Trung”, 1998. Nghệ An
Giáo sư Phạm Tất Dong đã đi sâu nghiên cứu mối quan hệ giữa hoạt động
giáo dục hướng nghiệp giáo dục lao động, dạy nghề với mục tiêu giáo dục đạo
đức lối sống cho thế hệ trẻ.
Đào Ngọc Dung, Bí thư thứ nhất Trung ương Đồn thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh “Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên”. Trích

tham luận Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X.
Văn Tùng “Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc giáo dục đạo đức cách mạng
cho đoàn viên, thanh niên, Nhà xuất bản Thanh Niên, Hà Nội năm 2010.
Bài báo của Vũ Trọng Kim đăng trên tạp chí Cộng sản số 21 (11/1997)
“Giáo dục đạo đức, chính trị tư tưởng cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay”
Tư tưởng Hồ Chí Minh “Về bồi dưỡng giáo dục thanh niên” tạp chí Tư
tưởng văn hoá số 10, 2003.
Nghị quyết 04-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khố VII
về cơng tác thanh niên trong tình hình mới.
Nghị quyết 25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hố-hiện đại hố.
Vũ Trọng Kim “Quản lý Nhà nước về công tác thanh niên trong thời kỳ
mới” Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 1999.


D:\LUẬN VĂN THẠC SỸ\2010\LA.008446.doc

-7-

Kế hoạch số 05-KH/TU của Ban Thường vụ Thị uỷ Sa Đéc về việc thực
hiện Chỉ thị số 02-CT/TU của Tỉnh uỷ Đồng Tháp về củng cố xây dựng Hội
Liên hiệp thanh niên thị xã Sa Đéc giai đoạn 1995-2005.
Chương trình số 125/CT-UB thực hiện chiến lược công tác thanh niên đến
năm 2010 của Uỷ ban nhân dân thị xã Sa Đéc.
Chỉ thị 02-CT/TU của Tỉnh uỷ Đồng Tháp về củng cố và xây dựng tổ chức
Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam các cấp trong Tỉnh, giai đoạn 1995-2005.
Các cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập đến công tác giáo dục đạo đức,
lối sống cả về mặt lý luận và thực tiễn, các tác giả đã đưa ra những giải pháp
thiết thực nhằm định hướng cho công tác giáo dục đạo đức, lối sống. Những

công trình trên là những tài liệu hết sức bổ ích khi nghiên cứu về vấn đề này.
Tuy vậy, cho đến nay chưa có một cơng trình nào nghiên cứu một cách có hệ
thống và sâu sắc về đạo đức, lối sống cho thanh niên trên địa bàn thị xã Sa Đéc,
tỉnh Đồng Tháp. Vì vậy nghiên cứu đề tài này khơng trùng với các cơng trình
khoa học đã được cơng bố
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích
Làm rõ khái niệm đạo đức, lối sống và vai trị của nó, từ đó đề xuất những
phương hướng, giải pháp nâng cáo hiệu quả giáo dục đạo đức lối sống cho thanh
niên thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ cơ sở lý luận của công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh
niên hiện nay.
- Làm rõ thực trạng công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên
trên địa bàn thị xã Sa Đéc những năm gần đây.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo
đức lối sống cho thanh niên thị xã Sa Đéc đến năm 2020.


D:\LUẬN VĂN THẠC SỸ\2010\LA.008446.doc

-8-

4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin và
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác thanh niên, quan điểm, chính sách của Đảng,
Nhà nước về giáo dục thanh niên trong tình hình mới.
Đề tài sử dụng đồng thời nhiều phương pháp khác nhau như: phương
pháp phân tích tổng hợp, phương pháp lịch sử, phương pháp chuyên gia,
phương pháp điều tra xã hội học….

5. Phạm vi nghiên cứu
Công tác giáo dục đạo đức lối sống cho thanh niên thị xã Sa Đéc, tỉnh
Đồng Tháp
6. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn
Luận văn sẽ làm rõ hơn vai trò giáo dục đạo đức lối sống cho thanh niên
đồng thời có thể sẽ làm tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý trong việc giáo
dục đạo đức lối sống cho thanh niên trong tình hình hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
nghiên cứu của đề tài được kết cấu thành 2 chương, 5 tiết.
Chƣơng 1: Giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên là một yêu cầu cấp
thiết trong sự nghiệp cách mạng của Đảng ta.
Chƣơng 2: Một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
hiệu quả công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên thị xã Sa Đéc giai
đoạn từ nay đến năm 2020.


D:\LUẬN VĂN THẠC SỸ\2010\LA.008446.doc

-9-

B. NỘI DUNG
Chương 1
Giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên là yêu cầu cấp thiết
trong sự nghiệp cách mạng của Đảng ta
1.1.Vai trò của việc giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên hiện nay
1.1.1. Một số quan điểm về đạo đức, lối sống
Từ trước đến nay đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về đạo đức, lối
sống. Đạo đức là một bộ phận trọng yếu trong kiến trúc thượng tầng, là một
phạm trù thuộc hình thái ý thức xã hội. Đạo đức cùng với các yếu tố như: thể

chế chính trị, triết học, tôn giáo, pháp luật, văn học, nghệ thuật… đều phản
ánh tồn tại xã hội.
Đạo đức giống pháp luật về chức năng xã hội, song nó khác pháp luật ở
phương thức điều tiết. Khái niệm đạo đức được nhận thức trên nhiều góc độ
khác nhau: như triết học, kinh tế chính trị, xã hội học… Các cơng trình đã cơng
bố xem xét vấn đề đạo đức trên quan điểm chung, gắn với chế độ XHCN đang
từng bước hình thành ở nước ta từ sau thắng lợi cách mạng dân tộc dân chủ đến
nay. Do vậy, đặc trưng được nhấn mạnh của vấn đề đạo đức ở đây là đặc trưng
xã hội của nó.
Đạo đức với tư cách là một hiện tượng xã hội, phản ánh các mối quan hệ
hiện thực, bắt nguồn từ bản thân cuộc sống của con người. Trong đời sống của
mỗi con người, quy luật xã hội tất yếu đòi hỏi họ phải ý thức được ý nghĩa, mục
đích hoạt động của mình trong q khứ, hiện tại và nhu cầu phải làm gì trong
tương lai. Có thể nói, đạo đức là một phạm trù thuộc hình thái ý thức xã hội
được hình thành từ rất sớm trong lịch sử phát triển nhân loại và được mọi xã hội,
mọi giai cấp, mọi thời đại quan tâm. Sự phát triển đạo đức xã hội từ thấp đến
cao như những nấc thang giá trị văn minh con người, trên cơ sở phát triển của


