Tải bản đầy đủ (.docx) (195 trang)

Nghiên cứu thành phần hoá học và hoạt tính sinh học của lá cây giá (excoecaria agallocha l ) và cây đơn lá đỏ (excoecaria cochinchinensis lour )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.86 MB, 195 trang )

1

MỞ ĐẦU
Trải suốt lịch sử nhân loại, nguồn sinh vật biển và nguồn thực vật đã trở
thành nguồn nguyên liệu tiềm năng cho nghiên cứu phát hiện các biệt dược phục vụ
chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Hơn 70% thuốc chống ung thư trên thị trường hiện
nay có nguồn gốc thiên nhiên hoặc được tổng hợp theo mẫu hình cấu trúc của hợp
chất thiên nhiên. Song song bệnh ung thư hiện đang là vấn đề đau đầu của các nhà
khoa học, c c căn bệnh liên quan đến kh ng sinh trước đây được điều trị bằng cách
dùng các thuốc kh ng sinh như penicillin, cephalosporin... Tuy nhiên, hiện nay đã
xuất hiện tình trạng lạm dụng thuốc kháng sinh khơng những ở Việt Nam và cả trên
thế giới, ngoài c c nguyên nhân thường gặp như ở các quốc gia khác, cịn có ngun
nhân từ thói quen tự chữa trị và “bắt chước” đơn thuốc của người dân. Chính những
nguyên nhân này làm xuất hiện hiện tượng gọi là kháng kháng sinh. Kháng kháng
sinh là tình trạng các vi sinh vật như vi khuẩn, vi rút, nấm và ký sinh trùng thay đổi
cách thức hoạt động, làm cho các thuốc trị bệnh do chúng gây ra trở nên vô hiệu.
Trên thế giới đã xuất hiện các vi khuẩn kháng hầu hết kháng sinh, còn gọi là vi
khuẩn siêu kháng thuốc. Vấn đề kháng thuốc không phải là mới, nhưng đã trở nên
nguy hiểm, cấp b ch, địi hỏi phải có nỗ lực tổng hợp nhằm giúp nhân loại tránh
khỏi cảnh quay trở lại thời kỳ chưa có thuốc kh ng sinh (năm 1942).
Vai trò quan trọng của các hợp chất thiên nhiên có hoạt tính sinh học đã được
khẳng định từ các nền y học cổ truyền cho đến y học hiện đại. Giá trị của chúng khơng
chỉ có cơng dụng trực tiếp làm thuốc chữa bệnh mà vì cịn có thể dùng làm nguyên mẫu
hoặc cấu trúc dẫn đường cho sự phát hiện và phát triển nhiều dược phẩm mới. Trong
việc nỗ lực điều tra, nghiên cứu và tìm kiếm nguồn dược liệu phục vụ cho c c chương
trình chăm sóc sức khỏe cộng đồng, việc thực hiện các nghiên cứu, tìm kiếm các hợp
chất có nguồn gốc từ thiên nhiên có hoạt tính gây độc tế bào, ức chế sự phát triển của tế
bào ung thư, c c nguồn kháng sinh thế hệ mới… để ứng dụng trong phòng ngừa, chữa
trị các bệnh ung thư, kh ng sinh, kh ng lao… là một trong những nhiệm vụ đặc biệt
quan trọng đã và đang được các nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm. Bên cạnh
các nguồn tài nguyên thực vật có mạch trên đất liền, nguồn tài nguyên sinh vật biển,


nguồn tài nguyên thực vật rừng ngập mặn và thực vật tham gia ngập mặn đã và đang
trở thành đối tượng thu hút nhiều sự quan tâm


2
của các nhà khoa học trong lĩnh vực y sinh-dược học. Nhiệm vụ nghiên cứu, tìm
kiếm các chất có hoạt tính sinh học trong các lồi thực vật thuộc rừng ngập mặn đã
và đang được triển khai, đang được nhiều cơ sở nghiên cứu quan tâm và theo đuổi
nghiên cứu.
Vì vậy đề tài “Nghiên cứu thành phần hoá học và hoạt tính sinh học của
lá cây Giá (Excoecaria agallocha L.) và cây Đơn lá đỏ (Excoecaria
cochinchinensis Lour.)” được thực hiện nhằm mục tiêu phát hiện được các hoạt
chất có tiềm năng từ cây Giá và Đơn l đỏ góp phần làm rõ hơn những công dụng
chữa bệnh trong y học cổ truyền đồng thời làm tăng gi trị khoa học của các cây này
ở Việt Nam. Với mục tiêu trên, đề tài có các nội dung như sau:
1. Phân lập và x c định cấu trúc các hợp chất từ cây Giá (Excoecaria

agallocha) và Đơn l đỏ (E. cochinchinensis);
2. Đ nh gi tác dụng gây độc tế bào, hoạt tính kháng viêm và hoạt tính kháng
vi sinh vật kiểm định của cặn chiết tổng và các hợp chất phân lập được nhằm tìm

kiếm các hợp chất có hoạt tính sinh học, làm cơ sở khoa học cho những nghiên cứu
tiếp theo.


