Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.31 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC............................................................................................................................... 1
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................................... 1
NỘI DUNG............................................................................................................................. 2
1. Khái niệm Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và nền kinh tế tri thức.......................................2
1.1. Quan niệm về cơng nghiệp hóa................................................................................................2
1.2. Quan niệm về hiện đại hóa......................................................................................................2
1.3. Quan niệm về kinh tế tri thức..................................................................................................4
2. Sự cần thiết phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở
Việt Nam............................................................................................................................ 5
2.1. Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức là cách thức để đất nước sớm thốt
khỏi tình trạng lạc hậu...............................................................................................................6
2.2. Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức là yêu cầu bắt buộc để tạo ra cơ sở
vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội......................................................................................6
2.3. Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức bắt nguồn từ yêu cầu hội nhập kinh
tế quốc tế sâu hơn, đầy đủ hơn..................................................................................................8
2.4. Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức còn do tác động nhiều mặt của quá
trình này đối với đời sống kinh tế, chính trị và xã hội...............................................................9
3. Những điều kiện cần thiết để đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế
tri thức ở Việt Nam hiện nay............................................................................................10
3.1. Bảo đảm sự ổn định chính trị, kinh tế và xã hội.....................................................................10
3.2. Ưu tiên phát triển nguồn nhân lực..........................................................................................11
3.3. Phát triển khoa học và công nghệ..........................................................................................12
3.4. Tạo lập nguồn vốn đầu tư cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức.........................................................................................................................13


3.5. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế......................................................................14
3.6. Bảo đảm gắn kết chặt chẽ giữa tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý của Nhà nước với phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.........................14
KẾT LUẬN........................................................................................................................... 15


TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................................16


LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh tồn cầu hóa thế giới, một số nước đang phát triển, tuy chưa
có cơng nghiệp hiện đại, công nghệ cao nhưng biết chủ động hội nhập kinh tế, tranh
thủ tiếp thu công nghệ cao trên cơ sở nguồn nhân lực thích hợp, thì vẫn có thể bước
đầu phát triển kinh tế tri thức.
Nước ta, tuy cịn ở trong nền kinh tế nơng nghiệp và là nước đang phát triển
thu nhập thấp, nhưng biết phát huy đội ngũ cán bộ khoa học và cơng nghệ có năng
lực tiếp thu và ứng dụng các công nghệ cao, qua chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,
vẫn có thể có cơ hội rút ngắn thời gian để tiến nhanh hơn. Muốn vậy, phải đồng thời
tiếp thu công nghệ cao của phát triển kinh tế tri thức và vận dụng ngay vào cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong các lĩnh vực cần thiết. Ví dụ phát triển các phần
mềm hệ điều hành máy, có thể đem ứng dụng với sự điều chỉnh hợp lý, vào các máy
trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thực tế cho thấy khi chúng ta phát triển công nghệ thông tin và truyền thông,
in-tơ-nét, mạng viễn thông kỹ thuật số, điện thoại di động..., tức là phát triển một số
bộ phận của kinh tế tri thức thì mặc nhiên thúc đẩy hiện đại hóa, ở trình độ cao,
nhiều lĩnh vực của cơng nghiệp và xây dựng, nơng nghiệp, dịch vụ. Do đó việc kết
hợp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức vừa là cơ hội,
vừa là yêu cầu trong đổi mới. Do đó, tơi chọn chủ đề “Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay” để làm bài
thu hoạch cho mơn học Kinh tế Chính trị Mác-Lênin. Do kiến thức và tầm hiểu biết
còn hạn chế nên bài viết của tơi khơng tránh khỏi sai sót rất mong được các giảng
viên góp ý kiến cho bài thu hoạch được hoàn thiện.
Hà Nội, ngày 16 tháng 8 năm 2019

1



NỘI DUNG
1. Khái niệm Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và nền kinh tế tri thức
1.1. Quan niệm về công nghiệp hóa
Do thời điểm lịch sử tiến hành CNH ở các nước khơng giống nhau nên đã có
những quan niệm khác nhau về CNH. Việc nhận thức đúng phạm trù CNH trong
một giai đoạn phát triển cụ thể của đất nước là rất cần thiết, nó khơng chỉ có ý
nghĩa về lý luận mà cịn có tính thiết thực trong hoạch định và thực thi chính sách
phát triển. Tuy có những quan niệm khác nhau về CNH, nhưng về cơ bản các quan
niệm trên vẫn có những điểm chung và có thể được hiểu theo hai nghĩa: Theo
nghĩa hẹp, CNH là q trình chuyển dịch từ kinh tế nơng nghiệp (hay tiền công
nghiệp) lên nền kinh tế lấy công nghiệp làm chủ đạo, từ chỗ tỷ trọng lao động nông
nghiệp chiếm chủ yếu giảm dần và nhường chỗ cho lao động công nghiệp chiếm tỷ
trọng lớn hơn. Theo nghĩa rộng, CNH là q trình chuyển dịch từ kinh tế nơng
nghiệp (hay tiền công nghiệp) lên kinh tế công nghiệp, từ xã hội nông nghiệp lên
xã hội công nghiệp, từ văn minh nơng nghiệp lên văn minh cơng nghiệp. Nó khơng
chỉ đơn thuần là những biến đổi về kinh tế mà bao gồm cả các biến đổi về văn hóa
và xã hội từ trạng thái nông nghiệp lên xã hội công nghiệp, tức là trình độ văn
minh cao hơn.
1.2. Quan niệm về hiện đại hóa
Theo cách hiểu thơng thường, hiện đại hóa (HĐH) là q trình “làm cho mang
tính chất của thời đại ngày nay”. Đó là q trình biến đổi từ tính chất truyền thống
cũ lên trình độ tiên tiến của thời đại hiện nay.Theo ý nghĩa về kinh tế - xã hội,
HĐH là quá trình chuyển dịch căn bản từ xã hội truyền thống lên xã hội hiện đại,
quá trình làm cho nền kinh tế và đời sống xã hội mang tính chất và trình độ của
thời đại ngày nay. HĐH về kinh tế vừa có sự thay đổi về tính chất, vừa có tính xác
định về thời gian. Giai đoạn đầu của hiện đại hóa được xác định trùng với thời kỳ
diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (còn gọi là thời kỳ CNH). Trong
giai đoạn này, CNH là nội dung cốt lõi của HĐH.
Tuy một số nước đi trước đã hoàn thành CNH và đã trở thành nước cơng