D:\LUẬN VĂN THẠC SỸ\2010\LA.008446.doc

- 10 -

sức sản xuất vật chất và thông qua đấu tranh, gạn lọc, kế thừa mà nội dung đạo
đức ngày càng phong phú và hoàn thiện hơn.
Ý thức đạo đức xuất hiện cùng với sự xuất hiện của xã hội lồi người, cịn
đạo đức học, những tư tưởng về đạo đức với tư cách là một bộ phận của tri thức
triết học, xuất hiện cách đây hơn 26 thế kỷ trong Triết học Trung Quốc, Ấn Độ
và Hy Lạp cổ đại. Danh từ “đạo đức” bắt nguồn từ tiếng La tinh là mos có nghĩa
là lề thói, cịn theo tiếng Hy Lạp thì Ethicos là lề thói, tập tục. Vì vậy, khi nói

đến đạo đức là nói đến lề thói, tập tục liên quan đến mối quan hệ đối xử với
nhau giữa con người với con người trong đời sống xã hội.
Ở phương Đông, phạm trù “đạo” “đức” xuất hiện trong các học thuyết
chính trị- xã hội của Nho giáo, Lão giáo… Theo Lão tử “đạo” là bản nguyên, là
con đường sinh thành, biến hoá của vạn vật, cũng cịn có nghĩa là con đường
sống của con người trong xã hội. Mở rộng phạm trù “đạo” trong quan hệ chính
trị xã hội, Lão tử đã đề ra thuyết “vơ vi”, có nghĩa là con người cần phải “hành
động theo lẻ tự nhiên, thuần phác, không hành động theo tính chất giả tạo, gị ép
trái với bản tính tự nhiên của mình”. [48; 52]. Để làm được điều đó con người
phải sống khoan dung, khiêm nhường, khơng phô trương, thái quá, phải thấu
suốt mọi lẻ tự nhiên. Trong Triết học Trung Quốc cổ đại, phạm trù “đạo” luôn
được xem xét trong mối quan hệ với phạm trù “đức”, đức là biểu hiện của đạo,
đức đó chính là “biểu hiện khát vọng được trời ban cho phước lành”. Theo
Khổng Tử làm người thì phải “khắc kỷ tu thân”, có nghĩa là để đạt được đạo đức
con người phải tu dưỡng, phải hoàn thiện về mặt đạo đức, làm những việc chính
đáng mà khơng gượng ép.
Hệ thống triết học Trung Quốc nói chung đều lấy đạo đức- luân lý làm nội
dung chủ yếu cho các luận thuyết, xem nó là yếu tố chi phối toàn bộ đời sống
tinh thần của xã hội. Vì vậy, những nguyên tắc đạo đức được xem như “khuôn
vàng, thước ngọc” để đánh giá con người. Trong cuộc sống con người phải “tồn
kỳ tâm, dưỡng kỳ tính” có nghĩa là phải rèn luyện đạo đức, nhân cách. Khi có
được phẩm chất đạo đức cao đẹp thì lúc đó con người khơng chỉ biết mình mà


D:\LUẬN VĂN THẠC SỸ\2010\LA.008446.doc

- 11 -

còn được biết cả thiên hạ, sẵn sàng chấp nhận gian khổ, hy sinh để đạt được luân
lý, đạo đức và được mọi người trong xã hội đánh giá cao.

Ở phương Tây, ngay từ thời cổ đại, các nhà triết học kể cả theo trường phái
duy vật hay duy tâm đều bàn về đạo đức. Khác với phương Đông coi đạo đức là
nội dung chủ yếu trong các học thuyết chính trị- xã hội, là khuôn mẫu để cả xã
hội tuân theo, ở phương Tây đạo đức được bàn đến như là một bộ phận của triết
học. Chẳng hạn, khi bàn về đạo đức, Đêmôcrit đã đứng trên lập trường duy vật
khi ơng tìm thấy đúng đối tượng nghiên cứu của đạo đức học là cuộc sống con
người. Đêmôcrit cho rằng “nhận biết một người trung thực và nhận biết một
người không trung thực, không những căn cứ vào việc làm của họ mà còn phải
căn cứ vào ý muốn của họ [13; 65]. Còn Aristote thì cho rằng, đạo đức là cái
vốn có của con người, sống trong xã hội con người phải tuân theo những quy
tắc, để hướng tới cái cao cả, cái thiện: “chúng ta không bất tử, nhưng chúng ta
không nên phục tùng những điều xấu xa mà hãy vươn tới sự bất tử sống phù hợp
với gì tốt đẹp nhất ở nơi ta đang có” [13; 120].
Tiêu biểu nhất trong lịch sử triết học phương Tây khi bàn về đạo đức là triết
học cổ điển Đức với những triết gia tiêu biểu như: Kant, Hegel, Feuerbach….
Kant một trong những nhà triết học vĩ đại nhất của lịch sử triết học phương Tây
đã đứng trên lập trường duy tâm tiên nghiệm khi bàn về các vấn đề triết học
trong đó có đạo đức. Ông cho rằng, nguyên tắc đạo đức là phải tuân theo mệnh
lệnh tuyệt đối và chính mệnh lệnh này sẽ hướng con người vào hoạt động cộng
đồng, tôn trọng bản thân, tôn trọng người khác, sống đúng với trách nhiệm công
dân trong xã hội. Hegel là nhà triết học mặc dù có thế giới quan duy tâm, nhưng
ơng vẫn được lịch sử tư tưởng thừa nhận là một nhà biện chứng lỗi lạc. Khi bàn
về đạo đức, Hegel cho rằng, con người chỉ thực hiện các hành vi đạo đức khi có
sự thơi thúc bên trong, từ niềm tin của chính mình, mà khơng ai có thể ra lệnh
hay cưỡng bức, nói cách khác trong quan hệ đạo đức Hegel đề cao vai trò chủ
thể của con người.