3

CHƢƠNG I. TỔNG QUAN
I.1. Giới thiệu về chi Giá – Excoecaria
Chi Giá – Excoecaria (họ thầu dầu Euphorbiaceae) trên thế giới có khoảng

40 lồi, phân bố chủ yếu ở các khu vực nhiệt đới thuộc châu Phi, châu Á và vùng

Tây Bắc nước Úc. Ở Việt Nam đã ghi nhận 6 lồi Excoecaria (Bảng I.1). Đến nay,
chi Giá có khoảng 10 lồi đã được nghiên cứu về thành phần hóa học và hoạt tính
sinh học [1], trong đó cây Giá (Excoecaria agallocha L.), một cây ngập mặn có
nhiều mủ nhựa được tập trung nghiên cứu nhiều nhất [2-5]. Các hợp chất được công
bố từ chi Giá gồm các flavonoid, tannin, terpenoid và một số hợp chất khác. Trong
số này, các hợp chất diterpenoid của chi này được xác định là thành phần chính, với
cấu trúc rất đa dạng, thuộc các dạng khung atisane, beyerane, daphnane,
isopimarane, kaurane, labdane và tigliane; cũng như thể hiện hoạt tính rất phong
phú [1].
Bảng I.1. Danh sách các loài thuộc chi Excoecaria ở Việt Nam [6]
STT

4

Tên khoa học

1

Excoecaria agallocha L.

2

Excoecaria aporusifolia P.T. Li

3

Excoecaria cochinchinensis Lour


Excoecaria indica (Willd.) Müll. Trao tráo, Sịi tía
Arg.

5

Excoecaria oppositifolia Griff.

Trang lim, Trao tr o l đối

6

Excoecaria poilanei Gagnep.

Cơm nguội

I.1.1. Đặc điểm thực vật của chi Giá - Excoecaria
Các loài thuộc chi Excoecaria (họ Euphorbiaceae) hiện khoảng 40 loài đã
được chấp nhận tên khoa học [7], phân bố ở cả châu Phi, châu Á và Tây Bắc Úc [8].
Cho đến nay, chỉ có khoảng 10 lồi đã được nghiên cứu thành phần hóa học cũng
như một số đ nh gi hoạt tính sinh học, tuy nhiên, vẫn cịn nhiều lồi Excoecaria
chưa nhận được hoặc chỉ ít sự chú ý, quan tâm nhiều hơn nữa các nghiên cứu thực


4
vật, hóa học và sinh học nên được thực hiện trên những đối tượng này để tìm kiếm
các hoạt chất có hoạt tính tiềm năng.
Cây thực vật rừng ngập mặn thuộc chi Giá - Excoecaria được công bố rộng
rãi nhất là cây Giá (E. agallocha) [2-5], mủ nhựa đã được sử dụng làm chất tẩy rửa
và trong điều trị loét, thấp khớp, phong và tê liệt ở Pakistan. Những lá và mủ nhựa
của cây này đã được sử dụng như một chất độc chỉ thị ở Ấn Độ, New Caledonia và

Malaysia. Vỏ cây của chi Excoecaria đã được áp dụng trong y học Th i Lan như
một phương thuốc hạn chế sự đầy hơi [9]. Gần đây, nhiều sự chú ý đã được tập
trung cho các loài Excoecaria do thể hiện nhiều hoạt tính tốt như khả năng ức chế
các tế bào ung thư và kh ng virus gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở
người (HIV-human immunodeficiency virus) của chúng [1].
I.1.2. Các nghiên cứu về thành phần hóa học của chi Excoecaria
Theo thống kê trong Cơ sở dữ liệu Sci-Finder đến năm 2021 [10], trong số
hơn 40 lồi thuộc chi Excoecaria, có 10 lồi đã được nghiên cứu thành phần hóa
học bao gồm E. acerifolia Didr., E. agallocha L., E. cochinchinensis Lour., E.
formosana Hayata & Kawak., E. indica (Willd.) Müll. Arg., E. kawakamii Hayata,
E. lucida Sw., E. oppositifolia Griff., E. parvifolia Müll. Arg. và E. venenata
S.K.Lee & F.N.Wei [1, 2, 5, 11-15]. Những thống kê ở trên cho thấy rằng, các nhà
khoa học trên thế giới đã phân lập được hơn 250 hợp chất khác nhau từ các lồi
Excoecaria [1, 2]. Phân loại cấu trúc hóa học của các hợp chất phân lập được kh đa
dạng bao gồm flavonoid, tannin, terpenoid và một số hợp chất khác. Tuy nhiên, các
kết quả cho thấy các nhóm hợp chất này cịn được cơng bố từ các lồi thực vật khác
ngoài các loài trong chi Excoecaria.
I.1.2.1. Các hợp chất monoterpenoid
Năm 2005, nhóm nghiên cứu của PGS. TS. Phan Minh Giang (Trường Đại
học Khoa học tự nhiên) và các cộng sự của Nhật Bản đã phân lập và x c định bốn
dẫn xuất megastigmane 1–4 phân lập từ lá của cây Đơn l đỏ (E. cochinchinensis).
Trong số đó, hợp chất 1 và 2 là các hợp chất mới, đặt tên là excoecarioside A và B
[16]. Năm 2015, nhóm nghiên cứu D.S. Ning cơng bố một megastigmane đã biết có

tên apocynol A (4) cùng với sáu hợp chất khác từ loài E. venenata [17].