nghiệp phát triển, nhưng q trình HĐH ở các nước đó vẫn tiếp tục diễn ra ở trình
độ cao hơn. Thực tế cho thấy, ở mỗi trình độ phát triển khác nhau, HĐH mang
những đặc trưng khác nhau. Đối với các nước phát triển, HĐH là quá trình chuyển
dịch từ xã hội dựa trên nền kinh tế công nghiệp lên xã hội dựa trên nền kinh tế tri
thức. Đối với các nước đang phát triển, HĐH là quá trình tăng tốc, rút ngắn lộ trình
2


phát triển để đuổi kịp các nước đi trước và phát triển hơn. Do tiến hành CNH trong
bối cảnh mới của thế giới nên bên cạnh việc dựa vào các nguồn lực trong nước, các
nước đang phát triển còn tranh thủ các nguồn lực từ bên ngồi thơng qua thu hút
đầu tư để tìm kiếm nguồn vốn và cơng nghệ mới. Đây chính là kiểu CNH rút ngắn
hiện đại. Nó khác với kiểu CNH rút ngắn cổ điển đã từng tiến hành ở các nước như
Liên Xô (cũ) và Nhật Bản vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trước đây. CNH rút
ngắn hiện đại là cách thức mà nước đi sau tiến hành CNH khi trên thế giới đã có
những quốc gia hồn thành CNH, những nội dung của CNH đã được triển khai ổn
định ở các nước đi trước (gọi là nước công nghiệp phát triển). Do sự biến đổi
nhanh chóng của tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là từ khi diễn ra cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nên những công nghệ hiện có của các nước
này dễ bị lạc hậu. Do cạnh tranh trên thị trường, các nước này phải “chiếm lĩnh
đỉnh cao công nghệ”, nên họ sẵn sàng chuyển giao cơng nghệ hiện có của họ cho
nước đi sau để bước vào thế hệ công nghệ mới. Bởi vậy, nước đi sau có rất nhiều
phương án lựa chọn trong phát triển công nghệ mà không nhất thiết phải dựa vào
phát minh. Đây chính là “lợi thế của nước đi sau”. Dựa vào lợi thế này, nước đi sau
có thể rút ngắn đáng kể thời gian để sớm trở thành nền kinh tế hiện đại. Tại các
nước này, quá trình tiến hành CNH được gắn kết với quá trình HĐH.
Kế thừa có chọn lọc và phát triển những tri thức của văn minh nhân loại về
CNH và căn cứ vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam là một nước đi sau đang
trong quá trình phát triển, Đảng cộng sản Việt Nam tại Hội nghị Trung ương lần
thứ bảy khóa VII (năm 1994), nêu chủ trương tiến hành xây dựng cơ sở vật chất –

kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn mới bằng con đường
CNH, HĐH và nêu quan niệm: “CNH, HĐH là q trình chuyển đổi căn bản, tồn
diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử
dụng lao động thủ cơng là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với
công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của
công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.
Theo quan niệm này, quá trình xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam phải kết hợp chặt chẽ hai nội dung CNH và HĐH. Nó
khơng chỉ đơn thuần là phát triển cơng nghiệp mà cịn phải thực hiện chuyển dịch
cơ cấu trong từng ngành, lĩnh vực và toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo hướng hiện
đại. Nó khơng chỉ là một q trình phát triển tuần tự từ cơ giới hóa lên tự động
hóa, tin học hóa mà cịn kết hợp giữa thủ cơng truyền thống với công nghệ hiện
đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu có thể và mang tính quyết định.
3


Quan niệm trên khơng bó hẹp CNH trong phạm vi trình độ các lực lượng sản xuất
đơn thuần, kỹ thuật đơn thuần để chuyển lao động thủ công thành lao động cơ khi
như cách hiểu trước đây, mà còn là một sự kết hợp với những thành tựu mới nhất
về khoa học và công nghệ của nhân loại.
1.3. Quan niệm về kinh tế tri thức
Bên cạnh cách giải thích truyền thống về lịch sử phát triển nhân loại tiếp cận
từ phương thức sản xuất xã hội, vào đầu những năm 90 thế kỷ XX nhiều nhà khoa
học còn phân chia giai đoạn lịch sử văn minh nhân loại căn cứ vào trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Theo cách này, nhân loại đã trải qua nền văn minh
nông nghiệp (từ khi xuất hiện xã hội loài người đến những năm 70 của thế kỷ
XVIII) lên nền văn minh công nghiệp (từ những năm 70 thế kỷ XVIII đến nay) và
đang trong giai đoạn quá độ chuyển lên một nền văn minh cao hơn gọi là nền văn
minh trí tuệ. Trong đó, nền kinh tế được chuyển từ kinh tế nông nghiệp lên kinh tế
công nghiệp và đang quá độ chuyển lên kinh tế tri thức.