D:\LUẬN VĂN THẠC SỸ\2010\LA.008446.doc


- 12 -

Nói chung, các nhà triết học trước Mác kể cả phương Đông hay phương
Tây đã bàn nhiều về đạo đức và mặc dù đã có những đóng góp nhất định nhưng
nhìn chung đều rơi vào quan điểm duy tâm khi bàn về vấn đề con người, về các
mối quan hệ xã hội có quan hệ đạo đức. Họ đã khơng thấy đạo đức được hình
thành trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, đó chính là lao động,
trong lao động con người có nhu cầu gắn bó với nhau và chính trong mối quan
hệ này con người ý thức được rằng bản thân cần phải làm gì hay khơng nên làm
gì để phù hợp với chuẩn mực chung của cộng đồng, của xã hội. Nhưng thiếu sót
lớn nhất của các nhà triết học trước Mác là khơng nhìn thấy mối quan hệ biện
chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, vai trò quyết định của tồn tại xã hội
với ý thức xã hội trong đó có ý thức đạo đức, không thấy được cơ sở kinh tế của
các quan hệ đạo đức trong xã hội.
Theo quan điểm của Triết học Mác-Lênin, đạo đức là một hình thái ý thức
xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh
và đánh giá cách ứng xử của con người trong mối quan hệ với nhau và quan hệ
với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức
mạnh của dư luận xã hội.
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội phản ánh
hiện thực đời sống đạo đức xã hội. Xã hội học trước Mác khơng thể giải thích
một cách khoa học vấn đề nguồn gốc thực chất của đạo đức. Nó xuất phát từ
“mệnh lệnh của Thượng đế”, “ý niệm tuyệt đối”, bản tính bất biến của lồi
người chứ khơng xuất phát từ điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, từ các
quan niệm xã hội hiện thực để suy ra tồn bộ lĩnh vực tư tưởng trong đó có tư
tưởng đạo đức.
Theo Mác và Ăngghen, trước khi hình thành các thứ lý luận và nguyên tắc
bao gồm cả triết học và luận lý học, con người đã hoạt động, tức là đã sản xuất
ra các tư liệu vật chất cần thiết cho đời sống. Ý thức xã hội của con người là sự
phản ánh tồn tại xã hội của con người. Các hình thái ý thức xã hội khác nhau tuỳ

theo phương thức phản ánh tồn tại xã hội và tác động riêng biệt đối với đời sống


D:\LUẬN VĂN THẠC SỸ\2010\LA.008446.doc

- 13 -

xã hội. Đạo đức cũng vậy, nó là hình thái ý thức xã hội phản ánh một lĩnh vực
riêng biệt trong tồn tại xã hội của con người. Và cũng như các quan điểm triết
học, chính trị, nghệ thuật, tơn giáo đều mang tính chất của kiến trúc thượng tầng.
Chế độ chính trị-xã hội là nguồn gốc của các quan điểm về đạo đức con người.
Các quan điểm này thay đổi theo cơ sở đã đẻ ra nó. Ví dụ: thích ứng với chế độ
phong kiến, dựa trên cơ sở bóc lột những người nơng nô đã bị cột chặt vào
ruộng đất là đạo đức xã hội nơng nơ. Thích ứng với chế độ tư bản dựa trên cơ sở
bóc lột người cơng nhân làm thuê là đạo đức tư sản. Chế độ xã hội chủ nghĩa tạo
ra một nền đạo đức biểu hiện mối quan hệ hợp tác trên tình đồng chí và quan hệ
tương trợ lẫn nhau của những người lao động đã được giải phóng khỏi ách bóc
lột. Như vậy sự phát sinh và phát triển của đạo đức xét đến cùng là một quá trình
do sự phát triển của phương thức sản xuất quyết định.
Trong cuộc sống con người đặt ra nhiều phương thức điều chỉnh hành vi
con người trong đó đạo đức được xem là phương thức điều chỉnh quan trọng.
Đối với đạo đức, sự đánh giá hành vi con người theo khuôn phép chuẩn mực và
qui tắc đạo đức biểu hiện thành khái niệm về thiện và ác, vinh và nhục, chính
nghĩa và phi nghĩa. Bất kỳ trong thời đại lịch sử nào, đạo đức con người cũng
đều được đánh giá như vậy. Các khái niệm về thiện ác, khuôn phép và qui tắc
hành vi của con người thay đổi từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, từ dân tộc này
sang dân tộc khác. Và trong xã hội có giai cấp thì bao giờ đạo đức cũng biểu
hiện lợi ích ủa một giai cấp nhất định. Những khn phép và qui tắc đạo đức là
yêu cầu của xã hội hoặc của một giai cấp nhất định đề ra cho hành vi của mỗi cá
nhân. Nó bao gồm hành vi của cá nhân đối với xã hội và đối với người khác. Ở

đây quan niệm của cá nhân về nghĩa vụ của mình đối với xã hội và đối với
người khác là tiền đề của hành vi đạo đức cá nhân. Đã là một thành viên của xã
hội, con người phải chịu một sự giáo dục nhất định về ý thức đạo đức, một sự
đánh giá đối với hành vi của mình trong những hồn cảnh nào đó cịn chịu sự
khiển trách của lương tâm.


D:\LUẬN VĂN THẠC SỸ\2010\LA.008446.doc

- 14 -

Các giá trị đạo đức góp phần hình thành nên một hệ thống thang giá trị của
xã hội, các hành vi đạo đức được đánh giá một cách rõ ràng: hoặc đúng, hoặc
sai. Vì vậy, nó sẽ khẳng định hay phủ định, tán thành hay phản đối dứt khốt
một lợi ích hay một hành vi nào đó của con người. Hệ thống giá trị đạo đức đi
cùng với sự phát triển của thực tiễn đạo đức và lịch sử xã hội loài người, hệ
thống giá trị này là tích cực, nhân văn hay tiêu cực, phản động tuỳ thuộc vào chỗ
nó có phù hợp với sự phát triển của lịch sử, của tiến bộ xã hội hay không.
Đạo đức là một hiện tượng xã hội vừa mang tính tinh thần vừa mang tính
hành động hiện thực nếu xét dưới hai góc độ: bản thể luận và xã hội học. Trong
quá trình nhận thức hướng ngoại mỗi người lấy chuẩn mực của đời sống đạo đức
xã hội là cơ sở, làm căn cứ để thực hiện những hành vi đạo đức riêng của mình.
Nhưng quá trình này chỉ có thể hồn thiện khi mỗi cá nhân tự nhận thức, tự đánh
giá được hành vi của chính mình, lúc đó chủ thể đạo đức sẵn sàng thực hiện một
cách tự giác những hành vi đạo đức mà bản thân đã xác định, có ý thức đạo đức
mới đem lại tri thức đạo đức, nhờ nó ý thức đạo đức xã hội mới trở thành ý thức
đạo đức cá nhân.
Phạm trù lối sống cũng được đề cập từ nhiều góc độ khác nhau. Có khái
niệm đứng trên góc độ triết học, kinh tế chính trị, xã hội học, đạo đức học, có
những khái niệm rút ra từ sự phân tích những điều kiện hợp thành quyết định lối