5

I.1.2.2. Các hợp chất diterpenoid

Diterpenoid là các chất chuyển hóa quan trọng bao gồm atisane, beyerane,
daphnane, isopimarane, kaurane, labdane, tigliane... phân loại trên cơ sở cấu trúc
khác nhau của các liên kết trong khung diterpenoid. Cho đến nay, đây cũng là những
thành phần chính được tìm thấy trong 10 lồi Excoecaria đã được nghiên cứu thành
phần hóa học [1, 2, 11-14]. Đã có hơn 150 diterpenoid đã được phân lập từ chi
Excoecaria [1-3], nhóm chất này thể hiện nhiều hoạt tính sinh học tốt, như hoạt tính
kháng viêm, ức chế tế bào ung thư, kháng virus HIV và chống oxy hóa [1].
Nhóm chất labdane: Năm 1996, T. Konishi và cộng sự (Nhật Bản) đã công
bố phân lập được ba hợp chất mới khung labdane diterpenoid (5–7) là ent-11αhydroxy-3-oxo-13-epi-manoyl oxide (5), ent-16-hydroxy-3-oxo-13-epi-manoyl (6),
ent-15-hydroxy-labda-8(17),13E-diene-3-one (7) và bốn hợp chất đã biết khác (8–
11) từ E. agallocha [18]. Đến năm 1998, T. Konishi và cộng sự đã phân lập được 5
hợp chất labdane diterpenoid mới từ phần thân gỗ của E. agallocha là ent-13-epi8,13-epoxy-2-hydroxylabda-1,14-dien-3-one (15), ent-13-epi-8,13-epoxy-14S,15dohydroxylabdan-3-one (16), ent-13-epi-8,13-epoxy-2,3-secolabd-14-ene-2,3-dioic
acid (27), ent-13-epi-8,13-epoxy-2,3-secolabd-14-ene-2,3-dioic acid 3-methyl ester
(28) và ent-13-epi-8,13-epoxy-2-oxa-3-oxolabd-14-ene-1R-carboxylic acid (29)
[19]. Đồng thời, cùng thời gian này nhóm nghiên cứu của T. Konishi cơng bố một
hợp chất seco-labdane diterpenoid mới là excoecarin H (31) [20]. Tiếp một năm sau,
năm 1999, T. Konishi và cộng sự tiếp tục công bố ba hợp chất là excoecarin G1-G2
(17–18) và F (30) cũng từ chính lồi này [21].
Năm 2000, từ phân đoạn n-hexane của phần rễ cây E. agallocha, A.S.R.
Anjaneyulu và cộng sự đã phân lập và x c định được 11 dẫn xuất diterpenoid, trong
đó có bốn hợp chất mới được đặt tên là agallochin A-C (19–21), agallochin E (36)
và các hợp chất đã biết như ent-16-hydroxy-3-oxo-13-epi-manoyl oxide (6), ent(13E)-15-hydroxy-labda-8(17),13-dien-3-onelabda (7), ribenone (8), ribenol (9),


6

13E-diene-3β,15-diol (11) và excoecarin B (13) [22]. Năm 2003, từ phân đoạn
EtOAc của phần rễ cây E. agallocha, các nhà hoa học Ấn Độ đã cơng bố năm
diterpenoid trong đó có ba seco-diterpenoid mới là agallochin M-O (32, 37 và 51),
hai hợp chất đã biết được x c định là excoecarin H methylester (31) và ent-15,16epoxybeyeran-3α-ol [23]. Cũng vào năm 2003, nhóm nghiên cứu của T. Konishi

(Nhật Bản) tiếp tục công bố thêm ba labdane diterpenoid mới, đặt tên là excoecarin
S, T1 và T2 (33–35), cùng ba dẫn xuất diterpenoid kh c đã biết t ch được từ phần
thân gỗ cây E. agallocha [24]. Hai bis-secolabdane diterpenoid mới, excoecarin R1R2 (38–39), được T. Konishi và cộng sự phân lập từ mủ nhựa của E. agallocha [25].
Năm 2005, J.H. Yang và cộng sự (Trung Quốc) đã nghiên cứu cặn chiết EtOAc từ
cành và lá của cây E. cochinchinensis và x c định được ba hợp chất diterpenoid mới
(các hợp chất diterpenoid có chứa nhiều nhóm thế oxi) đặt tên là excolabdone A-C
(23–25) [26].


7

Năm 2015, bốn hợp chất lần đầu tiên đại diện cho một nhóm chất mới secolabdanoid với một dạng khung chưa từng cơng bố trước đó, được đặt tên là excolide
A-D (40–43), được phân lập từ thân cây E. agallocha bởi nhóm nghiên cứu các nhà
khoa học Ấn Độ [27].


8
Nhóm chất atisane: Năm 2000, nhóm nghiên cứu của T. Konishi phân lập và
x c định cấu trúc hai hợp chất seco-atisane diterpenoid mới với tên gọi excoecarin

M-N (44–45) từ thân gỗ lồi E. agallocha. Cấu hình tuyệt đối của hợp chất
excoecarin N (45) được chứng minh thông qua phân tích phổ nhiễu xạ tia X (X-ray)
[28]. Năm 2003, nhóm nghiên cứu của T. Konishi tiếp tục công bố thêm ba hợp chất
diterpenoid kh c đã biết (46–47 và 52) phân t ch được từ phần thân gỗ cây E.
agallocha [24]. Cũng từ loài E. agallocha, J. Kang và cộng sự đã công bố một hợp
chất mới 16β-hydroxy-ent-atisan-3-one (53) [29]. Năm 2006, nhóm c c nhà khoa
học Trung Quốc từ phần lá và vỏ thân cây E. agallocha phân lập và x c định bốn
hợp chất 3,4-seco-ent-atisane diterpenoid mới khác, đặt tên là agallochaol G-J (48–
51) [30].


Năm 2009, một hợp chất diterpenoid mới khung atisane là ent-16α-hydroxyatisane-3,4-lactone (54) cùng với ba hợp chất diterpenoid kh c đã biết 16β-hydroxyent-atisan-3-one (53), ent-3,4-seco-16α-hydroxyatis-4(19)-en-3-oic acid (55) và entatisane-3β,16α-diol (56), đã được nhóm nghiên cứu của Z.C. Wang (Trung Quốc)
phân lập từ thân vỏ loài thực vật ngập mặn E. agallocha [31]. Đến năm 2010, nhóm
các nhà nghiên cứu Y. Li (Trung Quốc) và P. Proksch (Đức) đã công bố một hợp
chất atisane diterpenoid mới với tên gọi agallochaol Q (57) [32].


