Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Thực tiễn đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở việt nam dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản việt nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.08 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................................... 1
NỘI DUNG................................................................................................................................... 2
1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị.......................2
1.1. Vai trị quyết định của kinh tế đối với chính trị......................................................................3
1.2. Chính trị có tính độc lập tương đối và tác động trở lại đối với kinh tế...................................4
2. Đặc điểm mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị ở Việt Nam hiện nay.....................................6
2.1. Mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị là mối quan hệ giữa khách quan với chủ quan..........7
2.2. Mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị cũng là mối quan hệ giữa xã hội với chính trị...........7
2.3. Mối quan hệ giữa văn hố với chính trị - một khía cạnh ở chiều sâu của mối quan hệ kinh tế
với chính trị................................................................................................................................... 8
3. Vận dụng quan điểm Mác-Lênin để đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam trong
thời kỳ hội nhập quốc tế.............................................................................................................. 10
3.1. Các nguyên tắc cần duy trì để tiếp tục đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị có hiệu quả.....10
3.2. Thực tiễn đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam............................................................................................................................... 11
KẾT LUẬN................................................................................................................................. 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................................16


LỜI MỞ ĐẦU
Thời kỳ trước đổi mới, về nhận thức, chúng ta đã nhấn mạnh quá mức vai trò
kiến trúc thượng tầng, coi chính trị là thống sối, quyết định kinh tế và tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội; chưa đánh giá đúng vai trò của kinh tế trong quan hệ với
chính trị. Về cơ chế, chúng ta cũng nhận thức một cách đơn giản về tác động của kiến
trúc thượng tầng chính trị đối với cơ sở kinh tế. Chính trị can thiệp quá sâu vào các quá
trình kinh tế - xã hội bằng hệ thống những mệnh lệnh chủ quan của các cơ quan quản
lý các cấp. Và thiết chế, bộ máy hành chính cịn quan liêu, cửa quyền, cồng kềnh, kém
hiệu quả.
Từ khi đổi mới đến nay, về quan điểm Đảng ta chủ trương “Kết hợp ngay từ đầu
đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời


từng bước đổi mới chính trị”. Đây là nhận thức đúng cả về mặt lý luận cả về mặt thực
tiễn. Có thể nhận thấy, kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội,
có tác động trực tiếp đến những hoạt động cơ bản của con người cũng như quá trình
phát triển của lồi người. Do đó, khi nghiên cứu về q trình vận động, phát triển của
xã hội lồi người, V.I. Lê-nin đã bàn đến các vấn đề kinh tế, chính trị và mối quan hệ
của chúng. Việc nghiên cứu quan điểm của V.I. Lê-nin về mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị là một trong những cơ sở phương pháp luận quan trọng để xem xét việc giải
quyết mối quan hệ này ở Việt Nam hiện nay. Do đó, tôi chọn chủ đề “Thực tiễn đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay” để làm bài thu hoạch cho môn
học Triết học Mác-Lênin. Do kiến thức và tầm hiểu biết cịn hạn chế nên bài viết của
tơi khơng tránh khỏi sai sót rất mong được các giảng viên góp ý kiến cho bài thu hoạch
được hồn thiện.
Hà Nội, ngày 05 tháng 9 năm 2019

1


NỘI DUNG
1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị
C. Mác và Ph. Ăng-ghen coi quan hệ giữa kinh tế và chính trị là biểu hiện tập trung
nhất của quan hệ giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng. Trong đó, cơ sở hạ tầng –
kinh tế giữ vai trị quyết định. Đồng thời, kiến trúc thượng tầng – chính trị cũng có tính độc
lập tương đối, tác động trở lại cơ sở hạ tầng. Phát triển quan điểm trên, Lenin đã khái quát
bản chất mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị như sau: “Chính trị là sự biểu hiện tập trung
của kinh tế”; “Chính trị tức là kinh tế được cô đọng lại”. Sự khẳng định này có nghĩa, chính
trị ra đời từ kinh tế, do kinh tế quyết định; chính trị là sự phản ánh, là tính thứ hai so với
kinh tế. Chính trị phải được xây dựng trên cơ sở kinh tế, khơng được thốt ly những đặc
trưng và những nhiệm vụ kinh tế của xã hội. Khi cơ sở kinh tế biến đổi, chính trị phải biến
đổi theo để phản ánh đúng cơ sở kinh tế, phù hợp với kinh tế để tạo được môi trường tốt nhất