sống như: điều kiện xã hội, kinh tế, môi trường văn hoá, điều kiện tự nhiên.
Theo Từ điển tiếng Việt: “Lối sống là tổng thể (hệ thống) các nét căn bản
đặc trưng cho hoạt động của các dân tộc, các giai cấp, các tập đoàn xã hội trong
những điều kiện xã hội nhất định về lịch sử”.
Theo Từ điển tóm tắt xã hội học (Liên Xô cũ): “Lối sống là những hình
thức hoạt động sống (cá nhân, nhóm, tầng lớp) điển hình đối với những quan hệ
xã hội cụ thể trong lịch sử”.
Kế thừa quan điểm của các nhà nghiên cứu, chúng tôi cho rằng:
Ở Việt Nam, cũng đã tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về lối sống.


D:\LUẬN VĂN THẠC SỸ\2010\LA.008446.doc

- 15 -

Lối sống là một phạm trù xã hội khái quát toàn bộ hoạt động sống của các
dân tộc, giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong những điều kiện của một
hình thái kinh tế- xã hội nhất định và biểu hiện trên các lĩnh vực của đời sống:
trong lao động và hưởng thụ, trong quan hệ giữa người với người, trong sinh
hoạt tinh thần và văn hố.
Từ phạm vi nghiên cứu trên, có thể thấy: Lối sống là một thói quen có định
hướng, có chất lượng lý tưởng. Nó là phương cách thể hiện tổng hợp tất cả các
cấu trúc, nền văn hoá, đặc trưng văn hoá của một con người hay một cộng đồng,
là một yếu tố xã hội. Nó là tiêu chí đầu tiên, tổng hợp nhất thể hiện chất lượng
văn hố và trí tuệ của một con người. Và như vậy, lối sống là một phạm trù xã
hội khái quát toàn bộ hoạt động sống của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã
hội, các cá nhân trong những điều kiện của một hình thái kinh tế- xã hội nhất
định và biểu hiện trên các lĩnh vực của đời sống. Lối sống là phức hợp những
mẫu hình nhận thức và hành động biểu hiện như là sự lặp lại phổ biến, ổn định
dưới các dạng thức hoạt động đặc trưng cho một dân tộc, một quốc gia, một giai

cấp, một tập đoàn xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Ở đây, những
chuẩn mực giá trị, những truyền thống tập qn có vai trị hết sức lớn đến
phương thức hoạt động, tư duy, cách ứng xử của người ta trong xã hội. Tất cả
tạo thành cơ sở của khuôn mẫu hành vi của mỗi con người, mỗi nhóm và tập
đồn người khác nhau trong xã hội. Nó là những cách thức, phép tắc tổ chức và
điều khiển đời sống cá nhân, cộng đồng đã được thừa nhận rộng rãi và trở thành
thói quen.
Lối sống là một bộ phận của văn hố, nó vừa là sản phẩm của văn hố, vừa
là hoạt động biểu hiện, duy trì, sáng tạo, phát triển văn hố. Tuy nhiên, lối sống
cịn chịu tác động của mức sồng, kinh tế, khoa học, công nghệ, giao lưu văn hoá.
Do vậy, lối sống năng động hơn các hình thái văn hố khác. Trên bình diện tâm
lý học có thể xác định lối sống của con người là phương thức hoạt động đặc
trưng của con người, thể hiện sự lựa chọn các hoạt động và cách thức thực hiện
hoạt động đó trong những điều kiện chủ quan và khách quan nhất định.


D:\LUẬN VĂN THẠC SỸ\2010\LA.008446.doc

- 16 -

Cũng có quan niệm cho rằng lối sống trước hết được coi là một kiểu sống.
Lối sống là tổng hợp những quan niệm của cá nhân về lợi ích vật chất, tinh thần
và những hành vi thực hiện lợi ích đó. Nhận thức này gần trùng hợp với khái
niệm lối sống mà tiến sĩ triết học Tolsstykh nêu ra: “Lối sống là những hình thức
cố định điển hình (đối với những quan hệ xã hội cụ thể lịch sử) các hoạt động
của cá nhân và tập đoàn của con người, những nếp nghĩ của họ trong các lĩnh
vực lao động, hoạt động xã hội, chính trị, sinh hoạt và giải trí” [27; 40].
Giữa đạo đức và lối sống có mối quan hệ trực tiếp với nhau. Đạo đức có tác
động quan trọng chi phối lối sống. Ngược lại, lối sống có tác động hai mặt tích
cực và tiêu cực đến q trình củng cố đạo đức. Do đó, nghiên cứu lĩnh vực đạo

đức và lối sống cần đặt trong mối quan hệ đó và tất cả lại có quan hệ với lĩnh
vực tư tưởng, chính trị.
Như vậy, trên cơ sở khai thác nội hàm và ngoại diên của khái niệm “Đạo
đức và lối sống” được nhìn nhận trên nhiều góc độ. Song điểm chung nhất là
đều dựa trên thế giới quan khoa học và phương pháp luận biện chứng Mác xít để
xem xét. Do đó, các định nghĩa đó đều chứa đựng những nhân tố hợp lý.
1.1.2. Vai trò của đạo đức đối với sự phát triển xã hội
Ngay từ thời cổ đại cách đây hàng nghìn năm, vai trị của đạo đức đối với xã
hội đã được các nhà tư tưởng xem xét và bàn luận tới từ nhiều góc độ khác nhau.
Trong xã hội Trung Hoa cổ đại, Khổng Tử (thế kỷ VI trước Cơng ngun)
đã khun học trị “Tiên học lễ, hậu học văn”. Ơng mong muốn xã hội phát triển
bình ổn, gia đình sống hạnh phúc, con người giữ được đạo lý. Mạnh Tử rất đề
cao đạo đức đến mức ông đề xuất quản lý xã hội bằng đức trị.
Trong xã hội Ấn Độ cổ đại, học thuyết của đạo Phật do Thích Ca Mâu ni
sáng lập đã đề cập đến nhiều vấn đề đạo đức. Cái cốt lõi nhất trong hệ thống đạo
đức Phật giáo là khuyên con người sống thiện, biết yêu thương nhau, giúp đỡ
nhau, tránh điều ác.