9

Năm 2020, cũng theo hướng nghiên cứu này, nhóm các nhà khoa học Li
Shen (Trung Quốc) đã công bố 13 hợp chất mới đặt tên là agallolide A-M (58‒70),
bao gồm 10 hợp chất dạng ent-atisane, hai hợp chất dạng ent-isopimarane và một
hợp chất dạng ent-trachylobane từ E. agallocha được thu hái ở đảo Hải Nam, trong
đó phải kể đến hai hợp chất khung 6/6/5/7 tetracyclic mới lạ [33]. Cấu hình tuyệt
đối của các hợp chất agallolide I-K được x c định dựa vào phân tích phổ X-ray.
Nhóm chất ent-kaurane: Nhóm nghiên cứu của T. Konishi tiếp tục công bố
thêm hai hợp chất diterpenoid mới excoecarin K (71) và excoecarin V2 (72) được
phân lập từ phần thân gỗ cây E. agallocha [34, 35]. Cũng năm 2003, c c nhà khoa
học Ấn Độ đã công bố hợp chất agallochin O (51) được phân lập từ phân đoạn
EtOAc của cây Giá [23]. Tiếp theo đó, lần lượt agallochin F (ent-3β,20-epoxy-3,6dihydroxykaur-16-ene, 73) và ent-16-hydroxykauran-3-one (74) cũng được cơng bố
từ lồi E. agallocha này [36]. Đến năm 2010, nhóm c c nhà nghiên cứu Y. Li (Trung
Quốc) và P. Proksch (Đức) đã công bố sáu hợp chất diterpenoid mới khung entkaurane là agallochaol K-P (75–81) từ lồi E. agallocha [32].
Gần đây, năm 2019, nhóm nghiên cứu các nhà khoa học Trung Quốc đã công
bố 11 hợp chất ent-kaurane, được đặt tên là agallochanin A-K (82–92), từ bộ phận
cành và thân của cây E. agallocha [5]. Điều mới lạ với một số hợp chất nhóm
nghiên cứu x c định được dạng 3,4-seco-ent-kaurane từ cây E. agallocha, khơng chỉ
có cùng vịng 3,4-seco ở vịng A, mà cịn có nhóm carboxyl chức năng và một nhóm
isopropenyl tương ứng ở C-3 và C-5. Sự đa dạng về cấu trúc của 3,4-seco-ent-


10


kaurane được b o c o trước đây xuất phát từ q trình oxy hóa hoặc khử C-16 và C17 [23, 37].
Nhóm chất isopimarane: Năm 2000, từ phân đoạn n-hexane của phần rễ cây
E. agallocha, A.S.R. Anjaneyulu và cộng sự đã phân lập và x c định được 11 hợp
chất, trong đó có một hợp chất mới là agallochin D (93) [22]. Năm 2003, cũng
nhóm tác giả A.S.R. Anjaneyulu từ phân đoạn EtOAc của E. agallocha đã tiếp tục
phân lập và x c định ba isopimarane diterpenoid mới có tên là agallochin J-L (94–
96) [38]. Tiếp sau đó, năm 2004, J.D. Wang và cộng sự đã công bố hai hợp chất


11

mới là agallochaol A-B (97–98) từ cành và lá của cây E. agallocha [39]. Trong năm
2005, tiếp tục theo hướng nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu của J.D. Wang phân lập
được ba diterpenoid mới đặt tên là agallochaol D-F (99–101) [40]. Cũng từ loài
E. agallocha, J. Kang và cộng sự đã công bố một hợp chất mới khung isopimarane

diterpenoid là 3α,11β,dihydroxy-ent-isopimaran-8(14),15 dien-2-one (102) [29].
Gần đây, năm 2013, ba hợp chất diterpenoid mới khung ent-isopimarane
được đặt tên agallochaexcoerin D-F (103–105), với sự mới lạ tại 3,4-seco (103) và
chứa các nhóm lactone (103–104), cùng với một chất đã biết khác là 2-hydroxy1,15-beyeradiene-3,12-dione (106), được phân lập từ phần thân gỗ loài E. agallocha
bởi các nhà khoa học Ấn Độ [41]. Cũng năm 2013, nhóm các nhà khoa học Trung
Quốc đứng đầu là S.Z. Huang công bố ba isopimarane diterpenoid mới đặt tên là
excoecarin F-H (107–109). Những hợp chất 107–109 được phân lập từ cặn chiết
EtOAc của cây E. acerifolia (hợp chất 107 và 108 cho thấy hoạt động kháng yếu
virus HIV-1) [42]. X.D. Wu và cộng sự từ phần trên của cây E. acerifolia đã phân
lập và x c định một diterpenoid mới là acerifolin B (110) [43]. Tiếp đến, hai
diterpenoid mới là excocarinol F-G (111–112) được phân lập từ cặn chiết n-BuOH
của E. acerifolia bởi S.Z. Huang và cộng sự công bố năm 2014 [11].



12

Nhóm chất beyerane: Năm 2000, nhóm nghiên cứu của T. Konishi phân lập
và x c định cấu trúc hai hợp chất là excoecarin D (3α,18-dihydroxy-3β,20epoxybeyer-15-ene, 113), excoecarin E [(15R,16S)-ent-15,16-epoxybeye ran-3-one,
114) từ loài E. agallocha. Cấu trúc tuyệt đối của excoecarin D (113) được x c định
dựa trên các phân tích phổ X-ray [44]. Tiếp tục nghiên cứu trên phần rễ của E.
agallocha nhóm tác giả A.S.R. Anjaneyulu (Ấn Độ) đã phân lập được ba hợp chất
mới agallochin G-I (115–117) và hai hợp chất đã biết 2-acetoxybeyera-1,15-diene3,12-dione (118) và 2-hydroxy beyera-1,15-diene-3,12-dione (119) [45]. Năm 2003,
nhóm nghiên cứu của T. Konishi tiếp tục công bố thêm ba chất diterpenoid đã biết là
agallochin H (116), ent-15,16-epoxybeyeran-3α-ol (120) và ent-12-oxo-2,3secobeyer-15-ene-2,3-dioic acid (121), phân lập được từ phần thân gỗ cây E.
agallocha [24]. Một hợp chất mới excoecarin V1 (122) cũng được phân lập từ E.
agallocha [35].
Hợp chất đã biết ent-3β-hydroxybeyer-15-ene-2,12-dione (123) cũng đc J.
Kang cơng bố từ lồi này [29]. Các hợp chất excoecarin D (113) và excoecarin V1
(122) cũng được J.D. Wang phân lập từ E. agallocha [40]. Năm 2007, nhóm c c


