Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm ngữ văn THPT, đề tài sử dụng phương pháp trò chơi trong dạy học ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 34 trang )

VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP TRỊ CHƠI NHẰM PHÁT HUY
TÍNH CHỦ ĐỘNG CỦA HỌC SINH, GÂY HỨNG THÚ
TRONG GIỜ HỌC NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG THPT …………….

I. LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn biện pháp
Nhằm đáp ứng yêu cầu dạy học theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực
học sinh trong chương trình GDPT mới.
Dựa vào đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi học sinh THPT: Ham tìm hiểu,
tiếp cận, thích cái mới lạ nhưng lại chóng chán. Do đó việc sử dụng các trò chơi
học tập trong giờ học Ngữ văn là hết sức cần thiết và có ích. Trị chơi có tác dụng
giúp học sinh:
+ Tăng cường khả năng chú ý nắm bắt nội dung bài học phát huy tính năng
động của các em.
+ Nâng cao hứng thú cho người học, góp phần làm giảm mệt mỏi, căng
thẳng trong học tập của học sinh. Phát triển tính độc lập, ham hiểu biết và khả năng
suy luận.
+ Tăng cường khả năng thực hành, vận dụng các kiến thức đã học.
+ Tăng cường khả năng giao tiếp giữa giáo viên và học sinh, và giữa học sinh
với nhau, giúp học sinh rèn luyện các khả năng ứng xử, giao tiếp.
+ Thu hút cả lớp theo dõi tham gia các hoạt động.
Khi chơi, các em tưởng tượng, suy ngẫm, thử nghiệm, lập luận để đạt kết
quả mà khơng nghĩ là mình đang học. Kiến thức cung cấp trong giờ Ngữ Văn sẽ
được giảm nhẹ, quá trình học tập diễn ra một cách tự nhiên hơn, hấp dẫn hơn.
Trò chơi là phương tiện có ý nghĩa trong việc góp phần thực hiện đổi mới
phương pháp dạy học, nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo và gây hứng thú
1


trong giờ học của học sinh. Ngồi ra thơng qua hoạt động trò chơi còn giúp các em
phát triển được nhiều phẩm chất đạo đức như tình đồn kết, thân ái, lòng trung


thực, tinh thần cộng đồng trách nhiệm. Do vậy quan điểm “Thông qua hoạt động
vui chơi để tiến hành hoạt động học tập” là phù hợp với từng lứa tuổi, từng môn
học đặc biệt là đối với môn Văn.
Trường THPT Cộng Hiền là vùng sâu vùng xa của Thành phố Hải Phòng.
Điểm thi đầu vào lớp 10 của trường rất thấp nằm trong tốp cuối của thành phố.
Học sinh phần đông là con em nông thôn, kinh tế khó khăn, gia đình khơng đầu tư
cho con em học hành. Trong lớp học, phần lớn học sinh kĩ năng và kiến thức yếu.
Một số em có tâm lí chán học, biểu hiện trên lớp học uể oải. Một số em còn thức
đêm chơi điện tử, xem phim nên khi đến lớp học tỏ ra mệt mỏi, buồn ngủ.
Mặt khác trong những giờ dạy của bản thân cũng như qua những lần dự giờ
đồng nghiệp tôi nhận thấy một điều rằng hiện nay đang xuất hiện một thực trạng
học sinh ngày càng thụ động không chịu phát biểu xây dựng bài. Nhiều lần thầy cô
giáo đặt câu hỏi, dù chỉ là những câu hỏi trong sách giáo khoa nhưng hỏi đi hỏi
lại 2, 3 lượt nhưng các em vẫn ngồi im thin thít, và chính thầy cơ là người phải trả
lời câu hỏi do mình đặt ra, những tình huống như vậy thường gây tâm lí ức chế
cho thầy cơ rất nhiều, thậm chí chán nản, khơng tha thiết với cơng việc của mình.
Năm học 2018- 2019 tơi dạy 3 lớp 12: 12 A4, 12 A6, 12 A7. Năm học 20192020 tôi dạy 2 lớp 11: 11 B5, 11B8. Theo kết quả khảo sát (ngày 20/8/2018 và
ngày 25 tháng 8 năm 2019 ) các lớp học sinh mà tôi trực tiếp giảng dạy năm 20182019 và năm 2019- 2020 về việc em có hay phát biểu trong giờ học Văn hay
không, kết quả thu được như sau:
Số học sinh khảo
sát

Phát biểu
nhiều

Có phát biểu
nhưng

Khơng
phát biểu


khơng nhiều
Lớp 12 A4, 12A6,
12 A7

9/120

45/120

66/120

Lớp 11 B5, 11 B8

7/82

20/82

55/82

Tổng số

16/202

65/202

121/202

(7,9%)

(32,2%)


(59,9%)

Từ kết quả trên ta thấy tình trạng lớp học tương đối trầm, tỷ lệ phát biểu ít
chiếm quá 50%, rồi đến tỷ lệ những học sinh chưa bao giờ phát biểu khá cao trên
32%, còn lại lượng học sinh hăng hái phát biểu không đáng kể trên 7%.
2


Nguyên nhân gây nên hiện tượng học sinh thụ động trong giờ học Văn bắt
nguồn từ tâm lý chung của học sinh sợ bị chê cười khi phát biểu sai, chưa tự tin
vào năng lực của mình, ngại ngùng, rụt rè khi đứng lên trả lời trước đám đông nhất
là các bạn nữ; do các em lười học, không chịu, hoặc rất ít chuẩn bị bài trước ở nhà
mà có thói quen đợi đến lớp chờ thầy cơ giảng rồi chép vào vở; chưa hiểu rõ tác
dụng của việc phát biểu xây dựng bài; do khơng khí các giờ văn trên lớp nhiều tiết
cịn tẻ nhạt, thiếu hấp dẫn...
Nếu tình trạng lãnh đạm, thụ động, ít hoặc khơng phát biểu trong giờ học
của học sinh phổ thơng nói chung và giờ học Văn nói riêng kéo dài thì khơng chỉ
ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học trong hiện tại mà cịn có tác động tiêu cực
sau này. Điều đó sẽ tạo ra những thế hệ người lao động, đội ngũ trí thức kém năng
động ln nhút nhát, e dè, sợ sệt khi phát biểu trước đám đông, thiếu bản lĩnh, tự
tin trong giao tiếp, khơng dám nói lên sự thật, chống lại cái sai trái..
Trước yêu cầu đòi hỏi người giáo viên dạy Văn không chỉ nỗ lực học tập để
nâng cao trình độ chun mơn mà cịn phải cần nỗ lực trau dồi củng cố thường
xuyên về kiến thức khoa học khác cũng như các phương pháp, hình thức dạy học
hiện đại vào trong quá trình dạy học. Nếu thầy cơ giáo giỏi chun mơn và có tâm
huyết với nghề, thì tất nhiên sẽ biết cách khơi gợi tạo ra sự hứng thú và cuốn hút
học sinh hăng say học tập và thích phát biểu ý kiến trong lớp để xây dựng bài học.
Những ai đã từng cắp sách đến trường và yêu quý môn Văn đều nhận thấy
những chức năng đặc thù của Văn học trong việc bồi đắp tâm hồn, hình thành nhân

cách học sinh.Văn học trang bị những cảm xúc nhân văn, giúp con người hướng tới
Chân - Thiện - Mỹ. Nhờ có Văn học mà đời sống tinh thần của con người ngày
càng giàu có, phong phú, tinh tế hơn. Tâm hồn trở nên bớt chai sạn, thờ ơ, bàng
quan trước những số phận, cảnh đời diễn ra xung quanh mình hàng ngày, trước
thiên nhiên và tạo vật. Điều này càng quan trọng khi chúng ta đang sống trong
guồng quay hối hả của cuộc sống hiện đại thời đại 4.0. Văn học bồi đắp cho học
sinh lòng yêu nước, thái độ trân trọng truyền thống, và ngơn ngữ mẹ đẻ. Mơn Ngữ
văn cịn có vai trò quan trọng trong việc rèn luyện khả năng sử dụng ngôn ngữ,
diễn đạt, cách thức tạo lập các loại văn bản phục vụ cho quá trình giao tiếp trên
mọi lĩnh vực của mỗi người trong cuộc sống...Mặc dù có vị trí, chức năng quan
trọng đặc biệt như vậy nhưng hiện nay đang xuất hiện tình trạng nhiều học sinh
không mấy hứng thú khi học môn học này .
Cũng với 5 lớp trên với câu hỏi “Em có hứng thú khi đến giờ học môn Văn
hay không?”, kết quả thu được như sau: (khảo sát ngày 20/08/2018, 25/8/2019)
Số học sinh khảo sát