cho kinh tế phát triển theo đúng quy luật khách quan.
Đồng thời với việc thừa nhận tính thứ nhất của kinh tế, Lenin cũng cho rằng, “chính
trị không thể chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế”. Khẳng định đó của Lenin đã nhấn mạnh
tính độc lập tương đối và vai trò tác động trở lại rất tích cực của chính trị đối với kinh tế. Sự
tác động của chính trị đối với kinh tế thơng qua sức mạnh của các thể chế của hệ thống chính
trị, đặc biệt là của nhà nước được thể hiện ở chỗ nếu một nền chính trị đúng đắn khoa học,
phù hợp với cơ sở kinh tế của xã hội hiện tại thì nó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế
phát triển, và vì thế, nó sẽ góp phần to lớn vào tăng trưởng kinh tế, giải phóng sức sản xuất,
làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội. Ngược lại, nếu chính trị sai lầm, trì trệ, không khoa
học, không phù hợp với các thực tiễn kinh tế thì nó sẽ là lực lượng kìm hãm sự phát triển
kinh tế, thậm chí đẩy kinh tế vào khủng hoảng, và hậu quả đi kèm tất yếu là mất ổn định
chính trị – xã hội.
Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là mối quan hệ giữa kinh tế với quyền lực chính
trị. Nói cách khác, là mối quan hệ giữa quyền lực nhà nước với kinh tế hướng tới sự phát
triển kinh tế, nhằm bảo vệ chế độ chính trị và lợi ích của giai cấp cầm quyền. Giải quyết
2


quan hệ chính trị với kinh tế trực tiếp quyết định tới mục tiêu của sự phát triển xã hội, phát
triển kinh tế. Hơn nữa, nó cịn quan hệ tới việc định hướng cho sự phát triển kinh tế, bởi giải
quyết quan hệ này trên quan điểm lý tưởng nào? Vì ai? Do đó, từ góc độ quan hệ với kinh tế,
vấn đề chính trị thực chất là vấn đề định hướng, tạo động lực cho phát triển kinh tế.
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp, nhóm xã hội nào nắm được quyền lực chính trị là
nắm được cơng cụ cơ bản, trọng yếu để giải quyết quan hệ lợi ích với giai cấp, nhóm xã hội
khác theo hướng có lợi cho giai cấp mình, nhóm mình. Vì vậy, tác động của chính trị đến
kinh tế thể hiện tập trung ở sự tác động của quyền lực chính trị (biểu hiện tập trung quyền
lực nhà nước) đối với kinh tế. Về cơ bản, sự tác động đó thể hiện trên ba phương diện:
cương lĩnh, đường lối chính trị với chính sách kinh tế; tổ chức, thiết chế chính trị với kinh tế;
con người, chủ thể chính trị với kinh tế.
Về bản chất, mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị được thể hiện trên những nội dung

sau:

1.1. Vai trị quyết định của kinh tế đối với chính trị
Theo Lênin, chính trị xét trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức, là một
trong những hình thức biểu hiện của kinh tế, nhưng là hình thức biểu hiện tập trung
nhất, cơ đọng nhất. Nội dung quyết định hình thức, nền kinh tế, suy cho cùng là nhân
tố quyết định chính trị. Nghĩa là, kinh tế làm nảy sinh chính trị, cơng cụ, phương tiện
để thỏa mãn nhu cầu, mục đích chính trị. Tương ứng với một trình độ phát triển nhất
định về kinh tế là một trình độ phát triển nhất định về chính trị. Cơ sở kinh tế như thế
nào thì cơ cấu thể chế chính trị tương ứng như thế ấy. Sự biến đổi, phát triển kinh tế là
nguồn gốc sâu xa của mọi sự biến đổi về xã hội và đảo lộn về chính trị. Do đó, khi
giải thích mọi sự biến đổi về chính trị, cần phải xuất phát từ căn nguyên kinh tế.
Ngược lại, chính trị khơng ngồi mục đích là hướng vào sự phát triển của kinh tế.
Kinh tế là gốc của chính trị, là thước đo tính hợp lý của chính trị. Kinh tế phát triển thì
chính trị tiến bộ. Ngược lại, kinh tế khủng hoảng, chính trị cũng sẽ ảnh hưởng thậm
chí có thể bị khủng hoảng theo. Do đó, ở bất kỳ thời đại nào, chính trị nếu khơng
3