13

nhà khoa học Mỹ đã công bố 12 dẫn xuất beyerane diterpenoid từ phân đoạn toluen
của loài E. parvifolia bao gồm stachenol (124), stachenone (125), diosphenol (126),
ent-2,17-dihydroxy-19-norbeyera-1,4,15-trien-3-one (127), methyl ent-2,4-seco-4oxo-3,19-dinorbeyer-15-en-2-oate (128), 6α-hydroxy diosphenol (129), 6β-hydroxy
diosphenol (130), rhizophorin C (131), ent-2,4-seco-4-oxo-3,19-dinorbeyer-15-en2-oate (132), ent-3-oxabeyer-15-en-2-one (133), ent-15,16-epoxy-2-hydroxy-19norbeyera-1,4-dien-3-one (134) và methyl ent-15,16-epoxy-4-oxo-3,19-dinor-2,4secobeyer-15-en-2-oate (135) [46]. Năm 2013, một nor-beyerane diterpenoid mới có
tên là excocarinol E (136), cùng với chín hợp chất đã biết, được phân lập từ cặn
chiết EtOAc của E. acerifolia [47].


14
Nhóm chất daphnane: Năm 1985, Wiriyachitra và cộng sự đã tinh chế được

ba diterpennoid dạng khung daphnane, đặt tên là excoecaria O 1-O3 (137–139) từ loài
E. oppositifolia và ba daphnane diterpenoid khác là excoecaria A 1-A3 (140–142) từ
E. agallocha [8]. Tiếp đến năm 1994, Karalai và cộng sự đã phân lập và x c định bốn
hợp chất mới cũng dạng khung này, đặt là excoecaria A 4-A7 (143–146) từ nhựa cây
E. agallocha [48]. Năm 2014, nhóm t c giả S.Z. Huang và cộng sự đã cơng bố hai
daphnane diterpenoid có tên là excoecafolin D-E (147–148), cùng với 15 hợp chất
khác, được phân lập từ cặn chiết EtOAc của E. acerifolia [49]. Tiếp đó (năm 2015)
nhóm nghiên cứu D.S. Ning cơng bố một hợp chất mới daphnane diterpenoid là
venenatin (149) cùng với sáu hợp chất đã biết khác từ loài E. venenata [17].

Nhóm chất tigliane: Năm 1994, Karalai và cộng sự đã phân lập và x c định
hai hợp chất mới dạng khung tigliane diterpenoid là excoecaria A 8-A9 (150–151) từ
nhựa mủ cây E. agallocha [48]. Sau đó, một este phorbol mới tên là 12deoxyphorbol 13-[(3E,5E)-deca-3,5-dienoate] (152), được cũng được công bố và là
chất có khả năng ức chế virus HIV từ loài này [50]. Trùng với hướng nghiên cứu
này, X.D. Wu và cộng sự (2013) từ phần trên của E. acerifolia, đã phân lập và xác
định một tigliane diterpenoid mới là acerifolin A (153) [43]. Ba tigliane diterpenoid


15

là excoecafolin A-C (154–156) cùng với 15 hợp chất kh c, được phân lập từ cặn
chiết EtOAc của E. acerifolia bởi S.Z. Huang và cộng sự năm 2014 [49].
Nhóm chất diterpenoid khác: Từ thân và lá cây E. agallocha, năm 2007, bốn
chất mới là excoagallochaol A-D (157–160) với khung diterpenoid hồn tồn mới lạ
đã được nhóm nghiên cứu của J.D. Wang (Trung Quốc) tìm thấy từ cặn chiết
EtOAc. Cấu hình tương đối của 157–160 được x c định bằng cách so sánh dữ liệu
phổ NMR của họ với dữ liệu của senecrassidiol và tương quan trên phổ NOESY.
Tuy nhiên, cấu hình tương đối của nhóm hydroxyl tại C-17 trong excogallochaol BC (158–159) đến nay vẫn chưa được x c định [51]. Bốn diterpenoid mới bao gồm ba

dẫn xuất khung pimarane, một dẫn xuất khung cleistanthane, có tên là excocarinol

A-D (161–164) được S.Z. Huang và cộng sự phân lập từ cặn chiết EtOAc của E.
acerifolia năm 2013 [47]. Từ cành cây E. formosana, năm 2016, ba
hợp chất mới khung helimane diterpenoid là formosin A-C (165–167) và ba
clerodane diterpenoid, formosin D-F (168–170) được phân lập và x c định [52].