D:\LUẬN VĂN THẠC SỸ\2010\LA.008446.doc

- 17 -

Trong xã hội Hy Lạp-La Mã cổ đại, đặc trưng cơ bản nhất về giáo dục con
người thông qua những truyền thuyết, các sử thi…nhằm đề cao những giá trị đạo
đức của con người. Đó là thần Atina đẹp như mặt trăng, đầy tình nhân ái đối với
con người. Hình tượng thần Dớt có tài-đức vẹn tồn. Ơđixê là bản trường ca bất
hủ, một biểu tượng cao đẹp về tính trung thực, lịng dũng cảm, sự trong sáng
trong tình bạn, tình yêu…. Tất cả những hình tượng đó đều là những phẩm giá
đạo đức tốt đẹp của con người.

Ở Việt Nam, vấn đề đạo đức được các nhà nghiên cứu xã hội đặt ra rất sớm.
Đặc biệt trong các truyền thuyết, ca dao, tục ngữ, nhân dân ta đã đề cao những
nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức giúp công nhận người hướng tới những
điều tốt đẹp. Truyện Tấm Cám, Cây tre trăm đốt, Trạng Quỳnh…. đều giáo dục
con người hướng thiện và có nhân cách cao đẹp trong cuộc sống.
Vấn đề đặt ra là tại sao con người lại sớm quan tâm đến đạo đức? Bởi vì
đạo đức có một vai trị to lớn đối với sự phát triển của xã hội.
Thứ nhất, đạo đức là nhu cầu khách quan của đời sốngx xã hội. Trong đời
sống xã hội của con người, đạo đức là vấn đề thường xuyên được đặt ra và giải
quyết nhằm đảm bảo cho các cá nhân và cộng đồng tồn tại, phát triển. Sống trong
xã hội, ai cũng phải suy nghĩ về những vấn đề đạo đức để tìm ra những con
đường, cách thức và phương tiện hoạt động nhằm kết hợp lợi ích của mình và
cộng đồng, từ đó bảo đảm cho sự tồn tại, phát triển của chính mình và cộng đồng.
Thứ hai, đạo đức có vai trị trong việc duy trì trật tự, bình ổn và phát triển
của xã hội, xã hội phát triển nhanh hay chậm, tiến bộ hay trì trệ, suy cho cùng là
do tính tự nguyện tự giác của con người, đồng thời do mức độ con người nhận
thức được quy luật và hành động phù hợp theo quy luật. Chính đạo đức đã đóng
vai trị quan trọng để tạo dựng nên cuộc sống tốt đẹp cho xã hội và giúp con
người hoàn thiện nhân cách. Từ khi con người và xã hội lồi người xuất hiện,
đạo đức cũng hình thành và tham gia vào quá trình điều chỉnh ý thức và hành vi
của con người. Cùng với pháp luật, đạo đức góp phần quan trọng vào việc điều
chỉnh thái độ, hành vi con người, qua đó điều chỉnh các quan hệ xã hội. Mặc dù


D:\LUẬN VĂN THẠC SỸ\2010\LA.008446.doc

- 18 -

pháp luật thì chặt chẽ, chính xác, ghi thành văn có tính bắt buộc và khung hình
phạt có nhiều nấc, nhưng lại khơng trừng phạt được từ trong ý nghĩ (ý nghĩ

phạm tội). Trong khi đó, đạo đức mang nặng tính khun nhủ, khung hình phạt
khơng có các nấc trung gian, chỉ có thiện và ác, tốt và xấu, nhưng nó lại có thể
trừng phạt người ta ngay từ trong ý nghĩ (ý nghĩ xấu) nhờ sự phán xử của lương
tâm. Đó chính là một nét đặc thù của đạo đức, tạo nên sức mạnh to lớn của đạo
đức trong đời sống xã hội.
Thứ ba, đạo đức có tác dụng cảm hố con người, giúp con người nhận thức
và hành động theo lẽ phải, duy trì mối quan hệ tốt đẹp giữa người và người.
Đồng thời đạo đức giúp con người sáng tạo ra hạnh phúc, gìn giữ phẩm giá, làm
thức dậy trong con người những tình cảm tốt đẹp, những phẩm chất cao quý, đó
là lịng nhân ái, vị tha, tính trung thực, thẳng thắn…. Đạo đức như một động cơ
có sức mạnh thơi thúc con người đấu tranh chống lại những cái ác, cái xấu, giữ
gìn và phát huy những cái tốt, cái thiện. Nói cách khác, đạo đức ln hướng con
người tới cái chân, thiện, mỹ.
Như vậy, đạo đức có vai trị quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Xã
hội lồi người càng tiến lên thì vai trị của đạo đức cũng tăng lên, có thể đạo đức
sẽ nắm vai trò điều khiển xã hội, thay thế chức năng quản lý con người bằng pháp
luật. Khi xã hội phát triển đạt đến văn minh thì một số hình thái ý thức xã hội sẽ
mất đi, nhưng đạo đức xã hội vẫn tồn tại và phát triển cùng với loài người.
Tuy nhiên, cần thấy rằng sự tác động của đạo đức đến đời sống xã hội có
tính hai mặt. Nếu hệ thống các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức tiến bộ,
phù hợp với đời sống xã hội , với xu thế vận động của xã hội thì nó sẽ tác động
tích cực, thúc đẩy xã hội phát triển; nếu ngược lại, nó sẽ gây nên những tác động
tiêu cực, cản trở sự phát triển xã hội. Vì vậy, trong quá trình xây dựng xã hội
mới, chúng ta phải biết kế thừa và phát triển những giá trị đạo đức truyền thống
phù hợp với xã hội ngày nay, loại bỏ những chuẩn mực đạo đức cũ, khơng cịn
phù hợp, đồng thời xây dựng những chuẩn mực đạo đức mới nhằm thúc đẩy xã
hội phát triển.