hướng vào việc giải quyết thỏa đáng các quan hệ lợi ích nhằm phát triển kinh tế thì sẽ
khơng có cơ sở để tồn tại, sớm muộn cũng phải thay thế bởi một chính trị mới tiến bộ
hơn, phù hợp hơn. Chính trị chủ yếu là xây dựng nhà nước về mặt kinh tế.

Trong đường lối, chính sách của đảng cầm quyền tác động vào quá trình phát
triển kinh tế – xã hội thì tính đúng đắn của đường lối, chính sách kinh tế giữ vai trị
quyết định. Đảng Cộng sản Việt Nam đã bắt đầu sự nghiệp đổi mới dựa trên cơ sở đó,
đổi mới tư duy lý luận về kinh tế, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, từng bước đổi
mới chính trị phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế.
1.2. Chính trị có tính độc lập tương đối và tác động trở lại đối với kinh tế.
Chủ nghĩa Mác-Lênin khơng phủ nhận vai trị quyết định suy đến cùng của

kinh tế, song cũng khơng có nghĩa là chỉ kinh tế là nguyên nhân duy nhất chủ động
cịn các yếu tố xã hội khác đóng vai trị thụ động: “Vấn đề hồn tồn khơng phải là
chỉ có hồn cảnh kinh tế mới là ngun nhân, chỉ có nó là tích cực, cịn tất cả những
cái cịn lại đều chỉ là hậu quả thụ động”. Trong tất cả sự tác động trở lại của các nhân
tố xã hội khác đối với kinh tế thì sự tác động trở lại của chính trị giữ vị trí quan trọng
hành đầu, thể hiện cụ thể là:
Thắng lợi của cách mạng chính trị là tiền đề, điều kiện tiên quyết cho những
biến đổi về chất và phát triển kinh tế diễn ra tiếp theo. Điều này hoàn toàn rõ ràng đối
với cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giai cấp công nhân và nhân dân lao động muốn
giải phóng mình ra khỏi sự bóc lột và tha hóa bởi quan hệ tư sản và tiền tư sản, trước
hết phải giành được quyền lực chính trị – quyền lực nhà nước. Có như thế, họ mới có
tiền đề cải tạo quan hệ kinh tế – biến mình thành chủ sở hữu các tư liệu sản xuất cơ
bản. Sẽ khơng có sự biến đổi và phát triển nào của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa nếu
như giai cấp vô sản chưa giành được chính quyền nhà nước – điều kiện tiên quyết để

4


thành lập nền tảng kinh tế mới dựa trên cơ sở của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất
chủ yếu.
Với tính độc lập tương đối, chính trị tác động trở lại kinh tế theo nhiều hướng
khác nhau, thúc đẩy hoặc kìm hãm, hoặc vừa thúc đẩy vừa kìm hãm. Tác động ngược
lại của quyền lực nhà nước đối với sự phát triển kinh tế có thể có ba loại: có thể tác
động ngược lại sự phát triển kinh tế, có thể cản trở sự phát triển kinh tế hoặc thúc đẩy
sự phát triển ở chiều hướng khác. Vì thế, muốn kinh tế phát triển đồng thuận với sự
tác động của chính trị thì phải quan tâm tới ba phương diện: cương lĩnh, đường lối
chính trị kinh tế; tổ chức, thiết chế chính trị với kinh tế; con người, chủ thể chính trị
với kinh tế. Bằng sự nhận thức khoa học những xu hướng và quy luật kinh tế khách
quan, chính trị có thể vận dụng tổng hợp một số quy luật, điều kiện để tăng cường tác
động của quy luật này, hạn chế hậu quả của quy luật khác, nhằm đưa nền kinh tế phát