16

1.1.2.3. Các hợp chất triterpenoid
Qua các nghiên cứu đã công bố từ 1983 đến 2006 cho thấy, một trong những
thành phần hóa học được các nhà khoa học Ấn Độ và Trung Quốc tìm thấy trong chi
Excoecaria là các hợp chất triterpenoid bao gồm các dẫn xuất dạng khung phổ biến
đã được biết đến như oleanane, taraxerane, friedelane, cycloartane và lupane. Năm
1983, sáu dẫn xuất triterpenoid phổ biến (171–174), bao gồm 3-epitaraxerol (171),
friedelin (172), β-amyrenyl acetate (173), β-amyrone (174), epi-β-amyrin (175) và
taraxerone (176), được các nhà khoa học Ấn Độ cơng bố từ lồi Giá (E. agallocha)
[53]. Tiếp theo đó, cũng từ chính lồi E. agallocha này, nhóm tác giả Ấn Độ tiếp tục
công bố bốn hợp chất là epi-β-amyrin (175), friedelan-3β-ol (177), friedelan-3α-ol
(178) và 3β-acetoxyta raxer-14-en-28-oic acid (179) năm 1993 [54].


17

Năm 2006, nhóm nghiên cứu của J.H. Zou và cộng sự đã công bố một
oleanane triterpenoid mới là 3β-[(2E,4E)-5-oxodeca-2,4-dienoyloxy]olean-12-ene
(180) và năm triterpenoid pentacyclic đã biết (181–184) được phân lập từ lá của E.
agallocha [1, 55]. Các hợp chất olean-18-en-3-one (185), olean-18-en-3-ol (186),
3,28-dihydroxyllupeol (187), 28-hydroxylup-20(29)-en-3-one (188) cũng được các
nhà khoa học Trung Quốc công bố từ cây E. agallocha năm 2006 [1].
I.1.2.4. Các hợp chất polyphenol

Từ những năm 1990, cũng với 10 dẫn xuất tannin 189–198, ba hợp chất
dimeric ellagitannin có tên là excoecarianin (199), excoecarinin A-B (200–201) đã
được công bố từ lồi E. kawakamii [56]. Năm 2003, nhóm nghiên cứu của T.
Konishi và cộng sự cũng phân lập được một tannin đã biết là 3,4,5trimethoxyphenol 1-O-β-D-(6-galloyl)glucopyranoside (202) từ phần vỏ tươi của E.
agallocha [35].


18

Năm 2012, nhóm c c nhà nghiên cứu Trung Quốc đã ph t hiện cặn chiết phân
đoạn n-BuOH của cây E. agallocha có hoạt tính kháng virus viêm gan C. Từ phân
đoạn dịch chiết này nhóm nghiên cứu đã tinh chế được hai hợp chất polyphenol mới
và đặt tên là excoecariphenol C-D (203–204) [57].


19


20
I.1.2.5. Các hợp chất flavonoid
Nhóm nghiên cứu của T. Konishi và cộng sự đã công bố một flavanone
glycoside mới là (2R,3R)-3,5,7,3',5'-pentahydroxyflavanonol-3-O-α-L-rhamnopyra
noside (205) và một chalcone là 2',4',6',4-tetramethoxychalcone (206) từ E.
agallocha [35]. Gần đây, bảy dẫn xuất flavonol glycoside (207–213) cũng được
phân lập từ cây E. cochinchinensis [1, 16]. Năm 2005, nhóm nghiên cứu của PGS.
TS. Phan Minh Giang và các cộng sự của Nhật Bản đã phân lập và x c định các hợp
chất đã biết gồm kaempferol 3-O-β-D-galactopyranoside (207), kaempferol 3-O-βD-glucopyranoside (208) và kaempferol 3-O-α-L-rhamnopyranoside (213) [16].

Hai flavonoid mới là quercetin-3-O-(3-O-methyl-α-L-rhamnopyranoside)
(214) và quercetin-3-O-[α-L-arabinofuranosyl-3-O-(3-O-methyl-α-L-rhamnopyrano



21
side)] (215) và kaempferol 3-O-α-L-arabinofuranoside (216), được Y. Rifai và cộng
sự phân lập được từ cây E. agallocha vào năm 2011 [58]. Năm 2012, nhóm nghiên
cứu của Y. Li và P. Proksch tiếp tục phát hiện dịch chiết phân đoạn n-BuOH của cây
E. agallocha thể hiện hoạt tính kháng virus viêm gan C. Kết quả họ đã công bố
thêm hai hợp chất polyphenol mới excoecariphenol A-B (217–218) [57]. Năm 2016,
K. Rajeswari và cộng sự đã phân lập và x c định được một flavone mới là 8hydroxy-2(3-hydroxy-4-methoxyphenyl)

4-oxo-3-propoxy-4H-chromen-7ylpropi

onate (219) từ loài E. agallocha [59]. Sử dụng c c phương ph p sắc ký kết hợp, từ
cặn chiết MeOH của E. acerifolia, nhóm tác giả Trung Quốc đã phân lập và xác
định được các dẫn xuất flavonoid thông thường hay gặp khác như kaempferol,
quercetin, apigenin, catechin, kamepferol-3-O-β-D-galactopyranoside (207) và
catechin(6→8) catechin [60].
Mặc dù nhóm chất flavonoid rất phổ biến trong giới thực vật nói chung, tuy
nhiên, đến nay các cơng bố liên quan đến nhóm chất này từ các lồi thuộc chi
Excoecaria cũng ở mức vừa phải với khoảng hơn 15 flavonoid được tìm thấy [1, 2].
I.1.2.6. Các hợp chất khác
Năm 2005, nhóm nghiên cứu của PGS. TS. Phan Minh Giang cùng với các
nhà khoa học Nhật Bản đã phân lập và x c định các hợp chất đã biết gồm gallic acid,
p-hydroxybenzoic acid (221) và (–)-shikimic acid (227) [16]. Sử dụng c c phương
pháp sắc ký kết hợp, từ cặn chiết methanol của E. acerifolia, nhóm tác giả Trung
Quốc đã phân lập và x c định được 14 hợp chất đã biết bao gồm các
phenylpropanoid là 7,8-trans-4,5,9-trihydroxy-3,3',9'-trimethoxy-7-O-5',8-O-4'-neo
lignan,