Hứng thú với giờ

Không hứng thú với
3


học

giờ học

Lớp 12 A4, 12 A6,
12A7

48/120


72/120

Lớp 11B5, 11 B8

30/82

52/82

Tổng số

78/202

124/202

(38,61%)

(61,39%)

Kết quả trên cho thấy số học sinh yêu thích giờ học Văn rất ít chưa đến một
nửa cịn lại hơn 50% là các em khơng thích giờ học Văn điều đó cũng có nghĩa là
các em khơng u thích mơn Văn điều này không chỉ gây bi quan đối với dư luận
xã hội mà còn tác động tiêu cực đến người dạy. Nhiều thầy cô giáo dạy Văn đã
xuất hiện tâm lí chán nản, bng xi, khơng có động lực để trau dồi chuyên môn,
tạo sức ỳ lớn trong tư duy đổi mới, cải tiến phương pháp giảng dạy.
Nguyên nhân học sinh không hứng thú với giờ học Văn do cơ sở vật chất, tài
liệu minh hoạ, đồ dùng dạy học để phục vụ giảng dạy và bổ sung kiến thức cho học
tập mơn văn cịn nghèo nàn, đơn điệu; Do kiến thức quá nhiều, quá nặng dẫn đến
các em mệt mỏi, giảm hứng thú; do nhận thức không đầy đủ, lệch lạc, thực dụng
của một số không nhỏ học sinh và cha mẹ học sinh hiện nay đối với vị trí, tầm

quan trọng của mơn Văn đối với mỗi con người trong suốt cả cuộc đời; Do phương
pháp dạy của một số thầy cô giáo chưa thu hút được học trị u thích đối với bộ
mơn của mình giảng dạy. Thực tế cho thấy phương pháp giảng dạy của một bộ
phận giáo viên Văn còn bộc lộ nhiều hạn chế, việc ứng dụng công nghệ thông tin
vào trong giảng dạy môn Văn tuy đã phổ biến nhưng chưa hấp dẫn, bên cạnh đó
trong mỗi tiết học vẫn cịn tình trạng “đọc-chép” và “chiếu-chép” dẫn đến sự nhàm
chán ở học sinh, nhiều giáo viên còn sa vào “độc thoại”, “độc diễn” trên bục giảng
, một số giáo viên đã có ý thức tìm tịi đổi mới vận dụng phương pháp, kĩ thuật dạy
học mới như: thảo luận nhóm, nêu tình huống có vấn đề, động não, bể cá, sơ đồ tư
duy, khăn trải bàn, phòng tranh, KWL... nhưng thiếu linh hoạt, sáng tạo. Việc vận
dụng trò chơi vào tiết học lại càng hiếm hoi hơn. Hoặc có sử dụng trị chơi thì cũng
ở mức gượng ép, miễn cưỡng dẫn đến một số giờ học Văn trở nên đơn điệu, căng
thẳng dẫn đến việc nhận thức của học sinh bị hạn chế.
Trước tình hình đó thiết nghĩ để nâng cao chất lượng giảng dạy và học môn
Văn là do nhiều yếu tố quyết định, chi phối: chương trình, sách giáo khoa, giáo án,
phương pháp giảng dạy của giáo viên, ý thức, thái độ học tập của học trị. Trong
đó, đổi mới phương pháp dạy học đóng vai trị then chốt. Có thể khẳng định, đổi
4


mới phương pháp giảng dạy đang trở thành yêu cầu cấp thiết hiện nay. Người giáo
viên dạy Văn cần khôi phục động lực học tập, khơi dậy niềm say mê, tình u Văn
học của học sinh, phát huy tính chủ động, gây hứng thú với học sinh bằng những
giờ dạy thực sự hấp dẫn, lôi cuốn bởi lẽ như William Arthur Ward, một nhà giáo
dục lỗi lạc của nước Mỹ ó tng núi Ch nói thôi là thầy giáo xoàng.
Giảng giải là thầy giáo tốt. Minh hoạ biểu diễn là thầy giáo giỏi.
Gây hứng thú trong học tập là thầy giáo vĩ đại.
Qua tham kho ng nghip v thc t giảng dạy tôi muốn được cùng các
đồng nghiệp chia sẻ, trao đổi một biện pháp mà bản thân tôi đã làm trong thời gian
qua để khắc phục tình trạng trên đó là : “Vận dụng phương pháp trị chơi nhằm

phát huy tính chủ động của học sinh, gây hứng thú trong giờ học Ngữ Văn ở
Trường THPT Cộng Hiền”. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của các cấp lãnh
đạo, Ban giám hiệu, tổ chuyên môn, các đồng nghiệp để biện pháp của tôi phát huy
hiệu quả cao hơn nữa.
2. Mục tiêu của biện pháp
- Góp phần đổi mới phương pháp dạy học mơn Ngữ Văn
- Phát huy tính chủ động và tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học Ngữ Văn ở
trường THPT Cộng Hiền và giờ học Ngữ Văn nói chung
- Hình thành năng lực cho học sinh ( theo chương trình GDPT mới) : Năng lực
chung: Tự chủ và tự học, giao tiếp và hợp tác, giải quyết vấn đề và sáng tạo; Năng
lực đặc thù: Năng lực ngôn ngữ, năng lực văn học
- Nâng cao chất lượng học tập của học sinh.
II. NỘI DUNG CỦA BIỆN PHÁP
1. Biện pháp áp dụng trò chơi.
1. 1. Nguyên tắc áp dụng phương pháp trò chơi trong giờ dạy Văn
Giáo viên cần chú ý đến đặc thù của từng phân mơn; lưu ý mối quan hệ giữa
trị chơi với hệ thống câu hỏi; vận dụng linh hoạt, hợp lí, đúng mức và đúng lúc để
khơng xáo trộn nhiều khơng gian lớp học, nhanh chóng ổn định lớp học khi trò
chơi kết thúc; trò chơi phải phù hợp với nội dung, mục tiêu cần đạt, không vận
dụng cho tất cả các tiết học, đôi khi gây phản cảm, phản tác dụng; trò chơi bao giờ
cũng kết thúc bằng thưởng cho người (đội) thắng hoặc xử phạt nhẹ nhàng cho vui
(dí dỏm, tế nhị).
1.2. Lồng ghép trị chơi vào các phân môn Ngữ văn: Do đặc thù của mỗi phân
môn, việc vận dụng lồng ghép trị chơi có những điểm khác nhau:
5


1.2.1. Đọc- văn: Tuỳ thuộc dạng bài (bài khái quát, ôn tập; đọc - hiểu văn
bản…), lượng kiến thức, mục tiêu bài học, thời lượng để áp dụng hình thức trò
chơi: trò chơi nhỏ dành cho một hoạt động dạy học hay trò chơi lớn cho cả tiết học.