triển đúng quỹ đạo khách quan, đồng thời phù hợp với lợi ích của chủ thể chính trị.
Trên thực tế, khơng có đường lối chính trị đúng đắn thì khơng một giai cấp nào có thể
giữ vững được sự thống nhất chính trị của mình, và do đó, cũng khơng có khả năng
lãnh đạo kinh tế. Hơn nữa, nếu thiếu quan điểm chính trị đúng đắn trong việc giải
quyết các vấn đề kinh tế thì có thể sản xuất vẫn phát triển, kinh tế vẫn tăng trưởng,
thậm chí với tốc độ cao, nhưng trung tâm quyền lực chính trị khơng cịn nằm trong
tay giai cấp thống trị đương thời. Muốn có đường lối chính trị đúng đắn, cần thiết phải
có một thiết chế chính trị và các chủ thể chính trị phù hợp, bảo đảm hiện thực hóa có
kết quả đường lối phát triển kinh tế.
Chính trị đóng vai trị định hướng và tạo mơi trường chính trị – xã hội ổn định
bảo đảm cho sự phát triển kinh tế. Sự định hướng chính trị cho sự phát triển kinh tế
thể hiện trên tất cả các khâu của quá trình phát triển kinh tế như: xây dựng đường lối
phát triển kinh tế, định hướng q trình tổ chức thể chế hóa đường lối, quản lý quá
trình phát triển kinh tế và định hướng xã hội phát triển kinh tế để khơng có sự hy sinh
cái này cho cái kia, và để lợi ích giai cấp thống trị không bị vi phạm. Hơn nữa, trong
5


điều kiện tồn cầu hóa đời sống kinh tế, sự ổn định chính trị là điều kiện thuận lợi cho
mọi hoạt động đầu tư, kinh doanh và phát triển kinh tế.
Chính trị khơng chỉ lãnh đạo kinh tế mà cịn tham gia kiểm soát chặt chẽ các
vấn đề cơ bản, then chốt của kinh tế như: ngân sách, vốn, hoạt động tài chính, tiền tệ,
chính sách kinh tế đối ngoại… Sự lãnh đạo của chính trị đối với kinh tế không chỉ
định hướng, tạo sự ổn định cho phát triển kinh tế mà còn tham gia quản lý nền kinh tế,
điều chỉnh cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát
triển. Việc kiểm soát chặt chẽ nội dung hoạt động của kinh tế góp phần nâng cao tính
năng động của nền kinh tế và qua đó thực hiện sự thẩm định tính đúng đắn của đường
lối phát triển kinh tế.
Trong các mối quan hệ xã hội, mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là quan
trọng nhất, đồng thời cũng nhạy cảm và phức tạp nhất. Để giải quyết tốt mối quan hệ

này cần phải tránh hai quan điểm sai lầm: một là, tuyệt đối hóa kinh tế; hai là, tuyệt
đối hóa chính trị. Nếu theo khuynh hướng thứ nhất, nền kinh tế sẽ phát triển một cách
tự phát, vơ chính phủ. Nếu theo khuynh hướng thứ hai, nền kinh tế sẽ phát triển theo
hướng áp đặt, không theo quy luật khách quan. Nếu đồng nhất chính trị với kinh tế sẽ
làm chính trị trở nên cứng nhắc, giáo điều.
Thực chất sự tác động của chính trị đối với kinh tế là tạo ra mơi trường xã hội
ổn định, giải phóng sức sản xuất, tạo động lực phát triển kinh tế và định hướng phát
triển. Sự phát triển xã hội đòi hỏi phải có sự ưu tiên của chính trị đối với kinh tế, phải
có giải pháp chính trị để phát triển kinh tế. Kinh tế càng phát triển thì chính trị càng
phải mở rộng, đổi mới, tạo tiền đề tiên quyết thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
2. Đặc điểm mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị ở Việt Nam hiện nay
Từ khi nước ta chuyển sang kinh tế thị trường và tiếp tục đổi mới hơn 33 năm
qua, mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị ngày càng thể hiện tầm quan trọng của nó
trong những thành tựu đổi mới cũng như trong những sai lầm, khuyết điểm đó vấp
6