7,8-trans-4,5,9,9'-tetrahydroxy-3,3'-dimethoxy-7-O-5',8-O-4'-neolignan,


malloapelin C và syringaresinol [60].
Năm 2013, X.D. Wu và cộng sự từ phân trên của cây E. acerifolia, đã phân
lập và x c định hai hợp chất đã biết simplidin (235) và malloapelin C (236) [43].
Năm 2014, từ cặn 80% EtOH của cây E. cochinchinensis, nhóm các nhà khoa học
Trung Quốc đã phân lập được 10 hợp chất đã biết phổ biến trước đó đã được tìm
thấy ở nhiều lồi thực vật kh c nhau như isoscutellarein, scopoletin, 3,4,5trihydroxybenzoic acid, phloroglucinol, β-sitosterol (231) và daucosterol. Trong đó,
arjunolic acid, isoscutellarein và phloroglucinol lần đầu tiên được phân lập từ chi
Excoecaria [61]. Cùng thời gian này, năm 2014, hai carotane (daucane)


22

sesquiterpenoid, excoecafolinol A-B (232–238), hai hợp chất lignanoid, excoecanol
A (239) và excoecanol B (240), cùng với 17 hợp chất đã biết kh c được S.Z. Huang
(Trung Quốc) và cộng sự báo cáo từ cặn chiết n-BuOH của loài E. acerifolia [11].
S.Z. Huang và cộng sự đã phân lập được 12 hợp chất coumarin từ vỏ cây E.
acerifolia, năm 2014. Chúng được x c định là fraxidin 8-O-β-D-glucoside, fraxidin,
isofraxidin,

6-hydroxy-8-methoxy-coumarin,

5,7-dimethoxy-6-(1',2',3'-

trihydroxypropyl)-2H-1-benzopyran-2-one, 5'-demethyla quillochin, daphnecin,
cleomiscosin A-B và malloapelin A-C [62].
Năm 2015, nhóm nghiên cứu D.S. Ning công bố baccatin, cerevisterol, Nbenzoylphenylalaninyl-N-benzoylphenylalaninate và glyceroyl monopalmitate từ
loài E. venenata [17]. Cùng năm 2015, 14 hợp chất đã biết được phân lập và xác
định từ 95% EtOH của E. venenata bao gồm fraxin, protocatechuic acid, gallic acid,
methyl gallate, ethyl gallate, apocynol A, baccatin, cerevisterol, 3,3',4'-tri-Omethylellagic acid và N-benzoyl-L-phenylalaninyl-N-benzoyl-L-phenylalani nate

[12]. Năm 2018, Z.P. Jiang và cộng sự đã phân lập và x c định được bốn hợp chất

mới có tên là agallochol A-D (241–244) từ phần thân và cành của cây E. agallocha,
trong đó cấu hình tuyệt đối của hợp chất agallochol A-C (241–243) được x c định
bởi phương ph p Mosher và phổ lưỡng sắc trịn tính toán ECD [15].


23

I.1.3. Các nghiên cứu về hoạt tính sinh học của chi Giá - Excoecaria
Những nghiên cứu về hoạt tính sinh học của các bộ phận khác nhau từ cây
Giá bao gồm lá, rễ, thân cây, vỏ cây, nhựa và hạt, cho thấy tiềm năng trong y học cổ
truyền để điều trị nhiều bệnh khác nhau. Các nghiên cứu trước đây từ lồi thực vật
này cho thấy sự có mặt của các thành phần có tác dụng chống oxy hóa, kháng khuẩn,
chống viêm, giảm đau, chống ung thư, kh ng histamin, bảo vệ DNA, phòng và chống
tiểu đường và ngăn ngừa các khối u. Thành phần chủ yếu có tác dụng là các
diterpenoid, một số thành phần kh c như alkaloid, flavonoid, triterpenoid và tannin
cũng thể hiện một số tác dụng sinh học thú vị.
I.1.3.1. Hoạt tính gây độc đối với các dòng tế bào ung thư
Năm 1998, bảy diterpenoid là ent-16-hydroxy-3-oxo-13-epi-manoyloxide (5),
ent-(13E)-15-hydroxy-labda-8(17),13-dien-3-one (6), ribenone (7), excoecarin A-C
(11–13) và ent-3β-hydroxy-15-beyeren-2-one đã được phân lập từ cây E. agallocha
cho thấy tác dụng ức chế đ ng kể virus Epstein-Barr (EBV) gây ra bởi nhân tố kích


24
thích các khối u là 12-O-tetradecanoylphorbol-13-acetate (TPA). Thêm vào đó, hợp
chất ent-3β-hydroxy-15-beyeren-2-one cũng đã cho thấy khả năng chống ung thư in
vivo trên một thử nghiệm sinh ung thư giai đoạn hai của khối u chuột bằng cách sử
dụng 7,12-dimethylbenz [α] anthracen (DMBA) như là một nhân tố khởi đầu và