Vào đầu những năm 90 thế kỷ XX, do nhận thức về vai trò quan trọng hàng
đầu của sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức trong tăng trưởng kinh tế, các nhà
khoa học và tổ chức thực tiễn đã sử dụng thuật ngữ “kinh tế tri thức”. Thuật ngữ
này nhanh chóng được thừa nhận và đưa vào sử dụng rộng rãi. Tuy đã có nhiều
quan niệm và giải thích khác nhau về thuật ngữ này 4, song các nhà khoa học đều có
sự thống nhất trong nhận thức về bản chất của nền kinh tế tri thức khác với hai nền
kinh tế trước nó. Nếu trong q trình sản xuất của cải của nền kinh tế nông nghiệp
dựa chủ yếu vào sức cơ bắp của con người và tài nguyên thiên nhiên, cịn trong nền
kinh tế cơng nghiệp tuy đã có sự trợ giúp của máy móc nhưng sức cơ bắp của con
người và tài nguyên thiên nhiên vẫn giữ trọng yếu, thì trong nền kinh tế tri thức, tri
thức đóng vai trò quyết định hàng đầu đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của một
quốc gia.
Trên thực tế, khơng có một nền kinh tế nơng nghiệp hay nền kinh tế công
nghiệp thuần túy. Tức là trong nền kinh tế nông nghiệp cũng đã chứa đựng một số
yếu tố của nền kinh tế công nghiệp và trong nền kinh tế cơng nghiệp cũng vẫn cịn
một số yếu tố của nền kinh tế nông nghiệp. Trong nền kinh tế nông nghiệp, tri thức
chủ yếu là những kinh nghiệm được tích lũy từ các hoạt động thực tế, năng suất,
chất lượng và hiệu quả sản xuất đều hết sức thấp kém. So với nền kinh tế nông
nghiệp, trong nền kinh tế cơng nghiệp, tri thức đã chiếm vị trí ngày càng quan
trọng hơn. Nó khơng chỉ là kinh nghiệm từ các hoạt động thực tế, mà còn khám
4


phá ra những quy luật vận động của tự nhiên, xã hội và tư duy để đưa ra những
sáng chế, phát minh nhằm tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả. Trong nền kinh
tế tri thức, tri thức là bộ phận nguồn lực quan trọng nhất, quyết định nhất của lực
lượng sản xuất hiện đại, mà trình độ phát triển của lực lượng sản xuất lại đóng vai
trị quyết định sự phát triển xã hội.
Nền kinh tế tri thức có các đặc điểm chủ yếu như sau:
Tri thức là nguồn vốn vơ hình to lớn, quan trọng trong đầu tư phát triển, nền

kinh tế dựa chủ yêu vào tri thức. Sáng tạo là động lực của sự phát triển. Nền kinh
tế có tính chất tồn cầu hóa, trong đó mạng thông tin trở thành kết cấu hạ tầng
quan trọng nhất của xã hội. Sự di chuyển cơ cấu lao động theo hướng giảm số lao
động trực tiếp làm ra của cải, tăng số lao động xử lý thông tin, làm dịch vụ, di
chuyển sản phẩm và làm văn phòng. Học suốt đời, đào tạo liên tục, giáo dục
thường xuyên để không ngừng phát triển tri thức, sáng tạo công nghệ mới, làm chủ
cơng nghệ cao, hồn thiện các kỹ năng, thích nghi nhanh với sự phát triển là một
yêu cầu nghiêm ngặt; xã hội học tập là nền tảng của kinh tế tri thức. Tri thức hóa
các quyết sách kinh tế. Khác với nền kinh tế công nghiệp, chủ thể là cơng nhân với
các cơng cụ cơ khí, cho năng suất lao động cao; còn nền kinh tế tri thức, chủ thể là
cơng nhân trí thức với cơng cụ là tạo ra tri thức, quảng bá tri thức và sử dụng tri
thức. Như vậy, nền kinh tế tri thức là một nền kinh tế tiếp nối nền kinh tế công
nghiệp, phát triển ở trình độ cao hơn nền kinh tế công nghiệp, là nền kinh tế mà
nhân loại đang hướng tới. Có thể hiểu kinh tế tri thức là một nền kinh tế trong
đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối với sự
phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống.
2. Sự cần thiết phải đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
CNH là con đường thiết yếu mà mọi quốc gia đều phải trải qua để đi tới một
xã hội hiện đại.
CNH, HĐH của Việt Nam được tiến hành bối cảnh xu hướng trên thế giới
đang chuyển mạnh lên nền kinh tế tri thức và xu hướng tồn cầu hóa kinh tế đã và
đang tác động sâu sắc với tốc độ cao đến đời sống kinh tế - xã hội của mọi quốc
gia, trong khi đó Việt Nam vẫn trong tình trạng của một nước có điểm xuất phát
thấp, nhiều yếu tố lạc hậu, phát triển thiếu bền vững. Trong bối cảnh nhiều cơ hội
và thách thức đan xen, để đi tới một nền kinh tế hiện đại, Việt Nam phải có những