Do đặc thù của phân mơn với mục đích cảm thụ cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn
chương, đòi hỏi những cảm xúc tinh tế, nên mức độ vận dụng trò chơi chỉ vừa
phải.
1.2.2. Tiếng Việt: Lồng ghép trò chơi đối với phân môn này là khá phù hợp,
đặc biệt là đối với những tiết thực hành, luyện tập. Trò chơi cần gắn với các bài
tập, hoặc các hình thức thực hành, luyện tập khác mà giáo viên nghĩ ra. Vận dụng
tốt giải pháp này, giờ học Tiếng Việt sẽ không cịn khơ cứng, học sinh sẽ cảm thấy
thoải mái, hứng thú, kích thích hoạt động tư duy của các em, quan trọng hơn là góp
phần phát triển năng lực sử dụng ngơn ngữ ở học sinh. Qua trị chơi, tư duy và khả
năng ngôn ngữ của các em sẽ được bộc lộ tự nhiên, giáo viên có thể phát hiện và
uốn nắn kịp thời những mặt còn hạn chế.
1.2.3. Làm văn: Chính là phần thực hành của Đọc văn và Tiếng Việt. Có thể
vận dụng trị chơi trong một số tiết học và khơng nên thực hiện hình thức này trong
cả tiết, với phân mơn này, việc lồng ghép hình thức trị chơi khơng thể thay thế
được các phương pháp cũng như hình thức tổ chức lớp học đặc thù như thực hành,
luyện tập, hoạt động theo nhóm hay cá nhân tự luyện tập các kĩ năng…Do đó
khơng nên gượng ép, để cố tình đưa trị chơi vào tất cả các giờ học làm văn.
1.3. Lựa chọn thời gian vận dụng trò chơi.
Khi áp dụng phương pháp trò chơi vào trong giờ học, giáo viên phải biết lựa
chọn thời điểm nội dung bài cần áp dụng trị chơi cho thích hợp, cụ thể là:
1.3.1. Sử dụng trò chơi vào đầu giờ học để kiểm tra bài cũ và khởi động tiết
học:
Cách vận dụng đó, vừa kiểm tra được kiến thức bài cũ để giải quyết trò chơi,
đồng thời bước đầu nhận ra nội dung kiến thức bài học mà các em sắp được học.
Bên cạnh đó, cịn tạo tâm lý thoải mái, phấn khởi, học sinh hào hứng học tập hơn,
giải tỏa tâm lý mệt mỏi, căng thẳng tinh thần do giờ học trước hoặc mệt mỏi do
hoàn cảnh xung quanh gây ra.
1.3.2. Sử dụng trị chơi nhằm hình thành tri thức mới:
Trò chơi thường được tổ chức sau khi đã tìm hiểu hoạt động 1 (tìm hiểu chung,
tìm hiểu ngữ liệu...), từ những kiến thức thực tế qua hoạt động 1, vận dụng những

kiến thức đó, giáo viên tổ chức trò chơi cho học sinh khám phá, phát hiện ra tri
thức mới, tri thức đó nằm ngay trong nội dung bài học.
1.3.3. Sử dụng trị chơi để hình thành kỹ năng:
6


Xác định mục đích của việc tổ chức trị chơi nhằm hình thành kỹ năng cho các
em, chúng ta tổ chức trò chơi trên cơ sở vận dụng những tri thức của bài vừa học.
Từ đó, giúp học sinh hình thành được những kỹ năng lựa chọn, cách giải quyết khi
gặp những tình huống trong cuộc sống cũng như một số kỹ năng quan trọng khi
làm bài...
1.3.4. Sử dụng trò chơi nhằm luyện tập củng cố, vận dụng tri thức, kĩ năng:
Khác với việc tổ chức trò chơi vào các thời điểm và mục đích khác nhau như
trên, ở thời điểm tổ chức trò chơi để củng cố, vận dụng với mục đích khác đó là: để
học sinh thâu tóm được nội dung bài học, giúp khắc sâu, nhớ rõ hơn nội dung vừa
học xong. Thời điểm tổ chức trò chơi với mục đích này thiết nghĩ vào cuối giờ học
là hợp lý nhất.
1.4. Lựa chọn nội dung tổ chức trò chơi.
Nội dung phải vừa sức học, phải đảm bảo đủ thông tin kiến thức mà học sinh
đã nắm được, khơng dễ q và cũng khơng khó q.
Nội dung cần phù hợp với cuộc sống thực tế của học sinh, giúp các em dễ vận
dụng vào thực tiễn. Nội dung trị chơi phải có tính khả thi, trị chơi đưa ra phải phù
hợp với thực tế trường, lớp.
1. 5. Sử dụng phương tiện khi tổ chức trò chơi.
Thực tế, qua các tiết dự giờ đồng nghiệp ở trường tôi, tôi thấy thường khi cho
học sinh chơi trò chơi, đa số chỉ tổ chức “suông” mà thiếu sự chuẩn bị như: máy
chiếu, phần mềm trị chơi, khơng hóa trang nhân vật, khơng đủ phiếu cá nhân,
khơng có thẻ xanh, thẻ đỏ để phục vụ đánh giá, khơng có phần thưởng…Chính vì
điều đó, mà mỗi lần tổ chức trị chơi là một lần thiếu hấp dẫn học sinh, dẫn đến sự
đơn điệu và nhàm chán. Vì vậy để tổ chức trị chơi trong giờ học văn đòi hỏi giáo

viên và học sinh phải chuẩn bị đầy đủ các phương tiện cần thiết.
1.6. Chọn cách tổ chức trị chơi có hiệu quả.
Trị chơi có thể tổ chức theo các bước sau:


Bước phổ biến trò chơi:

+ Giáo viên giúp học sinh nắm vững trò chơi như: Tên trò chơi, nội dung, cách
chơi, cách phân thắng bại…
+ Giáo viên chọn một số học sinh tham gia trò chơi, bảo đảm qua các giờ học,
lần lượt học sinh được tham gia tất cả, đặc biệt chú ý những học sinh nhút nhát, ít
phát biểu.
• Bước học sinh thực hiện trò chơi:
7


+ Các em thảo luận với nhau về việc thực hiện trị chơi.
+ Một nhóm học sinh thực hiện trị chơi trước lớp, cả lớp theo dõi.
+ Những em khác, nhóm khác có thể tiếp tục thực hiện trị chơi (đối với trị
chơi sắm vai thì có cách giải quyết khác).


Bước tổng kết, đánh giá:

- Giáo viên hướng dẫn học sinh đánh giá việc thực hiện trò chơi: trò chơi có
được thực hiện đúng quy tắc khơng, có phù hợp với nội dung bài học khơng, có thể
rút ra bài học gì qua trị chơi này? Giáo viên nhận xét, đánh giá chung và tuyên bố
nhóm (hay cá nhân) thắng cuộc (nếu có).
- Giáo viên khen thưởng nhóm có kết quả tốt bằng cách:
+ Tặng một tràng pháo tay cùng với những lời động viên khen ngợi.

+ Ghi điểm các thành viên trong nhóm.
+ Trao thẻ đỏ cho nhóm thực hiện tốt
+ Trao thưởng một hoặc hai gói quà cho đội thắng.
- Giáo viên phạt nhẹ ( hình thức phạt vui vẻ) với nhóm chưa tốt
+ Hát một đoạn bài hát, đọc một đoạn thơ
+ Làm 3 đến 5 động tác bất kì
+ Trao thẻ xanh....
Như vậy, với những biện pháp đã vận dụng vào từng thời điểm, mục đích, nội
dung khác nhau thật sự phát huy tác dụng, giờ dạy học thực sự là giờ “vừa học,
vừa
chơi”, kết hợp được giữa “học và hành”, hấp dẫn học sinh và gây sự chú ý học hơn
nhiều.
2. Sáng tạo một số trị chơi để vận dụng trong giảng dạy mơn Ngữ văn ở
trường THPT Cộng Hiền
Việc sáng tạo và lựa chọn một số trò chơi để vận dụng vào giờ dạy học nhằm
nâng cao hiệu quả giờ học môn Văn ở trường THPT Cộng Hiền nói riêng và trong
trường THPT nói chung là một vấn đề hết sức cần thiết. Trong q trình dạy học
tơi đã vận dụng thành cơng một số trò chơi sau:
2.1. Trò chơi sắm vai.
W. Shakespeare đă từng nói: “Tồn thế giới là nhà hát. Trong nhà hát có
đàn bà, đàn ơng. Tất cả đều là diễn viên. Ở họ, đều có lối ra sân khấu và lối rời
8