TPA như là một nhân tố kích thích [63]. Năm 2001, một số diterpenoid bao gồm
excoecarin G1-G2 (17–18), ent-(1R)-8,13-epoxy-2-oxa-3-oxo-13-epilabd-14-ene1carboxylic acid (29), excoecarin F-H (30–31), excoecarin S (34), excoecarin T1
(35), excoecarin D (89) và excoecarin V3, đã được phân lập từ cây E. agallocha và
những ảnh hưởng ức chế của chúng đối với kháng nguyên EBV (EBV-EA) trong
các tế bào cũng được Raji nghiên cứu. Trong số các diterpenoid này, secolabdane
diterpenoid, hợp chất 31, khơng những có tác dụng ức chế đ ng kể trên kháng
nguyên EBV-EA mà còn thể hiện hiệu quả chống khối u đ ng kể ở mô hình chuột bị
gây u bởi t c động hiệp đồng của DMBA và TPA [63].
Các dẫn xuất flavonoid quercetin-3-O-(3-O-methyl-α-L-rhamnopyranoside)
(214) và quercetin-3-O-[α-L-arabinofuranosyl-3-O-(3-O-methyl-α-L-rhamnopyrano
side)] (215) và kaempferol 3-O- -L-arabinofuranoside (216), được Y. Rifai và các
cộng sự phân lập được từ cây E. agallocha vào năm 2010, đã thể hiện tác dụng ức
chế con đường truyền tín hiệu Hedgehog (Hh, một nhân tố có khả năng gây ung
thư), thông qua con đường ức chế phiên mã trung gian Hh/GLI1 với giá trị nồng độ
ức chế 50% (IC50) lần lượt là 0,5, 19,1 và 2,0 μM [58]. Trong số ba hợp chất này,
hợp chất 214 thể hiện tác dụng ức chế Hh/GLI1 mạnh nhất, hứa hẹn sẽ là một hoạt
chất tiềm năng cho những nghiên cứu sâu hơn về cơ chế, cũng như ứng dụng trong
cơng nghệ dược phẩm. Bên cạnh đó, c c flavonoid này cũng thể hiện tác dụng gây
độc hai dòng tế bào ung thư là tế bào tuyến tụy ở người (PANC-1) với giá trị IC 50
lần lượt là 0,7, 20 và 1,8 μM và tế bào ung thư tiền liệt tuyến (DU145) với giá trị
IC50 lần lượt là 0,8, 22 và 2,4 μM. Có thể nhận thấy rằng, flavonoid 214 khơng
những ức chế Hh/GLI1 mạnh mà cịn có tác dụng gây độc hai dòng tế bào ung thư
thử nghiệm mạnh nhất. Bên cạnh đó, hai flavonoid kh c là 215 và 216 cũng thể hiện
tác dụng ức chế và gây độc trên các thử nghiệm này. Điều này gợi ý cho mối liên hệ
giữa tác dụng gây độc tế bào ung thư PANC1 và DU145 với tác dụng ức chế hoạt
động của phiên mã trung gian Hh/GLI1.


25
Để làm rõ hơn về tác dụng ức chế tín hiệu Hh (PTCH và BGL-2) thông qua

sự thể hiện của một số protein trong nhân tế bào PANC-1, đã được đ nh gi sự biểu
hiện khi ủ với hợp chất 214. Kết quả cho thấy sự tuyến tính giữa các biểu hiện của
protein PTCH và BCL-2 với các nồng độ của 214. Thơng qua phương ph p phân
tích Western blot và phân tích gen RT-PCR cũng cho kết quả tương tự với sự giảm đ
ng kể nồng độ protein PANC-1 khi xử lý với 214 ở nồng độ 1,6 μL cũng như sự sụt
giảm của mRNA Rtch cho thấy sự ức chế đường truyền tín hiệu Hh/GLI1 vào
protein PanC-1 khi được xử lý với 214, tương ứng với từng phương ph p phân tích.
Trên cơ sở sự mất chức năng Ptch sẽ dẫn đến nhưng bất thường Hh và được báo
hiệu bởi nhân tố Smoothened (Smo.). Để xác minh chức năng của Smo. PanC-1
trong quá trình ức chế Hh của 214, nhân tố Smo. được loại bỏ nhờ siRNA và thực
hiện định lượng thời gian thực RT-PCR đối với mRNA, kết hợp với phương ph p
Western blot. Kết quả cho thấy sự giảm đ ng kể mức độ protein Smo. sau một q
trình bất hoạt. Theo đó, sự bất hoạt của Smo siRNA làm giảm đ ng kể biểu hiện của
Ptch mRNA trong các tế bào PANC1 điều trị bằng hợp chất 214. Do đó, 214 ức chế
tín hiệu Hh theo cơ chế không phụ thuộc vào Smo. Như vậy, hợp chất 214 đã ức chế
rõ ràng sự biểu hiện c c protein liên quan đến GLI (PTCH và BCL-2) và ngăn chặn
sự dịch chuyển của yếu tố phiên mã GLI1 vào trong nhân PANC-1. Thêm vào đó,
kết quả nghiên cứu đã x c định các chất ức chế truyền tín hiệu Hh/GLI1 mà khơng
ảnh hưởng đến Smo.
Năm 2012, Patil và các cộng sự đã b o c o t c dụng chống ung thư của dịch
chiết ethanol từ thân cây E. agallocha thông qua thử nghiệm in vitro MTS
(cytotoxicity assay) và kết quả đã thể hiện hoạt tính gây độc tế bào ung thư tuyến
tụy dòng Capan-1 và Miapaca-2 mạnh với giá trị IC 50 lần lượt là 4 và 7 μg/mL [64].
Tiếp theo sau đó vào năm 2012, nhóm nghiên cứu đã b o c o kết quả chống ung thư
phổi của dịch chiết này với tác dụng gây độc tế bào mạnh và cũng là nguyên nhân
của sự bắt giữ nhân tố p21-trung gian của G1 trong tế bào p53
trong p53

+/+


-/-

và gây chết tế bào

[65]. Tác dụng gây độc tế bào ung thư được đ nh gi qua thí nghiệm

MTS trên năm dịng tế bào ung thư A549 (tế bào ung thư biểu mô phổi người),
H1299 (tế bào ung thư phổi người), H358 (NCI-H358, tế bào ung thư phổi không
nhỏ ở người), H460 (NCI-H460, tế bào ung thư phổi không nhỏ ở người) và WI-38
(nguyên bào phổi bình thường). Kết quả cho thấy tác dụng ức chế rất mạnh dòng tế


×