5



giải pháp bứt phá. Sự lựa chọn giải pháp đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển
kinh tế tri thức là cấp thiết.
2.1. Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức là cách thức để
đất nước sớm thốt khỏi tình trạng lạc hậu
Trong những năm qua, tuy đã có những bước phát triển tích cực, nhưng về
cơ bản, nước ta vẫn chưa thốt khỏi tình trạng nước nghèo và kém phát triển.
Chúng ta vẫn phải đương đầu với những thách thức gay gắt và những nhiệm vụ
nan giải: một mặt, tập trung giải quyết các vấn đề cơ bản đặt ra cho nền kinh tế
trong quá trình chuyển từ kinh tế nơng nghiệp lên trình độ của nền kinh tế công
nghiệp, như bảo đảm lương thực, thực phẩm, nhu cầu nước sạch, trường học, đi lại
cho người dân; mặt khác, phải nhanh chóng nắm bắt các xu thế phát triển hiện đại
không những chỉ để chống tụt hậu ngày càng xa hơn so với trình độ chung của thế
giới, mà còn phải thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển khi bản thân họ
đã·có trình độ phát triển cao hơn. Khi các yếu tố cho phát triển không chỉ đơn
thuần là vốn, lao động, tài ngun thiên nhiên, mà cịn có thêm yếu tố tri thức với ý
nghĩa là yếu tố quan trọng và trực tiếp đối với q trình phát triển, thì việc khơng
nhanh chóng nắm bắt và vận dụng được tri thức mới sẽ không thể tránh khỏi sự tụt
hậu tuyệt đối so với các nước khác. Tri thức đã trở thành yếu tố của lực lượng sản
xuất trực tiếp và có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong điều
kiện đó, nước ta khơng thể bỏ lỡ cơ hội, mà phải tìm giải pháp bứt phá, tức là phải
đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Là một nước đang phát triển vừa mới nằm trong nhóm nước có thu nhập
trung bình (nhưng mới chỉ là mức trung bình thấp) lại đặt trong xu thế mở cửa, hội
nhập, việc gắn CNH, HĐH với phát triển kinh tế tri thức ngay trong quá trình
chuyển nền kinh tế nông nghiệp lên nền kinh tế công nghiệp là một thách thức rất
lớn đối với nước ta. Điều này xuất phát từ thực tiễn của một nước đang đứng trước
nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và
trình độ phát triển chung của thế giới. Đây cũng là yêu cầu cấp thiết, bắt buộc phải
giải quyết đồng thời hai nhiệm vụ: phát triển để vượt khỏi sự lạc hậu và chuyển
sang phát triển kinh tế tri thức.

2.2. Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức là yêu cầu bắt
buộc để tạo ra cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội
Lịch sử đã chứng minh, mỗi phương thức sản xuất bao giờ cũng dựa trên
một cơ sở vật chất – kỹ thuật nhất định để tồn tại và phát triển. Nó bao gồm toàn
6


bộ các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất tương ứng với trình độ kỹ thuật, cơng
nghệ nhất định; dựa vào đó lực lượng lao động của xã hội tiến hành sản xuất của
cải. Một trình độ nhất định của cơ sở vật chất – kỹ thuật là nội dung kinh tế, là “cốt
vật chất” có ý nghĩa xác định một thời đại kinh tế, phân biệt với phương thức sản
xuất chứa đựng nó thuộc loại hình kinh tế - xã hội lịch sử nào.
Thực tế đã chứng minh, các phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản
đều đã dựa trên cơ sở vật chất – kỹ thuật với công cụ lao động thủ công, lạc hậu,
năng suất thấp. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sở dĩ chiến thắng phương
thức sản xuất phong kiến vì nó tạo ra nền đại cơng nghiệp để có năng suất lao động
cao “chưa từng có dưới chế độ nơng nô”. Do vậy, phương thức sản xuất xã hội chủ
nghĩa tất yếu phải phát triển dựa trên cơ sở vật chất – kỹ thuật ở trình độ cao hơn
chủ nghĩa tư bản.
Cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền công nghiệp lớn hiện
đại với cơ cấu kinh tế hợp lý, trình độ xã hội hóa cao, dựa trên nền tảng khoa học
và cơng nghệ tiên tiến, được hình thành có kế hoạch trên tồn bộ nền kinh tế quốc
dân. Nó khơng chỉ kế thừa những thành quả văn minh mà nhân loại đã đạt được
trong chủ nghĩa tư bản, mà còn được phát triển và hoàn thiện trên cơ sở những
thành tựu mới nhất của khoa học và cơng nghệ, tham gia tích cực và có hiệu quả
vào phân cơng lao động và hợp tác quốc tế.
Đối với các nước đã qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản, bước vào
xây dựng chủ nghĩa xã hội, việc xác lập cở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội
được tiến hành thống qua kế thừa, điều chỉnh và hoàn thiện cơ sở vật chất – kỹ
thuật đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản theo yêu cầu của chế độ mới và phát triển

nó lên trình độ cao hơn. Đối với các nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất
phát thấp, ở giai đoạn đầu hoặc không qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư
bản, yêu cầu xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội càng trở nên
cấp thiết hơn.
Theo V.I. Lênin, “Cơ sở vật chất duy nhất và thực sự để làm tăng của cải của
chúng ta, để xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa chỉ có thể là đại cơng nghiệp...
Khơng có một nền đại cơng nghiệp tổ chức cao thì khơng thể nói đến chủ nghĩa xã
hội được, mà lại càng khơng thể nói đến chủ nghĩa xã hội ở một nước nông nghiệp
được.
Tạo lập cơ sở vật chất – kỹ thuật để xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực là
địi hỏi có tính bắt buộc đối với tất cả các nước muốn quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
7