phải. Vì vậy, để chủ động giải quyết mối quan hệ này có hiệu quả cả về kinh tế và
chính trị, cần thiết nhận từ những đặc điểm của mối quan hệ này.
2.1. Mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị là mối quan hệ giữa khách quan với
chủ quan
Như chúng ta đó biết, mỗi hình thái kinh tế vận động phát triển dưới hình thức
một phương thức sản xuất nhất định, bao gồm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
tương ứng. Lực lượng sản xuất trong kinh tế thị trường dựa trên nền tảng cơ sở kỹ
thuật nhất định do đòi hỏi của cạnh tranh. Ngày nay, sự phát triển của lực lượng sản
xuất nhờ những tiến bộ và cách mạng khoa học và công nghệ, nhờ sự phù hợp của thể
chế kinh tế và quản lý. C.Mác coi đó là "q trình lịch sử - tự nhiên". Những thời kỳ
phồn vinh hay suy thoái kinh tế đều có chung nguồn gốc từ mối quan hệ giữa yêu cầu
của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất và thể chế quản lý. Đó là mối quan hệ
giữa khách quan (kinh tế) với chủ quan (chính trị) thể hiện trong suốt tiến trình đổi

mới vừa qua.
Trong những năm thực hiện Chính sách kinh tế mới (NEP) Lênin đó rút ra
nguyên lý về mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị: "Chính trị là biểu hiện tập trung
của kinh tế. Chính trị khơng thể khơng chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế".
Nguyên lý đó chỉ ra rằng: đường lối chính sách phải phản ánh được nhu cầu và
quy luật kinh tế. Chỉ trong điều kiện đó, chính trị mới lãnh đạo, quản lý kinh tế có
hiệu quả, mới giữ được vai trị chính trị. Thực tiễn những thời kỳ sau này đó xác nhận
tính đúng đắn của nguyên lý ấy biểu hiện ở những thất bại của các đảng cầm quyền
rơi vào chủ quan duy ý chí trong lãnh đạo và quản lý kinh tế - xã hội.
2.2. Mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị cũng là mối quan hệ giữa xã hội với
chính trị
Qúa trình phát triển kinh tế thị trường tác động đến phát triển xã hội từ hai mặt:

7


Một là, sự phát triển phân công lao động xã hội dần dần làm thay đổi cơ cấu xã
hội dân cư. Xãhội Việt Nam sau hơn 20 năm chuyển sang kinh tế thị trường đó khác
xã hội trước đổi mới về phân tầng xã hội và cơ cấu xã hội dân cư. Sự biến đổi này sẽ
dẫn đến những thay đổi về yêu cầu việc làm và hưởng thụ, về nhân sinh quan, thế giới
quan của xã hội, trước hết là thế hệ trẻ.
Hai là,sự phát triển kinh tế sẽ dần dần làm thay đổi nhu cầu của dân cư về cơ
cấu và chất lượng sản phẩm. Do đó làm thay đổi mức sống và lối sống của dân cư, sự
phát triển xó hội và cá nhân. Như vậy, sự phát triển kinh tế thị trường nảy sinh những
đòi hỏi mới về mặt xã hội mà chính trị phải giải quyết.
Do phân công lao động phát triển, nên xã hội dần dần được tổ chức thành các
Hội nghề nghiệp, đại biểu cho lợi ích và nguyện vọng của hội viên. Đó là xã hội dân
sự, đóng góp ngày càng tăng cho phát triển kinh tế và ổn định xã hội... ở các nước
phát triển kinh tế thị trường, mối quan hệ giữa chính trị và xã hội thể hiện ở mối quan
hệ giữa Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự. Đó là một trong ba trụ cột của nền