D:\LUẬN VĂN THẠC SỸ\2010\LA.008446.doc


- 19 -

1.1.3. Vai trò của việc giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên trong giai
đoạn hiện nay
Giáo dục đạo đức, lối sống có tác động tích cực đến việc hình thành bản
chất con người. Vì đao đức, lối sống được đúc kết từ tinh hoa văn hoá dân tộc và
được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Đạo đức, lối sống được xem là một chuẩn
mực xã hội mà dựa vào đó thanh niên, học sinh có thể nhận định phải trái, cái
thiện, cái ác. Do vậy đạo đức có tác dụng giáo dục, đào tạo nên những người
mới, phù hợp với giai đoạn lịch sử mới, góp phần thúc đẩy xa hội phát triển.
Hiện nay khoa học cơng nghệ đã có bước phát triển vượt bậc, tác động đến
mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Bên cạnh những thành tựu rực rỡ mà khoa học
cơng nghệ đem lại thì cùng với nó, nhiều vấn đề xã hội đang đặt ra gay gắt như
vấn đề dân số, môi trường, sự tách biệt ngày càng xa giữa giàu và nghèo. Các
giá trị đạo đức, lối sống tốt đẹp của thanh niên, ngày càng có hướng suy giảm và
xói mịn. Trong tình hình đó, vấn đề đặt ra cho hiện tại là quá trình giáo dục
thanh niên khơng sao chép máy móc q khứ, cũng khơng được loại bỏ quá khứ
khỏi cuộc sống hiện tại.
Chúng ta không thể lãng quên, chối bỏ quá khứ, bởi quá khứ là nền móng
để xây dựng nên những lâu dài tương lai. Quá khứ dường như vẫn tồn tại song
hành với hiện tại. Do đó, điều quan trọng và cần thiết là làm cho thanh niên
hiểu, thấm nhuần các giá trị đạo đức của dân tộc, nhất là đạo đức cách mạng,
đạo đức Hồ Chí Minh, vận dụng nó cải tạo hiện tại, hướng tới tương lai.
Đạo đức, lối sống bao hàm trong nó hai mặt: tích cực và tiêu cực. Hai mặt
đó ln tồn tại song song, đấu tranh bài trừ lẫn nhau. Kế thừa những giá trị đạo
đức tốt đẹp phải dựa trên cơ sở lựa chọn, kế thừa đạo đức, lối sống tốt, bởi đây
là nền tảng hình thành các giá trị mới tốt đẹp của thanh niên. Giá trị mới khơng
tự nhiên sinh ra, mà nó phải được hình thành trên nền tảng những giá trị tốt đẹp,
từ gốc rễ của chính mình, đó là tất yếu.

Các giá trị đạo đức, lối sống tốt đẹp của dân tộc ta là cơ sở của mỗi thanh
niên, phân định phải, trái, tốt, xấu. Nó có tác dụng ngăn chặn, hạn chế những


D:\LUẬN VĂN THẠC SỸ\2010\LA.008446.doc

- 20 -

hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội, xây dựng môi trường tốt đẹp ở cơ sở
và góp phần xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp, ở đó mọi người sống với nhau
có nghĩa tình, vị tha và nhân ái.
Đạo đức với những giá trị trường tồn của nó cũng có tác dụng định hướng
sự phát triển đất nước một cách hợp quy luật. Đạo đức cịn đóng vai trị điều tiết
quan hệ giao lưu với các nước. Chúng ta một mặt tiếp thu những tinh hoa văn
hoá nhân loại, nhưng mặt khác phải đảm bảo phát huy bản sắc văn hoá dân tộc,
khơng bị các nước khác đồng hố.
Bên cạnh những mặt tích cực, đạo đức, lối sống cịn có những yếu tố tiêu
cực: đó là những quan điểm, tư tưởng đạo đức, lối sống sai lầm, lạc hậu không
giúp cho con người nhận thức đúng quy luật phát triển xã hội, dẫn đến hành vi
sai lệch, làm cho con người bi quan, chán nản, bế tắc trước cuộc sống hiện tại,
mất định hướng trong tương lai. Đạo đức mới hoàn tồn trái ngược với chủ
nghĩa cá nhân, ích kỷ cực đoan của giai cấp tư sản.
Kinh tế thị trường là sản phẩm của sự phát triển kinh tế- xã hội, xuất hiện
và thực sự phát triển theo đúng nghĩa của nó cùng với chủ nghĩa tư bản. Đây là
kết quả của trí tuệ nhân loại, là bước tiến của nền văn minh nhân loại. Cơ chế
kinh tế thị trường bao hàm cả mặt tích cực lẫn tiêu cực.
Kinh tế thị trường chú trọng lợi ích vật chất, theo nguyên tắc làm ăn có lãi.
Vì vậy, nó tạo điều kiện kích thích sự tìm tịi sáng tạo, là cơ sở để phát triển tính
năng động của cá nhân, buộc con người muốn tồn tại phải có năng lực thực sự,
phải nắm bắt chun mơn, tích luỹ kinh nghiệm để thành đạt. Cơ chế thị trường

tạo điều kiện cho con người tự khẳng định mình, nhưng nó cũng sẵn sàng đào
thải những yếu kém, sự trì trệ bảo thủ, lạc hậu của các cá nhân.
Kinh tế thị trường cũng tạo điều kiện để mỗi cá nhân khẳng định năng lực,
lợi ích của mình, địi hỏi phải khắc phục lối tư duy máy móc, siêu hình, cảm
tính, nâng cao năng lực tư duy lý tình giúp tìm ra những giải pháp thực tế có
hiệu quả. Sự phát triển của kinh tế thị trường dẫn tới những biến đổi trong định
hướng và sự lựa chọn giá trị của con người, nhất là thế hệ trẻ. Họ được lôi cuốn