Điều này càng trở nên cấp thiết đối với một nước có điểm xuất phát thấp như Việt
Nam. Con đường cơ bản để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội ở nước ta trong bối cảnh hiện nay tất yếu phải là đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với
phát triển kinh tế tri thức.
Cần nhấn mạnh rằng, xu hướng phát triển kinh tế tri thức đã và đang là thách
thức và cơ hội lớn đối với nước ta trên con đường xây dựng cơ sở vật chất – kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội. Nếu không kịp thời nắm bắt thời cơ, dựa vào kinh tế tri
thức để đẩy nhanh CNH, HĐH thì nước ta sẽ tụt hậu ngày càng xa hơn. Phải đẩy
mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức để nhanh chóng đuổi kịp các
nước, thực hiện mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là yêu cầu cấp bách, là sự
chuyển hướng chiến lược trọng đại. Đây chính là cơ hội lịch sử hiếm hoi mà thời
đại đã tạo ra.
2.3. Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức bắt nguồn từ
yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế sâu hơn, đầy đủ hơn
Nước ta hiện đang tiến hành cơng cuộc đổi mới, trong đó xây dựng một nền
kinh tế mở, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là một nội dung có tầm

chiến lược. Vì tham gia vào nền kinh tế thế giới trong xu hướng tồn cầu hóa là
những quốc gia có chủ quyền, nên muốn thực hiện nội dung này, đòi hỏi chúng ta
phải chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, phải hội nhập sâu hơn, đầy đủ hơn với các
thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương.
Hội nhập kinh tế quốc tế là một nội dung chủ yếu của tồn cầu hóa kinh tế,
đó là quá trình các quốc gia gắn kết nền kinh tế của nước mình với nền kinh tế khu
vực và thế giới bằng các nỗ lực thực hiện tự do hóa, mở cửa kinh tế trên các cấp độ
song phương, đa phương và giảm thiểu sự khác biệt để trở thành một bộ phận hợp
thành chỉnh thể nền kinh tế tồn cầu. Nó khơng chỉ đơn thuần là q trình hợp tác,
mà cịn là q trình cạnh tranh có tính quyết định sống còn giữa các doanh nghiệp
và các nền kinh tế quốc gia.
Nếu trước đây, sự phân công và trao đổi bị giới hạn bởi tính vùng, địa
phương và quốc gia, thì ngày nay trong xu hướng tồn cầu hóa, sự phân cơng và
trao đổi được thực hiện thơng qua mạng liên kết toàn cầu. Xu hướng này tất yếu
làm cho ngày càng nhiều các sản phẩm công nghiệp được sản xuất ra có sự tham
gia của nhiều doanh nghiệp thuộc các quốc gia khác nhau, rồi tổ hợp chúng lại với
nhau. Sự phân công lao động đã làm cho biên giới quốc gia khơng cịn giới hạn
chặt chẽ như trước đây, mà xích lại gần nhau. Tri thức, đặc biệt là công nghệ thông
8


tin, kinh tế mạng là những yếu tố quan trọng kết dính các doanh nghiệp và các
quốc gia với nhau. Do vậy, hội nhập kinh tế quốc tế làm cho hệ thống thơng tin
khơng cịn là của riêng từng quốc gia, mà là chung của nhiều quốc gia trên thế giới.
Hội nhập kinh tế quốc tế làm cho các doanh nghiệp và các quốc gia sẵn sàng hợp
tác với nhau để cùng hưởng lợi do hợp tác mang lại.
Tuy nhiên, hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt ra những thách thức cạnh tranh
gay gắt giữa các doanh nghiệp và các nền kinh tế. Thành công trong cuộc cạnh
tranh này, tất nhiên sẽ thuộc về các doanh nghiệp và quốc gia có lợi thế về tri thức
khoa học và cơng nghệ trong việc tạo ra sản phẩm hàng hóa, dịch vụ. Quốc gia nào