dân chủ.
Như vậy, mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị cịn bao gồm cả mối quan hệ xã
hội với chính trị. Nếu chỉ quan tõm chạy theo tăng trưởng kinh tế một chiều, không
đồng hành với phát triển xã hội thì chính trị sẽ kìm hãm phát triển kinh tế và tạo ra
nguy cơ mất ổn định xã hội.
2.3. Mối quan hệ giữa văn hố với chính trị - một khía cạnh ở chiều sâu của mối
quan hệ kinh tế với chính trị
Kinh tế thị trường phát triển theo một q trình xó hội hóa từ thấp lên cao.
Vìvậy, sự phát triển kinh tế thị trường ln gắn liền với sự hình thành và phát triển
nền văn hố mới. Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa ở giai đoạn đầu gắn liền với thời
kỳ Văn hoá Phục hưng. Quá trình phát triển sau này của kinh tế gắn liền với các cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ, phát triển giáo dục, văn học nghệ thuật. ở đâu
8


khơng có những thành tựu về phát triển văn hố thì ở đó chỉ là những thị trường
hoang dại, đầy rẫy lừa đảo và tham nhũng, quan liêu.
Sự phát triển văn hố trong kinh tế thị trường hiện đại cịn thể hiện ở hệ thống
tiêu chí chất lượng trong cạnh tranh thị trường, làm cơ sở cho thể chế minh bạch,
cơng khai và kiềm kê, kiểm sốt các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể, giữa nhà nước
với doanh nghiệp và người dân.
Bước vào thế kỷ XXI, văn hoá ngày càng có ảnh hưởng nổi trội đối với phát
triển và chính trị, thể hiện ngày càng nhiều trong các tiêu chí quy định sức cạnh tranh
của doanh nghiệp và quốc gia. Nét mới của tác động văn hố khơng chỉ ở trình độ
phát triển khoa học và cơng nghệ, giáo dục và đào tạo, văn học và nghệ thuật mà cịn
ở sự phát triển hài hồ "mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người
với tự nhiên". Chỉ khi "mối quan hệ kép" đó phát triển đồng thời, thì bộ mặt Người
của xã hội và cá nhân mới hiện lên đầy đủ. Với những bước phát triển kinh tế tri thức,
xu hướng tác động của văn hố nói trên ngày càng hiện thực thơng qua sự phát triển
cạnh tranh kinh tế và đấu tranh chính trị. Chỉ sự phát triển đó mới có tính chất bền

vững. Sự phát triển như vậy bắt đầu từ mỗi cá nhân trong xã hội. Chính phát hiện xu
hướng này mà C.Mác đã dự báo xã hội tương lai là "xã hội mà sự phát triển tự do của
mỗi người là điều kiện cho sự phát triển của mọi người".
Xu hướng văn hoá ấy đang trở thành một sức ép lớn và ngày càng tăng trong
cạnh tranh kinh tế (phải hướng tới nền "kinh tế xanh" (green economy) và trong chính
trị (hướng tới một nền chính trị nhân văn). Sức mạnh văn hố này đang là một địi hỏi
cơng bằng có tính chất tồn cầu do những tệ nạn về xã hội và tàn phá môi trường đến
mức độ nguy hiểm cho cả loài người.
Sự phát triển của Việt Nam hiện nay cũng khơng thể ra ngồi xu hướng chủ đạo
nói trên về kinh tế và chính trị. Sau hai thập kỷ cần thiết phải coi trọng tăng trưởng về
số lượng, nay đó đến lúc phải thay đổi định hướng cụ thể với mơ hình phát triển bền
vững. Trước thập kỷ thứ hai của thế kỷ XXI, cái cần nhất cho Việt Nam là một môi
9