D:\LUẬN VĂN THẠC SỸ\2010\LA.008446.doc

- 21 -

vào với việc lập thân, lập nghiệp của mình. Họ sẵn sàng chấp nhận rủi ro để vào
làm việc ở các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi
nhằm chóng thành đạt, lương cao. Kinh tế thị trường đã đặt ra một yêu cầu hết
sức khắt khe là con người phải có trình độ sáng tạo, năng động, chứ khơng thể
cứng nhắc, rập khuôn.
Kinh tế thị trường buộc con người phải mở rộng mối quan hệ không chỉ
trong nội bộ nền kinh tế mà còn vươn ra hội nhập với nền kinh tế thế giới và giải
quyết mối quan hệ đó bằng lợi ích thực tế. Vì vậy, con người khơng thể sống
khép kín mà phải tạo lập mối quan hệ nhiều chiều, đa phương trong bối cảnh
quốc tế hiện nay. Đây là môi trường rèn luyện nghị lực, bản lĩnh không chỉ một
người mà của cả quốc gia.
Mặt khác do nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường cũng chứa đựng
những khuyết tật tác động tiêu cực đến đời sống đạo đức của dân tộc. Do chạy
theo lợi nhuận tối đa trong kinh tế thị trường con người ln tìm mọi biện pháp,
thủ đoạn để tăng lợi nhuận, từ đó dẫn đến tâm lý, lối sống thực dụng, chạy theo
đồng tiền. Đồng tiền trở thành mục đích cuối cùng, là cái người ta tôn vinh.
Điều này dẫn đến những lệch lạc trong nhận thức các chuẩn mực đạo đức, chà

đạp lên các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, là một trong những nguồn
gốc sinh ra các tệ nạn xã hội. Kinh tế thị trường không chỉ tác động trong lĩnh
vực kinh tế mà còn trong các lĩnh vực khác của đời sống tinh thần con người.
Nó xâm nhập vào hoạt động văn hố, làm cho nhiều giá trị tinh thần bị xuyên
tạc, bóp méo bởi lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền. Những sách báo, văn
hố phẩm với nội dung khơng lành mạnh, bằng nhiều con đường khác nhau gây
ảnh hưởng, đầu độc lớp trẻ. Tệ nạn mại dâm, nghiện hút đang là căn bệnh nguy
hiểm, huỷ hoại đến tinh thần, thể xác của nhiều người mà chủ yếu là thanh niên,
học sinh. Điều cần phải chú trọng là công tác quản lý, xử phạt nghiêm minh
bằng pháp luật và đặc biệt là công tác giáo dục đạo đức, lối sống cần được thực
hiện nghiêm túc. Có như vậy, những mặt trái của cơ chế thị trường mới được
hạn chế, đời sống ngày càng lành mạnh hơn.


D:\LUẬN VĂN THẠC SỸ\2010\LA.008446.doc

- 22 -

Kinh tế thị trường đề cao hiệu quả thực tế, nhưng lại có nguy cơ đẩy con
người đến lối sống thực dụng, làm xói mịn, thậm chí làm đảo lộn hệ giá trị đạo
đức, văn hoá, tinh thần, làm nảy sinh các tệ nạn xã hội, lối sống hiện sinh, làm
tha hoá bản chất con người. Đặc biệt, mặt trái của cơ chế thị trường tác động, lan
rộng và ngấm sâu vào lĩnh vực chính trị- xã hội, tinh thần nhất là giáo dục, văn
hoá, y tế… làm xuất hiện những hiện tượng, “thương mại hố” những hoạt động
trên. Thậm chí có những hiện tượng phản giáo dục, phi văn hoá làm băng hoại
đạo đức và ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống bình yên của xã hội và thế hệ trẻ.
Kinh tế thị trường cũng là môi trường thuận lợi để nảy sinh những tiêu cực,
là mảnh đất cho chủ nghĩa cá nhân và lối sống thực dụng, vô đạo đức phát triển.
Dĩ nhiên, kinh tế thị trường tự nó khơng mang lại những tiêu cực đó, mà là do
nhiều ngun nhân như cơng tác quản lý còn yếu kém, hệ thống pháp luật chưa

hoàn chỉnh, thực thi pháp luật chưa nghiêm minh… Tất cả những yếu tố đó làm
cho mặt trái của kinh tế thị trường ngày càng xâm nhập vào xã hội một cách
trầm trọng.
Từ xưa, ông cha ta đã đúc kết rất sâu sắc kinh nghiệm về giáo dục “Tiên
học lễ, hậu học văn”, “Lễ” ở đây chính là nền tảng của sự lĩnh hội và phát triển
tốt các tri thức và kỹ năng. Ngày nay, phương châm “Dạy người, dạy chữ, dạy
nghề” cũng thể hiện rõ tầm quan trọng của hoạt động giáo dục đạo đức, như Bác
Hồ đã dạy: “Dạy cũng như học, phải chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức
cách mạng. Đó là cái gốc quan trọng. Nếu thiếu đạo đức, con người sẽ không
phải là con người bình thường và cuộc sống xã hội sẽ khơng phải là cuộc sống
bình thường, ổn định….”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Có tài khơng có
đức chỉ là người vơ dụng. Có đức mà khơng có tài thì làm việc gì cũng khó”.
Như vậy, giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên chịu ảnh hưởng tác
động lớn bởi nền kinh tế thị trường và q trình đổi mới xã hội. Sự tác động đó
diễn ra theo hai hướng: tích cực và tiêu cực. Điều quan trọng là chúng ta phải
tận dụng mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực bằng việc tìm ra hình thức, phương


D:\LUẬN VĂN THẠC SỸ\2010\LA.008446.doc

- 23 -

pháp giáo dục đạo đức, lối sống một cách hiệu quả nhất, góp phần hình thành
những giá trị tốt đẹp mới trong thanh niên hiện nay.
1.2. Nội dung và phƣơng pháp giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên
trong tình hình hiện nay
1.2.1. Nội dung giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên
Ngày nay, giáo dục đạo đức cho thanh niên là giáo dục lòng trung thành với
Đảng, hiếu với dân, yêu quê hương đất nước, có lịng vị tha nhân ái, cần cù liêm
khiết và chính trực. Đó là đạo đức xã hội chủ nghĩa, là đạo đức của cá nhân, tập