giàu về tài nguyên thiên nhiên và nhân công dồi dào, giá tài nguyên và giá nhân
công rẻ sẽ dần dần mất đi lợi thế của mình do tri thức ngày càng trở nên quyết định
nhiều hơn trong giá trị sản phẩm.
Trong bối cảnh đó, để chủ động hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn vào các
quan hệ kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, một địi hỏi có tính bắt buộc là
nước ta phải đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi tri thức
là đòn bẩy làm tăng sức cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp và của cả nền
kinh tế, thúc đẩy quá trình hội nhập.
2.4. Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức cịn do tác động
nhiều mặt của q trình này đối với đời sống kinh tế, chính trị và xã hội
Ngoài những nguyên nhân trên, việc đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát
triển kinh tế tri thức ở nước ta cịn do chính tác động tích cực của q trình này đối
với đời sống kinh tế, chính trị và xã hội. Nó khơng chỉ tạo ra cơ sở vật chất – kỹ
thuật và kiểu tổ chức một nền kinh tế mới, thúc đẩy mạnh mẽ phân công lao động
xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, bảo đảm không ngừng nâng
cao năng suất lao động xã hội mà cịn sớm có được cơ sở vật chất – kỹ thuật tiên
tiến hiện đại để khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất nước cho
sự tăng trưởng kinh tế nhanh. Tạo nhiều việc làm và tăng thu nhập cho người lao
động. Cải thiện điều kiện lao động, giải phóng người lao động, phát triển trí tuệ,
đưa tri thức vào các lĩnh vực đời sống xã hội, thúc đẩy xã hội học tập, làm chủ, tiếp
thu và sáng tạo tri thức mới, nhờ đó nâng cao chất lượng cuộc sống xã hội. Q
trình đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức cịn là q trình tạo
ra điều kiện để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, trên cơ sở đó mà chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả; tạo điều kiện vật chất kỹ thuật để củng cố và tăng
cường quốc phòng, an ninh, tăng cường vai trò và chức năng của Nhà nước.
9


Với sự cần thiết và tác động nhiều mặt như trên, để tăng tốc, sớm rút ngắn
khoảng cách tụt hậu so với các nước phát triển, trước đòi hỏi bức thiết của sản xuất

và đời sống, chúng ta khơng có sự lựa chọn nào khác là phải đẩy mạnh CNH, HĐH
gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Thực tế mấy chục năm tiến hành CNH cho đến nay, nước ta đã có được
những cơ sở vật chất ban đầu của một nền cơng nghiệp mới, trong đó có những yếu
tố đã cận với hiện đại; công nghệ thông tin và lĩnh vực viễn thông phát triển với
tốc độ nhanh, việc phát triển nền kinh tế mở đã bước đầu thâm nhập vào các doanh
nghiệp và dân cư; đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực đã được cả xã hội coi
trọng. Đặc biệt, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến thúc đẩy q trình phát
triển có ý nghĩa trọng đại này. Đây chính là những khả năng thực tế rất quan trọng
để nước ta có thể thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH gắn với phát triển
kinh tế tri thức. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (năm 2001) của Đảng đã đề
ra đường lối gắn CNH, HĐH với phát triển kinh tế tri thức. Đường lối này đã được
bổ sung và phát triển qua các kỳ Đại hội của Đảng. Đến nay, “Phát triển kinh tế là
nhiệm vụ trung tâm; thực hiện CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri
thức”.
3. Những điều kiện cần thiết để đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay
3.1. Bảo đảm sự ổn định chính trị, kinh tế và xã hội
Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức là một q trình
phát triển khơng phải một sớm một chiều, mà phải trải qua thời gian khá nhiều
năm. Việc bảo đảm ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội cho q trình này là rất cần
thiết và đây chính là điều kiện tiên quyết để phát triển.
Bảo đảm ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội, xét về thực chất, đó là bảo
đảm sự ổn định về mơi trường đầu tư. Thực tế cho thấy, một nền kinh tế không thể
phát triển được nếu môi trường đầu tư ở tình trạng bất ổn.
- Ổn định về chính trị được thể hiện ở tính nhất quán, tính đồng bộ và ổn
định lâu dài của đường lối, phải có tầm nhìn dài hạn, phải xây dựng cơ sở khoa học
cho việc hoạch định và triển khai đường lối, chính sách CNH, HĐH đạt hiệu quả
cao với tốc độ nhanh, tức là phải có chiến lược đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát
triển kinh tế tri thức. Phải ổn định luật pháp, chính sách, nhất là luật pháp, chính

sách kinh tế (luật kinh tế, chính sách phát triển cơng nghiệp, nơng nghiệp và phát
triển các ngành dịch vụ, chính sách tài chính, chính sách tiền tệ, phát triển ngoại
10


thương, an tồn thực phẩm, mơi trường, chính sách đất đai, tài chính cơng, ngân
hàng, ngoại hối .v.v…).
- Ổn định về kinh tế, trước hết là sự ổn định thị trường, ổn định giá cả, phải
kiểm soát được lạm phát, môi trường cạnh tranh phải lành mạnh.
- Ổn định về xã hội thể hiện ở trật tự an toàn xã hội phải được giữ vững.
Chỉ có sự ổn định về chính trị, kinh tế và xã hội, thì người dân trong nước
mới yên tâm đầu tư sản xuất kinh doanh và mới thu hút được đầu tư nước ngoài
cho phát triển. Đảng ta yêu cầu: “Phải đặc biệt coi trọng giữ vững ổn định chính trị
- xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ để bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền
vững”.
3.2. Ưu tiên phát triển nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực có vai trò quyết định tốc độ và chất lượng của sự phát triển
kinh tế - xã hội. Để đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức, cần
phải có trình độ dân trí cao, người lao động có khả năng sáng tạo cao, ham muốn
học hỏi một cách tự giác, có khả năng thích ứng và tính linh hoạt cao. Muốn vậy,
phải chăm lo phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài, phải ưu
tiên phát triển giáo dục và đào tạo, thực sự coi đó là quốc sách hàng đầu.
- Phải tiến hành cải cách toàn diện giáo dục và đào tạo, coi đó là nhiệm vụ
cấp bách. Phải chuyển trọng tâm của việc giáo dục từ trang bị tri thức sang bồi
dưỡng, rèn luyện phương pháp tư duy, phương pháp giải quyết vấn đề, năng lực
sáng tạo, khả năng tự đào tạo, thích nghi sự phát triển. Theo hướng này, cần bổ
sung và hoàn thiện chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo để phát triển kinh tế
tri thức phục vụ thiết thực cho nhiệm vụ CNH, HĐH.
- Xây dựng xã hội học tập dưới nhiều hình thức và biện pháp như trung tâm