sân khấu của mình”. Quả vậy, trong xã hội mỗi cá nhân hay mỗi nhóm đều đảm
nhận những vai trị nhất định. Điều này giống như vai diễn trên sân khấu. Cùng
một lúc, mỗi cá nhân có thể đảm nhận nhiều vai khác nhau và các vai này thường
xuyên thay đổi. Do vậy, thuật ngữ đóng vai hay cịn gọi là sắm vai là một thuật ngữ
được sử dụng rất phổ biến. Theo từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê: “Đóng vai là
thể hiện nhân vật trong kịch bản lên sân khấu hay màn ảnh bằng cách hành động,

nói năng như thật”. [19; tr 337].
Hiểu như vậy thì “sắm vai” là phương pháp học sinh thực hành,“ làm thử”,
diễn thử một đoạn hội thoại nào đó hay đóng vai một nhân vật trong một đoạn
trích, tác phẩm nào đó.
Mục đích: Sắm vai nhằm giúp học sinh rèn luyện kỹ năng, nhận ra vấn đề,
giúp buổi học sinh động, có kết quả hơn… Giúp chính học sinh đóng vai cảm
nghiệm được tâm lý, thái độ, hành vi của đối tượng mình đóng vai, khắc sâu và
hiểu tác phẩm hơn. Giúp học sinh tự nhận ra những thế mạnh, hạn chế của chính
mình khi rơi vào tình huống của vai đã đóng.
Cách tiến hành trò chơi:
+ Dựa vào nội dung từng bài học, giáo viên đưa ra tình huống là một đoạn
hội thoại hay sắm vai theo nhân vật trong một đoạn trích, tác phẩm nào đó. Người
sắm vai là những học sinh xung phong, tình nguyện. Giáo viên đến từng nơi để góp
ý cho từng nhóm: như ngơn ngữ của nhân vật, cách thể hiện tâm trạng, cách hố
trang...sau đó cho các nhóm lên diễn.
+ Cả lớp và giáo viên nhận xét.
+ Tổng kết khen thưởng.
Ví dụ khi dạy bài “Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt” Ngữ văn 10- tập 1, thay
vì cách dạy quen thuộc giáo viên cho học sinh tìm hiểu ngữ liệu là đoạn hội thoại
trong sách giáo khoa để từ đó nhận xét về đặc trưng của ngơn ngữ sinh hoạt thì giờ
đây giáo viên có thể cho các em đóng vai các nhân vật trong đoạn hội thoại đó và
diễn trước lớp. Giáo viên cho 4 học sinh xung phong đóng vai các nhân vật: Lan,
Hùng Hương, mẹ Hương, bác hàng xóm, mỗi nhân vật đọc thuộc lời thoại của
mình và diễn trong 2 phút. Kết thúc giáo viên nhận xét cách diễn của mỗi học sinh,
tuyên dương học sinh nhập vai tốt nhất và góp ý cho những bạn nhập vai chưa tốt
sau đó yêu cầu cả lớp trả lời các câu hỏi: Nội dung của cuộc giao tiếp trên? Những
câu họ nói với nhau có chọn lọc trau chuốt khơng? Thời gian, địa điểm diễn ra
cuộc hội thoại trên? Ai nói? Ai nghe? Mục đích giao tiếp của mỗi người? Cách
dùng từ, câu của mỗi người? Thái độ của mỗi người khi giao tiếp? Giọng nói của
mỗi người? Cả lớp sẽ rất dễ dàng trả lời các câu hỏi như thế khi xem xong đoạn

9


kịch từ đó giáo viên dẫn dắt hình thành kiến thức của bài học: Ngôn ngữ sinh hoạt
là lời ăn tiếng nói hằng ngày dùng để trao đổi ý nghĩ, tình cảm....trong cuộc sống
và chủ yếu thể hiện ở dạng nói. Qua đó các em cũng dễ dàng tiếp thu kiến thức ở
tiết 2 của bài khi tìm hiểu về đặc trưng của phong cách ngôn ngữ sinh hoạt (gồm có
3 đặc trưng: tính cụ thể, tính cảm xúc, tính cá thể, đặc biệt ở đặc trưng thứ 3 “Tính
cá thể”, điều này nếu dạy theo cách cũ là cho một em đọc ngữ liệu rồi tìm hiểu nội
dung bài học thì học sinh sẽ khó nhận ra được mỗi nhân vật khi giao tiếp đều có
âm thanh giọng nói khác nhau đó là một trong những biểu hiện của tính cá thể).
Như vậy, ta thấy chỉ mất khoảng 5 phút cho các em sắm vai các nhân vật trong
giờ học nhưng thật sự đã đem lại hiệu quả rất cao, lớp học sôi nổi, học sinh dễ phát
hiện ra kiến thức mà bài học muốn hướng tới và nó giúp các em hình dung được
bài học một cách trực quan sinh động. Các em sẽ thấy giờ học tiếng Việt nhưng
không khô khan căng thẳng mà ngược lại rất vui được chơi, được thể hiện mình do
đó mà các em sẽ u q mơn học hơn.
Với trị chơi này ta cũng có thể vận dụng vào các tiết văn bản văn học khi
cho học sinh sắm vai tác giả, phóng viên khi tìm hiểu về tác giả, sắm vai nhân vật
khi có các đoạn hội thoại, các đoạn kịch nhưng với yêu cầu là giáo viên phải dặn
học sinh chuẩn bị trước ở nhà thậm chí là học thuộc lời thoại của nhân vật để
không bị mất thời gian.
2.2. Trị chơi tiếp sức.
Mục đích: Áp dụng trị chơi này nhằm huy động tính tích cực của tất cả học
sinh trong lớp, em nào cũng phải động não và hoạt động kể cả học sinh yếu kém.
Trò chơi này áp dụng khi giáo viên yêu cầu học sinh tìm những biểu hiện của một
nội dung, khái niệm của một bài học nào đó các em có thể thảo luận, phát hiện và
nêu ra những biểu hiện đó.
Cách tiến hành trị chơi:
+ Chuẩn bị bảng phụ và phiếu học tập cá nhân.

+ Trên lớp giáo viên treo bảng phụ, chia nhóm và công bố luật chơi.
+ Tổng kết cuộc chơi, rút kinh nghiệm và khen thưởng.
Ví dụ: Khi dạy bài “Thực hành về một số kiểu câu trong văn bản” - Ngữ
văn 11- tập 1. Khi dạy đến kiểu câu bị động giáo viên áp dụng trò chơi này bằng
cách chia lớp theo 4 nhóm, mỗi nhóm được phát một tập phiếu trắng, các em làm
việc và ghi ra câu chủ động và chuyển câu ấy sang câu bị động vào phiếu (một
phiếu ghi câu chủ động, một phiếu ghi câu bị động) rồi lần lượt từng em lên dán
phiếu vào bảng phụ cho phù hợp 2 cột (giáo viên chia bảng phụ ra làm 2 cột một
bên là câu chủ động, một bên là câu bị động) của nhóm mình. Trò chơi 3 phút, giáo
10


viên tuyên bố kết thúc cuộc chơi, hướng dẫn học sinh nhận xét, góp ý cách chuyển
câu chủ động sang câu bị động, nhóm nào tìm được nhiều ví dụ hơn thì thắng cuộc.
Giáo viên khen thưởng cho nhóm thắng cuộc bằng cách cộng điểm thực hành hoặc
một tràng pháp tay. Với hình thức này giáo viên vừa ơn lại kiến thức cũ mà các em
đã học ở cấp học dưới vừa hình này được tri thức mới của bài học một cách rất nhẹ
nhàng.
Hoặc khi dạy bài “Thực hành về thành ngữ, điển cố” Ngữ văn 11 tập 1: Khi
khởi động bài học, giáo viên tổ chức trò chơi tiếp sức khi cho học sinh lấy ví dụ về
thành ngữ và điển cố. Giáo viên chia lớp thành hai nhóm. Nhóm 1 lấy ví dụ về
thành ngữ, nhóm 2 lấy ví dụ về điển cố. Mỗi học sinh trong nhóm lấy một ví dụ, cứ
thế lần lượt chơi tiếp sức trong 1 phút. Nhóm nào lấy được nhiều ví dụ hơn, nhóm
đó chiến thắng. Phần thưởng cho đội thắng là lời khen của giáo viên/ một tràng
pháo tay. Khi luyện tập bài tập 6/ 67đặt câu với thành ngữ đã cho, giáo viên cũng
có thể tổ chức trị chơi tiếp sức.
2.3. Trị chơi “Trị chuyện cuối tuần”.
Mục đích: Trị chơi này tập cho các em luôn tự tin, mạnh dạn khi trình bày
một vấn đề trước đám đơng. Qua trò chơi, các em tự rút bài học kinh nghiệm cho
bản thân: như kĩ năng giao tiếp, ứng xử khi gặp những tình huống cụ thể trong