trường văn hoá nhân văn trong quan hệ kinh tế và chính trị, trong mỗi người dân và
người lãnh đạo để sử dụng vốn đầu tư và nguồn nhân lực theo hướng phát triển bền
vững. Đó là hiện thực hố định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Vận dụng quan điểm Mác-Lênin để đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế
3.1. Các nguyên tắc cần duy trì để tiếp tục đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị có
hiệu quả
Xuất phát từ thực tiễn, để tiếp tục đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị có hiệu
quả, cần nắm vững những ngun tắc có tính phương pháp luận như sau:
Thứ nhất, nhận thức đúng vấn đề có tính quy luật là, mọi sự biến đổi của chính
trị đều là sự phản ánh sự biến đổi của kinh tế, do kinh tế quyết định. Vì vậy, phải xuất
phát từ đổi mới kinh tế mà tiến tới đổi mới chính trị; hay nói cách khác, phải xuất phát
từ thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà đổi mới
chính trị cho phù hợp. Đồng thời, cũng cần tích cực đổi mới chính trị, phát huy vai trị
định hướng, dẫn dắt của chính trị đối với kinh tế thơng qua các cơ chế, chính sách phù

hợp. Tuy nhiên, chính trị là lĩnh vực nhạy cảm và phức tạp nên đổi mới chính trị phải
thận trọng, có bước đi phù hợp, tiến hành từng bước.
Thứ hai, đặt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong các
mối quan hệ khác của quá trình đổi mới. Tại Đại hội XII, Đảng ta đã coi mối quan hệ
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một trong 9 mối quan hệ cơ bản của quá
trình đổi mới. Tuy các mối quan hệ đó có nội dung, bản chất khác nhau nhưng giữa
chúng lại có mối quan hệ biện chứng với nhau. Do đó, cần kết hợp hài hịa việc giải
quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị với các mối quan hệ
khác. Vì kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội nên việc giải
quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là điều kiện giải quyết
các mối quan hệ khác.
10


Thứ ba, giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị gắn
với điều kiện lịch sử - cụ thể. Không phải ngẫu nhiên mà trong suốt hơn 30 năm đổi
mới, quan điểm về đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị từng bước được điều chỉnh
cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử nhất định. Sự vận động của thực tiễn ở mỗi
giai đoạn đã đặt ra cho Đảng ta yêu cầu phải có những điều chỉnh cho phù hợp. Trong
giai đoạn hiện nay, giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
cần được đặt trong bối cảnh mới - tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế trong thời đại Cách mạng cơng
nghiệp lần thứ tư. Từ đó, có những chủ trương, chính sách cho phù hợp với đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị.
3.2. Thực tiễn đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam
Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đất nước (năm 1986) đến nay, trên cơ sở
nhận thức lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin nói chung, quan điểm của V.I. Lê-nin
nói riêng về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, Đảng ta chủ trương đổi mới toàn
diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có đổi mới cả kinh tế lẫn

chính trị. Qua hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, trong nhận thức và thực tiễn
giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam đã có
nhiều biến chuyển theo hướng ngày càng sáng rõ hơn, hợp lý hơn.
Về quan điểm, Đảng ta chủ trương “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh
tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi
mới chính trị”(9). Kế thừa tinh thần của các kỳ đại hội trước, tại Đại hội XII, Đảng ta
nhấn mạnh mục tiêu và nhiệm vụ phát triển đất nước trong 5 năm tới là: “Đổi mới
mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, có bước đi phù hợp trên các lĩnh vực, nhất là giữa
kinh tế và chính trị”.
Khái niệm “đổi mới kinh tế” qua các văn kiện của Đảng được hiểu là quá trình
chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung, bao cấp chủ yếu dựa trên chế độ sở hữu
11


toàn dân và sở hữu tập thể sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là bước chuyển từ nền kinh tế cơ bản
là “khép kín” sang nền kinh tế “mở” đối với khu vực và thế giới, kết hợp tăng trưởng
kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh
thái và từng bước đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Khái niệm “đổi mới chính trị” qua các văn kiện của Đảng được hiểu là quá
trình đổi mới tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế
vận hành của hệ thống chính trị, trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng;
đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm giữ vững ổn
định chính trị để xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh; thực hiện
tốt nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân
trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế
- xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thực tiễn đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam sau hơn 33 năm dưới
sự lãnh đạo của Đảng đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.