học tập cộng đồng, trung tâm giáo dục thường xuyên, giáo dục từ xa, đào tạo mở
v.v…, tạo cơ hội và khuyến khích mọi người dân tham gia học tập, nâng cao tính
chủ động cho người học trên cơ sở gắn kết với những yêu cầu đẩy mạnh CNH,
HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức.
- Nâng cao chất lượng toàn diện cho người lao động. Phải tạo ra được đội
ngũ nhân lực có lịng tự trọng, tự tơn dân tộc,có tinh thần trách nhiệm và ý thức
cộng đồng khi thực hiện các công việc được giao; phải có trình độ chun mơn
vững vàng, có phương pháp và kỹ năng thực hành bảo đảm năng suất, chất lượng
11


và hiệu quả cơng việc được giao; có sự năng động và sáng tạo trong cơng việc, có
ý thức tự giác học hỏi, dám đương đầu với những thách thức; và có sức khỏe tốt.
- Bảo đảm đổi mới quản lý giáo dục và đào tạo, nhất là đổi mới quản lý chất
lượng giáo dục và đào tạo phải được coi là khâu đột phá.
3.3. Phát triển khoa học và công nghệ
Khoa học công nghệ phải là động lực, quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc
độ phát triển của tồn bộ q trình đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế
tri thức. Thực chất của CNH, HĐH là phát triển khoa học và công nghệ. Đảng ta
xác định khoa học và công nghệ cùng với giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng
đầu, là nền tảng và động lực của CNH, HĐH đất nước.
Để đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức, cần tập trung
giải quyết các vấn đề sau:
- Xây dựng cơ sở khoa học cho việc hoạch định và triển khai đường lối, chủ
trương CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức đạt hiệu quả cao với tốc độ
nhanh.
- Đẩy mạnh việc nghiên cứu khoa học để đánh giá chính xác nguồn tài
nguyên quốc gia, nắm bắt tri thức mới và các công nghệ cao cùng với những thành
tựu mới nhất về khoa học của thế giới; hướng mạnh vào việc nâng cao năng suất
lao động, đổi mới sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, của

doanh nghiệp và của nền kinh tế trên thị trường.
- Xây dựng tiềm lực nhằm phát triển một nền khoa học và cơng nghệ tiên
tiến. Đẩy nhanh tiến trình xây dựng 2 trung tâm quốc gia về công nghệ cao ở Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh, lấy đây là đầu tàu, là mơ hình tiêu biểu cho phát
triển công nghệ của cả nước và là nơi thu hút, nuôi dưỡng công nghệ và tri thức
mới của nhân loại.
- Tạo mơi trường thuận lợi để các tập đồn xuyên quốc gia không chỉ đầu tư
xây dựng cơ sở sản xuất mà còn xây dựng cả cơ sở đào tạo tại chỗ nguồn nhân lực
chất lượng cao, thành thạo kỹ năng nghề nghiệp. Khuyến khích du học sinh ra
nước ngồi học tập và có chính sách đãi ngộ thích đáng để thu hút số du học sinh
này về nước làm việc hay lập nghiệp.
- Phát triển nhanh thị trường khoa học và công nghệ để bảo đảm mọi tri
thức, công nghệ đều được trao đổi, mua bán, chuyển giao thuận lợi trên thị trường,
được nuôi dưỡng bằng tinh thần cạnh tranh bình đẳng.
12


- Sử dụng các cơng cụ tín dụng và thuế nhằm khuyến khích các doanh
nghiệp bỏ qua các thế hệ công nghệ trung gian, đi thẳng vào các công nghệ tiên
tiến, cơng nghệ chất lượng cao.
- Bổ sung và hồn thiện chiến lược phát triển khoa học và công nghệ với
những bước đi thích hợp. Trên nền tảng đó, tạo ra năng lực nghiên cứu nội sinh
giúp các nhà khoa học và cơ sở sản xuất trong nước tiến tới vận dụng và làm chủ
những công nghệ và tri thức mới của nhân loại.
3.4. Tạo lập nguồn vốn đầu tư cho đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức
Vốn là là các giá trị của cải do con người tạo ra và tích lũy lại. Nó có thể tồn
tại dưới dạng vật thể hoặc vốn tài chính. Vốn là điều kiện quan trọng nhất để bảo
đảm việc đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức trở thành hiện
thực.