cuộc sống. Nắm bắt bài học một cách cụ thể dễ dàng.
Cách tiến hành trị chơi:
+ Chọn 1 học sinh dẫn chương trình.
+ Chọn 2-3 học sinh là khách mời để thực hiện trò chơi. Cả lớp và giáo viên
là khán giả.
+ Kết thúc giáo viên tuyên dương các nhân vật thực hiện trò chơi và rút ra
bài học kinh nghiệm.
Ví dụ: Khi dạy bài “Trình bày một vấn đề”- Sách Ngữ văn 10- Tập 1 đến
mục III (phần trình bày vấn đề với đề tài đã chọn “thời trang và tuổi trẻ” giáo viên
tổ chức trị chơi này là hợp lí nhất). Giáo viên chọn 1 học sinh làm người dẫn
chương trình 3 học sinh còn lại là khách mời, mỗi vị khách mời sẽ trình bày một
khía cạnh về đề tài đã cho. Các học sinh cịn lại vai khán giả có thể đặt những câu
hỏi để hỏi những vị khách mời bất cứ câu hỏi nào có nội dung xoay quanh bài học.
Như vậy, đòi hỏi các vị khách mời phải biết sáng tạo, linh hoạt, nhanh nhạy trong
xử lý tình huống khi người dẫn chương trình và khán giả hỏi. Qua thực tế cho thấy,
những học sinh vai những vị khách mời rất thích mình được đóng vai những nhân
vật trên, cho nên các em luôn thể hiện rõ bản lĩnh, phong cách chững chạc, tự tin
của mình trước khán giả. Cịn khán giả thì rất thích để tìm ra những câu hỏi hóc
11


búa, hỏi những vị khách mời, xem có trả lời được khơng…Trị chơi diễn ra khoảng
10 phút, giáo viên tun bố kết thúc cuộc chơi và cho cả lớp nhận xét: cách trình
bày vấn đề của mỗi bạn? các bạn trình bày theo trình tự như thế nào nào ? Ai được
cả lớp khen nhiều, ủng hộ nhiều sẽ được nhận được món q nhỏ của giáo viên
thưởng. Qua trị chơi học sinh dễ tiếp thu kiến thức của bài học một cách trực quan
sinh động. Khi trình bày một vấn đề thường theo các bước: Bắt đầu trình bày
(Bước lên diễn đàn như thế nào? Chào cử tọa và tự giới thiệu bằng lời lẽ, cử chỉ ra
sao?). Trình bày nội dung chính (Bắt đầu nội dung thứ nhất thế nào? Làm thế nào
để chuyển ý từ nội dung này sang nội dung khác? Cần điều chỉnh nội dụng, tư thế

cách nói ra sao khi người nghe có phản ứng...) Và cuối cùng là kết thúc và cảm ơn
(Tóm tắt và nhấn mạnh một số ý chính. Cảm ơn người nghe). Từ đó cho thấy học
sinh động hẳn lên, học sinh đã nhận biết, thông hiểu và vận dụng kiến thức bài học
vào thực tế trong một tình huống giả định
2.4. Trị chơi nhìn hình đốn chữ.
Mục đích giúp học sinh phát huy khả năng tư duy nhanh nhạy của minh, tạo
khơng khí sơi nổi trong giờ học, tạo sự hứng thú và bớt căng thẳng ở học sinh. Trị
chơi này có thể áp dụng khi tìm hiểu kiến thức mới của bài học hoặc áp dụng ở
phần củng cố của bài học.
Cách tiến hành trò chơi: Giáo viên chuẩn bị hình ảnh minh họa liên quan đến
nội dung bài học có sử dụng trị chơi. Giáo viên chiếu hình lên máy chiếu hoặc treo
hình lên bảng phụ và cho cả lớp đốn những hình ảnh ấy thể hiện nội dung gì? Cả
lớp cùng chơi và học sinh nào trả lời được đúng và nhiều hình nhất sẽ được thưởng
tràng pháo tay hoặc cộng thêm điểm. Giáo viên nhận xét rút ra nội dung bài học,
tuyên dương những em trả lời tốt và nhắc nhở những em chưa thật sự tập trung.
Ví dụ khi dạy bài : “Vĩnh biệt Cửu Trùng đài” SGK Ngữ Văn 11 tập 1, trong
hoạt động khởi động, giáo viên chiếu một số hình ảnh về các cơng trình kiến trúc
nổi tiếng của thế giới và của Việt Nam. Giáo viên tổ chức trò chơi nhìn hình đốn
chữ giữa các cá nhân hoặc các nhóm. Học sinh quan sát hình ảnh và đốn tên của
cơng trình kiến trúc đó.
Với trị chơi này giáo viên cũng có thể áp dụng khi dạy bài “Thực hành về
thành ngữ, điển cố” Sách Ngữ Văn 11- tập 1. Sau khi dạy xong đến phần củng cố
giáo viên tổ chức cho các em chơi khoảng 3 phút nhằm khắc sâu hơn kiến thức bài
học. Giáo viên chiếu những hình ảnh lên máy chiếu hoặc treo những hình ảnh đã
chuẩn bị sẵn lên bảng phụ và cho các em nhìn vào hình và đọc xem hình ảnh ấy
muốn nói tới câu thành ngữ nào? Ai đọc đúng và nhanh sẽ được giáo viên tuyên
dương trước lớp hoặc nhận phần quà nhỏ của giáo viên. Như vậy các em sẽ rất ấn
tượng với bài đã được học do dó mà sẽ nhớ bài lâu hơn.
12



( Khi chiếu bằng máy chiếu những hình trên là hình động, học sinh rất dễ đốn ra
câu thành ngữ)
2.5. Trị chơi ơ chữ bí mật
Hình thức: Trị chơi ơ chữ trong dạy học có nhiều dạng khác nhau, có thể là
giải những ơ chữ hàng ngang rồi tìm từ khóa trong ơ chữ hàng dọc, có thể là ơ chữ
dưới dạng sơ đồ …Mỗi ơ chữ có lời gợi ý và nội dung ơ chữ có liên quan trực tiếp
đến bài học.
Mục đích: Giới thiệu vào bài mới hoặc củng cố khắc sâu kiến thức của bài
học. Phát huy tư duy nhanh nhạy, sáng tạo của học sinh.
Cách chơi: Giáo viên giới thiệu qua ơ chữ gồm có bao nhiêu hàng ngang,
hàng dọc từ chìa khố nằm ở hàng nào sau đó giáo viên lần lượt đọc từng câu hỏi
gợi ý để học sinh xung phong giải ô chữ. Nếu bạn nào trả lời đúng thì ghi dịng chữ
đó vào ô chữ và sẽ được cộng điểm hoặc tuyên dương cịn nếu trả lời sai thì sẽ
nhường cơ hội cho các bạn cịn lại. Ai tìm ra được ơ từ khóa chính xác và nhanh
nhất sẽ là người chiến thắng.
Với trị chơi này chúng ta có thể áp dụng cho tất cả các bài học đặc biệt là ở
các bài giảng văn, áp dụng chơi vào đầu giờ để khởi động tiết học nhằm gây hứng
thú với học sinh hoặc lúc củng cố để các em khắc sâu nội dung bài học. Ví dụ sau
khi học xong bài “Đọc Tiểu Thanh ký”- Tiết 40 - Ngữ văn 10- Tập 1, giáo viên
chia lớp thành các nhóm và tiến hành tổ chức trò chơi để củng cố bài học. Sau khi
phổ biến thể lệ cuộc chơi giáo viên treo ô chữ lên bảng và trình bày ơ chữ chúng ta
cẩn tìm hơm nay gồm 7 chữ cái, đây là một trong những giá trị nổi bật trong sáng
tác của Nguyễn Du. Để tìm được ơ chữ này chúng ta có 7 câu hỏi gợi ý ở hàng
ngang:
1/ Đây là tên của nhân vật được đề cập đến trong bài thơ?
2/ Địa danh được nhắc đến trong bài “Đọc Tiểu Thanh ký”?
3/ Đây là tập thơ Tiểu Thanh cịn sót lại sau khi chết?
4/ Hãy điền từ còn thiếu vào chỗ trống: “Đau đớn thay phận........... Lời rằng bạc
mệnh cũng là lời chung”?