thể và chủ nghĩa nhân đạo mang tính chân thực tích cực khác với đạo đức vị kỷ,
cá nhân. Giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên gắn chặt với giáo dục tư
tưởng, chính trị, giáo dục truyền thống dân tộc và bản sắc văn hoá dân tộc, giáo
dục pháp luật Nhà nước xã hội chủ nghĩa, cung cấp cho thanh niên những
phương thức ứng xử đứng trước vấn đề của xã hội. Từ đó giúp thanh niên có khả
năng tự kiểm soát được hành vi của bản thân một cách tự giác, có khả năng
chống lại những biểu hiện lệch lạc về lối sống.
Đạo đức là một bộ phận quan trọng trong nhân cách, là sản phẩm không tự
nhiên có, địi hỏi phải có một q trình sư phạm để hình thành và phát triển, đó
chính là giáo dục đạo đức. Giáo dục đạo đức là một quá trình sư phạm bộ phận,
trong đó dưới tác động chủ động của nhà giáo dục nhằm hình thành và phát triển
ở thanh niên ý thức đạo đức, tình cảm đạo đức, hành vi và thói quen đạo đức,
nhờ đó mà tạo ra các phẩm chất đạo đức ở thanh niên.
Để hình thành ý thức đạo đức, cần giáo dục cho thanh niên nắm được:
+ Những nguyên tắc đạo đức xã hội chủ nghĩa trong mối quan hệ với
truyền thống đạo đức của dân tộc.
+ Hệ thống các chuẩn mực đạo đức liên quan đến thanh niên làm cơ sở
cho những hành vi ứng xử trong cuộc sống.
Đây chính là những tri thức cần thiết mà thanh niên cần được trang bị đủ
trình độ ứng xử trong cuộc sống hàng ngày, nhưng mới chỉ có ý thức đạo đức


D:\LUẬN VĂN THẠC SỸ\2010\LA.008446.doc

- 24 -

thơi thì chưa đủ, ý thức đó phải trở thành nhân tố bên trong thơi thúc con
người thực hiện những hành vi đạo đức một cách tự nguyện, tự giác. Đó
chính là tình cảm đạo đức, có tình cảm đạo đức thì mới có những động cơ đạo
đức cao đẹp sẵn sàng thực hiện những hành vi đạo đức, nhưng quan trọng hơn

là phê phán, lên án và đấu tranh trước những hành vi phi đạo đức, phản văn
hố. Giáo dục tình cảm đạo đức là yếu tố quan trọng trong quá trình giáo dục
đạo đức, lối sống cho thanh niên. Khơng có tình cảm đạo đức thì con người sẽ
trở nên vơ cảm trước cái ác, thờ ơ trước cái thiện, trở thành những kẻ bất
lương, vô đạo đức.
Từ ý thức đạo đức và tình cảm đạo đức con người thể hiện bằng những
hành vi cụ thể và đây chính là hành vi đích thực, có tính ổn định được rèn luyện
nhiều sẽ trở thành thói quen hàng ngày. Mục đích cao nhất của giáo dục đạo
đức, lối sống chính là hình thành ở mỗi thanh niên những thói quen, hành vi đạo
đức tiến bộ trong cuộc sống.
Giáo dục đạo đức, lối sống đòi hỏi không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ
những tri thức đạo đức, mà quan trọng hơn là kết quả giáo dục phải được thể
hiện thành tình cảm, niềm tin, hành động thực tế của thanh niên.
Để giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên có hiệu quả, yếu tố tập thể giữ
vai trị hết sức quan trọng, cơng tác giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên
chỉ đạt kết quả tốt khi nó có sự tác động đồng thời của các lực lượng: nhà
trường, gia đình, xã hội.
Trước hết, các giá trị cần được lựa chọn để định hướng cho thanh niên phải
đáp ứng được mục tiêu giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ phục vụ đất nước, đủ sức
hoàn thành nhiệm vụ do cuộc sống đặt ra. muốn thực hiện điều đó, giáo dục lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội giữ vai trị quyết định, nó là nền tảng
điều chỉnh hành vi của thanh niên, xác định thái độ lựa chọn và ứng xử trước
những biến động to lớn của cơ chế thị trường đặt ra.
Bên cạnh đó, khi tiến hành giáo dục lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, chúng ta không thể tách rời khỏi việc giáo dục thế giới quan cách mạng


D:\LUẬN VĂN THẠC SỸ\2010\LA.008446.doc

- 25 -


và nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa cho thanh niên. Bởi vì, nhận thức đúng là
yếu tố cốt lõi tạo nên niềm tin có căn cứ khoa học. Tuy nhiên, thế giới quan và
nhất là nhân sinh quan giai đoạn cách mạng hiện nay đã được bổ sung nhiều
nhân tố mới do chính cuộc sống mang lại.
Công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay
giúp cho thanh niên có ý thức cộng đồng, tinh thần khoan dung, mình vì mọi
người, chống chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, bảo vệ môi trường sống. Tinh thần
khoan dung và ý thức cộng đồng là kết tinh của các giá trị truyền thống, nó được
hình thành trong lịch sử chống giặc ngoại xâm và dựng nước của dân tộc, tinh
thần ấy tạo nên sức mạnh tiềm ẩn bên trong của con người Việt Nam. Biểu hiện
cụ thể, sinh động là bằng nhiều hình thức giáo dục ý thức tập thể, phong trào
“Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa”, phụng dưỡng những người có
cơng với cách mạng, các bà mẹ Việt Nam anh hùng, bảo vệ của công, giữ vững
kỷ cương, nội quy, quy chế ở cơ quan, nhà trường cũng như nơi sinh sống.
Tác động của khoa học, công nghệ đang làm cho đời sống kinh tế-xã hội có
những chuyển biến mau lẹ. Để có thể thích nghi được với hồn cảnh đó, địi hỏi
thanh niên phải ln có tinh thần tự chủ, nhạy bén, chấp nhận hy sinh, d1m
đương đầu khẳng định mình. Vì thế, một trí tuệ cao, ý chí mạnh mẽ chủ động
trong cơng việc là những phẩm chất của thanh niên, phải coi đó là những điều
kiện để sau khi ra trường, họ có thể hồn thành nhiệm vụ do cuộc sống đặt ra.
Đây có thể được xem là nét đạo đức khác biệt hơn cả so với các giá trị đạo đức
truyền thống.
Giáo dục đạo đức là nhiệm vụ bao trùm và xuyên suốt toàn bộ hoạt động
nhân cách, giáo dục đạo đức, lối sống phải trở thành mối quan tâm của toàn xã
hội, là vấn đề của mọi vấn đề trong chiến lược giáo dục – đào tạo vì sự phát triển
con người và sự phát triển của xã hội.
Trong giai đoạn công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước hiện nay, lao động
với tinh thần cần cù, kỹ thuật, công nghệ cao, sáng tạo, năng suất và hiệu quả
không thể tách rời lý tưởng về một nước Việt Nam độc lập và chủ nghĩa xã hội.



×