Vốn được tạo lập từ hai nguồn là tích lũy trong nội bộ nền kinh tế (trong
nước) và thu hút từ bên ngoài (nước ngoài và các tổ chức kinh tế quốc tế). Về cơ
bản, lâu dài, vốn trong nước là chủ yếu và quyết định, vốn từ bên ngoài là rất quan
trong nhất là trong thời kỳ đầu CNH, HĐH.
Việc tích luỹ vốn từ nội bộ nền kinh tế được thực hiện trên cơ sở nâng cao
hiệu quả sản xuất, nguồn của nó là lao động thặng dư của người lao động thuộc
mọi thành phần kinh tế. Tăng năng suất lao động xã hội là con đường cơ bản để
giải quyết vấn đề tích luỹ vốn trong nước. Đồng thời, giải quyết tốt mối quan hệ
giữa tích lũy và tiêu dùng trong nhân dân trên quan điểm tiết kiệm là quốc sách. Sử
dụng có hiệu quả vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và trái phiếu chính phủ. Chống
lãng phí, thất thoát vốn.
Để thu hút các nguồn vốn từ bên ngoài, phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế mở
cửa nền kinh tế, phải sử dụng nhiều hình thức như thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài, vay vốn, hợp tác liên doanh, thành lập các đặc khu kinh tế, các khu kinh tế
mở… đi đơi với kiện tồn hệ thống pháp luật về kinh tế đối ngoại, thực hiện hợp lý
các chính sách ưu đãi, tạo mơi trường và điều kiện thuận lợi để người và tổ chức
nước ngoài vào ta hợp tác đầu tư.
Tạo cơ chế, chính sách để phát triển thị trường vốn trong nước và hội nhập
với thị trường vốn quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế.

13


3.5. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ cùng với xu hướng tồn cầu hố
kinh tế đã và đang tạo ra mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế của
các nước. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế là một một đòi hỏi thiết
yếu. Điều này sẽ tạo ra khả năng và điều kiện để nước ta có thể tranh thủ vốn, kỹ
thuật, cơng nghệ từ bên ngồi để đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát trển kinh tế
tri thức.

Tuy nhiên, để việc trên trở thành hiện thực, cần phải tiếp tục hồn thiện cơ
chế, chính sách, nhất là cơ chế, chính sách hợp tác về khoa học và cơng nghệ, hợp
tác đầu tư, hợp tác giáo dục và đào tạo để phát triển nhân lực và phải bảo đảm các
hình thức hợp tác vừa có hiệu quả kinh tế cao, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, vừa giữ vững độc lập và chủ quyền quốc gia dân tộc.
3.6. Bảo đảm gắn kết chặt chẽ giữa tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước với phát huy đầy đủ quyền
làm chủ của nhân dân
CNH, HĐH là sự nghiệp của tồn đảng, tồn dân. Vì thế, sự đồng thuận xã
hội là một tiền đề điều kiện có ý nghĩa quyết định. Để tạo lập tiền đề này, cần phải
phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời phải tăng cường vai trò
lãnh đạo của Đảng và nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước.
Các chính sách của Nhà nước phải bảo đảm định hướng có hiệu quả tồn bộ
sự nghiệp CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức, kích thích được động lực
của người dân và các doanh nghiệp. Phải đặt toàn bộ sự nghiệp CNH, HĐH gắn
với phát triển kinh tri thức của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Để hồn thành
tốt vai trị này, Đảng phải đi tiên phong trong công cuộc đổi mới, Nhà nước phải
nâng cao năng lực hoạch định và thực thi chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý đối với toàn bộ tiến trình CNH, HĐH đất nước.
Hồn thiện cơ chế phân cấp để vừa phát huy tính chủ động, sáng tạo của cấp
dưới, vừa bảo đảm sự quản lý thống nhất của cấp trên, đồng thời tăng cường kiểm
tra, thanh tra, giám sát và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm. Ứng dụng công nghệ
thông tin trong quản lý Nhà nước.

14


KẾT LUẬN
Q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) ở Việt Nam trong
điều kiện ngày nay không thể đi theo con đường truyền thống kéo dài hàng trăm

năm như các nước đi trước, mà phải kết hợp hợp lý giữa bước tuần tự với bước
nhảy vọt, mạnh dạn đi ngay vào trình độ hiện đại. Muốn vậy, phải biết phát huy lợi
thế đất nước, tận dụng mọi khả năng thuận lợi để đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với
phát triển kinh tế tri thức. Chỉ bằng cách đó chúng ta mới có khả năng rút ngắn q
trình CNH, HĐH đất nước, đưa nước ta cơ bản thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại vào năm 2020. Muốn rút ngắn quá trình CNH, HĐH thì phải nắm
bắt, khai thác, sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại và những yếu
tố của nền kinh tế tri thức. Muốn rút ngắn phải tăng tốc, đi tắt, đón đầu, bỏ qua lối
mòn mà các nước đã phải vất vả vượt qua, quan điểm đó có điều kiện thực hiện khi
tri thức đã mang tính tồn cầu. Chủ trương của Đảng ta đẩy mạnh CNH, HĐH và
từng bước vững chắc chuyển sang nền kinh tế tri thức là có căn cứ khoa học, phù
hợp với xu thế chung của thời đại, nhưng chỉ thành công khi hai nhiệm vụ được
thực hiện đồng thời, lồng ghép vào nhau, bổ sung cho nhau, hỗ trợ nhau, bằng cách
tăng cường đào tạo, sử dụng, khuyến khích, tăng nhanh tiềm năng tri thức quốc gia
và đầu tư vào các ngành công nghệ kỹ thuật cao, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng tăng nhanh các ngành kinh tế tri thức.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2005, tr.195.
2. Nguyễn Phú Trọng: Nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị tồn quốc giữa nhiệm
kỳ của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.34.
3. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.198.
4. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2001, tr.263.
5. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội, 2006, tr.28-29.
6. ĐCSVN:Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2011, tr.79, 98.

16



×