5/ Từ “độc” trong phần nguyên tác của bài thơ Đọc Tiểu Thanh ký dịch ra phần
phiên âm có nghĩa là gì?
6/ Đề tài mà Nguyễn Du quan tâm trong các sáng tác của ông?
7/ Đoạn thơ sau Nguyễn Du muốn nhắc đến nhân vật nào trong Truyện Kiều?
Rằng: Hồng nhan tự thuở xưa,
13


Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu
Nỗi niềm tưởng đến mà đau,
Thấy người nằm đó biết sau thế nào?
Đáp án của trò chơi trên sẽ là:
T

I



U

T

P

H

H

A


N

H

T

Â

Y

H



P

H



N

D

Ư

Đ

À


N

B

À

Đ



C



N



Đ



M

T

I

Ê


N

2.6. Trò chơi ghép hình đúng/ ơ cửa bí mật
Trị chơi xếp hình đúng có thể là xếp các mảnh ghép khác nhau thành một
hình hồn chỉnh, có thể là xếp các hình với những mảnh ghép ghi nội dung có
chung đặc điểm vào một nhóm, một thể loại. Để tổ chức trị chơi này, giáo viên cần
có sự chuẩn bị sẵn các mảnh ghép. Những mảnh ghép đó có thể là hình ảnh, có thể
là chữ viết thể hiện nội dung.
Mục đích: Rèn luyện sự nhanh nhẹn, khéo léo giúp học sinh nhớ lại nội
dung bài học một cách lôgic.
Cách chơi: Giáo viên treo một số hình ảnh và một số mảnh ghép ghi nội
dung liên quan đến bài học lên bảng. Tuỳ vào mục đích bài học mà giáo viên cho
học sinh xung phong lên xếp những mảnh ghép thành một hình hồn chỉnh hoặc
xếp những mảnh ghép có ghi nội dung tương ứng với một hình ảnh nào đó theo
u cầu của giáo viên, đội nào xếp các mảnh ghép đúng hoàn thành trong thời gian
ngắn hơn sẽ là đội chiến thắng.

14


Dưới đây là một ví dụ minh họa khi tổ chức trị chơi để ơn tập kiến thức cũ
và hình thành kiến thức mới của bài học: Khi dạy bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn
Mặc Tử- Ngữ Văn 11- tập 2. Khi đi tìm phần tìm hiểu chung, mục 1- tác giả thì
giáo viên có thể cho học sinh chơi trò chơi này bằng cách cho các mảnh ghép gồm
hình của 3 tác giả Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử và các mảnh ghép có đánh
dấu theo số thứ tự 1, 2,3... (làm bằng giấy rô ki) ghi các thông tin liên quan về ba
tác giả trên. Giáo viên chia lớp làm các nhóm tự thảo luận lắp ráp các hình và các
mảnh ghép ghi thơng tin lại với nhau rồi đội nào xung phong lên ráp đúng các
thơng tin tương ứng với mỗi tác giả thì đội đó chiến thắng, nếu khơng đúng sẽ
nhường phần cho các đội khác (Học sinh sẽ dễ dàng ghép được các thơng tin và

hình ảnh tương ứng với nhau khi sử dụng phương pháp loại suy ). Giáo viên nhận
xét và kết thúc trò chơi, với việc áp dụng trò chơi này các em sẽ ôn tập được kiến
thức cũ về tác giả Xuân Diệu, Huy Cận mà các em đã học ở các tiết học trước đồng
thời cũng hình thành được kiến thức mới về tác giả Hàn Mặc Tử. Như vậy giáo
viên vừa tiết kiệm được thời gian chỉ mất 7 phút (vừa dò bài cũ vừa dạy được kiến
thức mới), lại tạo được hứng thú cho các em khi học bài mới vì thế tiết học sẽ trở
nên sơi động hơn...Trị chơi này chúng ta có thể áp dụng cho rất nhiều tiết giảng
văn đặc biệt là phần tìm hiểu về các tác giả...
Sau đây là hình ảnh minh họa cho trò chơi: Giáo viên treo lên bảng những
mảnh ghép như sau:
a/ Hình ảnh của 3 tác giả Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử.

b/ Các mảnh ghép ghi thông tin liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp của 3 tác giả
trên và được đánh dấu theo thứ tự từ 1-13.
1/ (1916 – 1985) bút danh Trảo Nha. Quê quán: Hà Tĩnh
2/ Tác phẩm chính: Tập “Lửa thiêng”, “Vũ trụ ca, Đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời…
3/ Gia đình: viên chức nghèo, cha mất sớm, sống với mẹ ở Quy Nhơn
4 / Năm 1936, mắc bệnh phong. Mất tại trại phong Quy Hoà.
5/ Tên khai sinh: Nguyễn Trọng Trí (1912 – 1940). Quê: Đồng Hới - Quảng Bình.
15


6/ Là nhà thơ của tình yêu, của mùa xuân và tuổi trẻ với giọng thơ sôi nổi, đắm say,
yêu đời thắm thiết.
7/Tác phẩm: Thơ thơ (1938), “Gửi hương cho gió” (1945), Riêng chung (1960)...
8/ Thơ ơng hàm súc, giàu chất suy tưởng, triết lí.
9/ Ơng là nhà thơ, nhà văn, nhà nghiên cứu phê bình thơ, nhà dịch thơ, nhà bình
thơ, nhà văn hố lớn của VN thế kỷ XX.
10/ (1919 - 2005). Xuất thân: gia đình nhà nho nghèo ở tỉnh Hà Tĩnh
11/ Ông là nhà thơ lớn, một trong những đại biểu xuất sắc của phong trào Thơ mới

với hồn thơ ảo não.
12/ Ông là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất phong trào Thơ
Mới.
13/ Các tác phẩm chính:Gái quê, Thơ điên, Xuân như ý....
3/ Đáp án chúng ta sẽ có 3 hình sau ( Học sinh có thể ghép theo hàng dọc như ở
dưới hoặc ghép theo hàng ngang)
*/ Hình 1: Tác giả Xuân Diệu

1/ (1916 – 1985) bút danh Trảo Nha. Quê quán: Hà Tĩnh
6/ Là nhà thơ của tình yêu, của mùa xuân và tuổi trẻ với giọng thơ sôi nổi, đắm say,
yêu đời thắm thiết.
7/Tác phẩm: Thơ thơ (1938), “Gửi hương cho gió” (1945), Riêng chung (1960)...
9/ Ơng là nhà thơ, nhà văn, nhà nghiên cứu phê bình thơ, nhà dịch thơ, nhà bình
thơ, nhà văn hố lớn của VN thế kỷ XX.
*/ Hình 2: Tác giả Huy Cận

16


10/ (1919 - 2005). Xuất thân: gia đình nhà nho nghèo ở tỉnh Hà Tĩnh

2/ Tác phẩm chính: Tập “Lửa thiêng”, “Vũ trụ ca, Đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời…

11/ Ông là nhà thơ lớn, một trong những đại biểu xuất sắc của phong trào Thơ mới
với hồn thơ ảo não.

8/ Thơ ông hàm súc, giàu chất suy tưởng, triết lí.
*/ Hình 3: Tác giả Hàn Mặc Tử

17



5/ Tên khai sinh: Nguyễn Trọng Trí (1912 – 1940). Quê: Đồng Hới - Quảng Bình.
3/ Gia đình: viên chức nghèo, cha mất sớm, sống với mẹ ở Quy Nhơn
4 / Năm 1936, mắc bệnh phong. Mất tại trại phong Quy Hồ.
13/ Các tác phẩm chính:Gái q, Thơ điên, Xn như ý....
12/ Ơng là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất phong trào thơ
Mới.
2.7.Trò chơi trả lời nhanh
Trị chơi này có thể tổ chức dưới dạng các gói câu hỏi. Mỗi gói câu hỏi đều
liên quan đến kiến thức của các bài học trước.
Mục đích: Giúp học sinh tích cực huy động trí nhớ, tư duy và khả năng phản
ứng nhanh về các nội dung đã được học.
Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị các gói câu hỏi và đáp án cho các đội chơi, thẻ
điểm …
Cách chơi: Chia nhóm. Mỗi đội chọn cho mình một gói câu hỏi. Cử đại diện
người để lên trả lời câu hỏi. Cuối cùng giáo viên tổng kết đội nào có nhiều câu trả
lời đúng và số điểm cao nhất thì đó là đội chiến thắng.
2.8. Trị chơi Nhanh tay - nhanh trí
Minh họa: Bài ơn tập phần Văn học- Ngữ Văn 11 , tập 1, để hệ thống lại tồn bộ
các tác phẩm, tác giả trong chương trình HKI, GV tổ chức trò chơi nho nhỏ(trong
vòng 10 phút). Gv chuẩn bị sẵn phiếu học tập đã kẻ sẵn bảng biểu lần lượt các cột
mục: STT, Tên tác giả, Tên tác phẩm, thể loại, Năm sáng tác/ xuất xứ, Nội dung,
Nghệ thuật. Chia lớp thành 6 nhóm. Các nhóm thi viết các nội dung trên vào phiếu
học tập, trong vòng 10 phút, khơng sử dụng bất kì sách , vở, tài liệu nào, nhóm nào
viết được sống lượng nhiều và đầy đủ sẽ chiến thắng. Hình thức thưởng, phạt do
lớp quy định. Việc lồng ghép trò chơi điền bảng, thảo luận nhóm khi dạy các bài
Khái qt, Ơn tập khá phù hợp và đạt hiệu quả cao. Thay vì cho HS lập bảng
thống kê bình thường, trong giờ Ơn tập, GV chia lớp thành các nhóm khác nhau,
cử đại diện trình bày, nhận xét… Bằng cách này, tơi nhận thấy giờ học sinh động,

hào hứng hơn nhiều so với cách truyền thống.
18


2.9. Trị chơi: Rung chng vàng/ người chiến thắng/ đấu trường 100
- Cách tổ chức: Giáo viên chuẩn bị gói câu hỏi ( trắc nghiệm hoặc tự luận)
+ Học sinh chuẩn bị giấy A4 hoặc bảng con, bút dạ /phấn
+ Giáo viên đưa câu hỏi, các học sinh trả lời ( có thể theo nhóm) Học sinh nào trả
lời sai sẽ phải đứng sang hai bên lớp/cuối lớp/trên bục giảng...
+ Kết thúc gói câu hỏi, hs nào ở lại sau cùng sẽ là người chiến thắng
- Áp dụng : Tất cả các hoạt động
2.10. Trò chơi: Soi gương
- Cách tổ chức
+ Một học sinh làm gương soi, một học sinh làm người soi gương
+ Học sinh làm gương soi sẽ nói/ làm theo học sinh làm người soi gương.
+ Có thể đổi vai
- Áp dụng :
+ Kiểm tra bài cũ các bài
+ Gọi 2 học sinh( 1 học sinh có lực học khá, chăm chỉ làm người soi gương, còn
học sinh có lực học trung bình, lười học làm gương soi)
- Củng cố tiết học: Chia cặp, học sinh tự phân cơng đóng vai
2.11. Trị chơi: Xếp vali
- Cách thức: Gọi tên một đơn vị kiến thức là chiếc vali có các ngăn
Chia nhóm học sinh thi xếp đầy ngăn vali
Nhóm nào hồn thành trước sẽ chiến thắng
Hoặc mỗi nhóm xếp một ngăn
- Áp dụng : Hình thành kiến thức, luyện tập, vận dụng
2.12. Trò chơi Đường lên đỉnh Olimpia/ Ai là triệu phú
- Cách thức: Chia lớp thành các đội chơi theo các vịng chơi trong chương trình.
- Minh họa: Một phần của bài hoặc cả bài khái quát và ôn tập

IV. KẾT LUẬN
1. Hiệu quả của sáng kiến
Qua việc tổ chức trò chơi học tập cho học sinh trong một số giờ học Văn tôi
thấy đã đạt được một số kết quả sau:
19


* Đối với giáo viên:
Tạo được tình huống có vấn đề rất sinh động và hấp dẫn để giáo viên khắc sâu
kiến thức. Từ đó làm cho khơng khí lớp học sôi nổi, giảm sự đơn điệu, tăng hứng
thú học tập cho học sinh nhờ đó đã nâng cao hiệu quả việc dạy và học đặc biệt với
những em sức học yếu, chậm, nhút nhát.
Thực hiện đổi mới phương pháp giáo dục một cách sáng tạo và hiệu quả.
* Đối với học sinh: Giúp các em
Rèn luyện tư duy, tác phong nhanh nhạy biết xử lý tình huống linh hoạt.
Học sinh thích thú với trị chơi trong giờ học do đó năng động hăng say phát
biểu xây dựng bài vì vậy mà các em tiếp thu kiến thức dễ dàng hơn.Các em có điều
kiện cùng chuẩn bị bài học, chủ động trong học tập...
Học sinh không buồn ngủ, mệt mỏi, chán nản. Hiệu quả tiếp thu kiến thức, hình
thành kĩ năng, năng lực tốt hơn.
Để thấy rõ hiệu quả và tính khả thi của đề tài ta sẽ so sánh 2 bảng số liệu ghi
kết quả khảo sát ý kiến và chất lượng học tập của học sinh 5 lớp thực nghiệm trong
năm học 2018- 2019, 2019- 2020 trước và sau khi áp dụng phương pháp lồng ghép
trò chơi trong dạy học Ngữ văn :
* Khi chưa áp dụng đề tài:
Số học sinh
khảo sát

Hay phát biểu


Hứng thú với
giờ học

Điểm thi khảo sát
đầu năm đạt TB trở
lên

48/120

70/120

30/82

59/82

16/202

78/202

129/202

(7,9%)

(38,61%)

(63,86%)

Lớp 12 A4,
12 A6, 12
A7


9/120

Lớp
11B5,11B8
Tổng số

7/82

* Sau khi áp dụng đề tài
Số học sinh khảo
sát

Hay phát biểu

Hứng thú với
giờ học

Điểm thi học
kì 1 từ TB
20


trở lên
Lớp 12 A4, 12 A6,
12 A7

29/120

89/120


98/120

Lớp 11B5, 11B8

22/82

70/82

72/82

Tổng số

51/202

159/202

170/202

( 25,25% )

(53,96%)

(84,16%)

Kết quả trên cho thấy so với kết quả khảo sát đầu năm như phần thực trạng đã
nêu thì rõ ràng hình thức dạy học này đã khắc phục phần nào nhược điểm học tập
thụ động ở học sinh, giúp học sinh hứng thú, chủ động, giáo viên cũng có thể phát
huy tốt tính sáng tạo trong giảng dạy và đích cuối cùng là kết quả học tập của học
sinh được nâng lên đáng kể. Cũng nhờ vào việc áp dụng trò chơi trong giờ dạy học

mà trong những năm qua chất lượng bộ môn của bản thân tôi được nâng lên rõ rệt,
cụ thể là:
Năm học 2018- 2019 tỉ lệ học sinh đạt trung bình trở lên: 72%, tỉ lệ học sinh
khối 12 thi THPT Quốc Gia đạt trung bình trở lên là 80 %
Học kì I năm học 2019- 2020 tỉ lệ học sinh khối 11 đạt trung bình trở lên là
78%
Điều này giúp tơi tin tưởng vào thành công của sáng kiến. Chắc chắn kết quả
học tập của năm học 2019- 2020 và năm sau sẽ đạt cao hơn.
Tuy nhiên, thành cơng của sáng kiến cịn nhờ vào sự nhiệt tình hưởng ứng của
đội ngũ giáo viên Ngữ Văn trường THPT Cộng Hiền và đã được học sinh tích cực
đón nhận, học tập và rèn luyện. Để hoàn thiện sáng kiến hơn nữa , xin được tiếp
nhận những ý kiến góp ý của quý đồng nghiệp.
III. KẾT LUẬN
1. Ưu điểm:
Trong số những biện pháp dạy học tích cực hóa, sử dụng trị chơi được xem
là một trong những phương pháp dạy học hiệu quả, nhằm tạo ra quá trình tương
tác, thu hút, động viên học sinh tham gia hợp tác để nâng cao tính tự giác tạo cơ
hội cho các em thực hành vận dụng những kinh nghiệm, những tri thức đã học để
góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn Văn.
Kết quả thực nghiệm cho phép khẳng định việc sử dụng trò chơi trong dạy
học môn Ngữ văn giúp cho học sinh chủ động tham gia vào quá trình học tập, làm
21


cho học sinh hứng thú với môn học và các em thực sự trở thành chủ thể của hoạt
động học, kết quả học tập của các em dần được nâng cao đã chứng minh được tính
đúng đắn của những giải pháp mà sáng kiến đặt ra.
2. Hạn chế:
Ứng dụng trong hoạt động hình thành kiến thức mới cịn chưa phổ biến,
chưa phong phú, hấp dẫn

Một số trò chơi chưa tải được phần mềm ứng dụng, còn sử dụng kĩ thuật thủ
cơng nên chưa thực sự hấp dẫn.
Việc quản lí học sinh khi tham gia trị chơi đơi khi gặp khó khăn.
3. Phương hướng khắc phục:
Giáo viên cần đầu tư nhiều vào việc thiết kế các loại trò chơi dạy học, hình
thức tổ chức phải phong phú, hấp dẫn mới thu hút, lôi cuốn được tất cả học sinh
tham gia vào q trình học tập một cách tự nhiên và có tinh thần trách nhiệm xây
dựng bài. Từ đó, chất lượng dạy và học bộ môn Văn ngày càng được nâng cao.
Giáo viên cần tự bồi dưỡng công nghệ thông tin để ứng dụng phần mềm vào
trị chơi
Ngồi ra giáo viên cần nghiên cứu tùy theo số lượng học sinh, điều kiện cơ
sở vật chất để tổ chức các trò chơi sao cho phù hợp với đặc điểm của từng lớp học,
cần quản lí học sinh nghiêm túc
4/ Trong q trình dạy học, giáo viên cần yêu cầu học sinh nghiêm túc trong
học tập và thường xuyên kiểm tra công tác chuẩn bị học tập của học sinh ở nhà,
phải theo dõi quá trình học tập của học sinh để làm cơ sở cho quá trình kiểm tra
đánh giá được khách quan hơn, tạo động cơ học tập tốt cho học sinh.
5/ Căn cứ vào nội dung chương trình giảng dạy mơn Văn, giáo viên có thể sưu
tầm và thiết kế các loại trò chơi cho từng bài thuộc từng phần học và nghiên cứu
sử dụng phối hợp giữa sử dụng phương pháp trò chơi vào dạy học và các phương
pháp dạy học khác.
II. KIẾN NGHỊ
Nhà trường cần trang bị thêm cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho dạy học, có
chính sách động viên cho giáo viên thiết kế các phương tiện dạy học mới để phục
vụ tốt cho giảng dạy.

22


Tài liệu tham khảo

1. T in ting Vit- Hong Phờ chủ biên - Trung tâm từ điển học 2006.
2. Áp dụng dạy và học tích cực trong mơn văn học - GS Trần Bá Hoành - TS
Nguyễn Trọng Hoàn Đại học Sư Phạm Hà Nội. 2005.
3. Phương pháp dạy học - GS Phan Trọng Luân - NXB Giáo dục. 2000
4. Tạp chí dạy học ngày nay - Nhiều tác giả - NXBGiáo dục. 2006
5. Bộ sách giáo khoa chương trình Ngữ văn 10, 11,12 - NXB Giáo dục 2007.
6. Tài liệu trên Internet

PHỤ LỤC
1. Giáo án minh họa bài: Ôn tập Văn học- Ngữ văn 11 tập 1

Ngày soạn

Dạy

Ngày

Tiết

23


Lớp

ÔN TẬP VĂN HỌC
I. MỤC TIÊU
Ôn xong bài, hs nắm được
1. Kiến thức, kĩ năng
a. Kiến thức
- Biết được đặc điểm cơ bản làm nên diện mạo và bản chất một nền văn học mới.

- Hiểu những tri thức cơ bản về văn học Việt Nam hiện đại và văn học nước ngồi trong
chương trình trên hai phương diện lịch sử và thể loại
- Vận dụng phân tích văn học theo từng cấp độ
b. Kĩ năng
- Biết đọc hiểu các văn bản theo đặc trưng thể loại
2. Định hướng phát triển phẩm chất và năng lực.
a. Các phẩm chất
- Giáo dục lòng yêu nước, chăm chỉ, trách nhiệm
b. Các năng lực chung
- Năng lực tự chủ, tự học; hợp tác ,giao tiếp
c. Các năng lực chuyên biệt
- Năng lực đọc – hiểu các tác phẩm văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám
1945 đến hết thế kỉ XX.
- Năng lực trình bày suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về giai đoạn văn học.
- Năng lực phân tích, so sánh đặc điểm của các bộ phận văn học, xu hướng văn học
giai đoạn này;
- Năng lực tạo lập văn bản nghị luận văn học.
II. Chuẩn bị
1. GV : - SGK, SGV, Tài liệu tham khảo .
2. HS : Chuẩn bị các câu hỏi, bài tập, sản phẩm...
III. Tổ chức dạy và học.
1. Ổn định tổ chức lớp:
- Kiểm tra sĩ số, trật tự, nội vụ của lớp
24


2. Kiểm tra bài cũ: Không
3. Tổ chức dạy và học bài mới:
HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG
- Thời gian: 3 phút

- PP, KT dạy học tích cực: Trị chơi, nêu vấn đề, động não, tia chớp

Chuẩn kiến thức kĩ
năng cần đạt, năng
lực cần phát triển

Hoạt động của GV và HS
- GV giao nhiệm vụ:

Dẫn vào bài mới

+ Chia lớp thành 4 nhóm, tổ chức thi nhanh tay, nhanh trí
giữa các nhóm, nhận biết tên tác giả và tác phẩm. Mỗi câu trả
lời được 10 điểm. Nhóm nào trả lời trước sẽ giành chiến
thắng.
- HS thực hiện nhiệm vụ: Xem thông tin, ghi câu trả lời vào
giấy A4
- HS báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ
- GV nhận xét và dẫn vào bài mới
Như vậy là chúng ta đã thực hiện nội dung đọc hiểu Văn bản
Ngữ văn 11 HKI giai đoạn đầu thế kỉ XX đến năm 1945,
nhất là phần văn xuôi hiện đại. Hôm nay, chúng ta ôn lại văn
học giai đoạn này để khắc sâu kiến thức.
HĐ HÌNH THÀNH KIẾN THỨC
- Thời gian: 70 phút
- PP, KT dạy học tích cực: Nêu vấn đề, thảo luận nhóm, trình bày một phút, động não,
tia chớp
HĐ của GV

HĐ của HS


Chia lớp thành các Làm BT theo nhóm
nhóm thảo luận trình Đại diện Nhóm 1 trình
bày theo u cầu câu bày
hỏi SGK
Nhóm 1: Câu 1: Văn

Chuẩn kiến thức cần đạt
I- Đặc điêm của VHVN từ đầy TK
XX đến CMT8 1945 có sự phân
hoá phức tạp thành nhiều bộ phận,
nhiều xu hướng trong quá trình
phát triển.
25


×