Về đổi mới kinh tế, nhờ thực hiện chủ trương “lấy đổi mới kinh tế làm trọng
tâm”, tập trung giải quyết những vấn đề cấp thiết của nhân dân về sản xuất và đời
sống, giải phóng sức sản xuất, hình thành và phát huy vai trò của hệ thống động lực...,
nước ta đã thốt khỏi tình trạng trì trệ và khủng hoảng về kinh tế - xã hội vốn kéo dài
nhiều năm; hơn thế, cịn tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, ổn
định và liên tục, mở rộng các quan hệ hợp tác kinh tế với nhiều quốc gia và tổ chức
kinh tế quốc tế..., tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài, nâng cao vị
thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với sự
đa dạng của các hình thức sở hữu, các hình thức phân phối, trong đó lấy phân phối
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, cũng như mơ hình quản lý theo

12


cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác lập và bước đầu vận hành
thông suốt.
Về đổi mới chính trị, việc đổi mới về thể chế, tổ chức, nội dung và phương thức
hoạt động được thực hiện đồng bộ trong các cơ quan đảng, nhà nước và các tổ chức
chính trị - xã hội theo hướng dân chủ hóa; khắc phục và loại bỏ cơ chế tập trung, quan
liêu, hành chính, mệnh lệnh, xơ cứng, giáo điều, tách rời và cản trở sự phát triển của
kinh tế. Đánh giá ảnh hưởng tích cực của đổi mới chính trị đối với kinh tế, Đảng ta
từng khẳng định: “Những kết quả của đổi mới hệ thống chính trị, từ đổi mới tư duy,
chính sách, pháp luật đến tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước tuy mới là bước
đầu, song đã tạo nền tảng vững chắc cho đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội, giữ
vững quốc phòng, an ninh”.
Như vậy, với việc kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới
chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị,
chúng ta vừa thúc đẩy được nền kinh tế của đất nước phát triển theo quy luật khách
quan, vừa tạo nên sự năng động, tích cực trong tư duy, tư tưởng và đời sống tinh thần
nói chung của xã hội, làm cho con người được thực sự tự do và có điều kiện phát huy

tính chủ động, sáng tạo của mình. Hai q trình đó có quan hệ biện chứng với nhau,
tạo nên sức mạnh giúp chúng ta có cơ sở thực hiện thành cơng sự nghiệp đổi mới tồn
diện đất nước.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, quá trình đổi mới đất nước nói chung
và đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị ở nước ta nói riêng vẫn cịn những bất cập, hạn
chế. Bàn về vấn đề này, tại Đại hội XII, Đảng ta nhận định: Nền kinh tế nước ta tuy đã
có những bước tăng trưởng nhưng cịn chậm và chưa bền vững, chưa tương xứng với
tiềm năng hiện có. “Nền kinh tế chủ yếu vẫn phát triển theo chiều rộng, tăng trưởng
kinh tế còn phụ thuộc nhiều vào các yếu tố về vốn, tài nguyên, lao động trình độ thấp,
chưa dựa nhiều vào tri thức, khoa học và cơng nghệ, lao động có kỹ năng”. Ngồi ra,
đổi mới chính trị cịn chậm và hiệu quả cịn thấp: “Tổ chức bộ máy của Đảng và toàn
13


hệ thống chính trị cịn cồng kềnh, nhiều tầng nấc; chức năng, nhiệm vụ ở một số tổ
chức còn chồng chéo; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nhiều tổ chức trong hệ thống
chính trị chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ,... Việc kiện toàn tổ chức, bộ máy các
cơ quan, tổ chức nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội gắn với tinh giản biên chế,
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức kết quả cịn thấp. Số lượng cán bộ,
cơng chức khơng những không giảm mà lại tăng...”.

KẾT LUẬN
Bên cạnh những thành công vừa nêu trên, việc vận dụng và xử lý mối quan hệ
biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị của chúng ta cịn có nhiều đem
cần phải cố gắng hoàn thiện hơn nữa. Đổi mới là cả một quá trình lâu dài và phức tạp
do thực tiễn luôn vận động và thay đổi. Đường lối đổi mới và định hướng đổi mới
14


kinh tế với đổi mới chính trị của Đảng cần phải khẳng định là đúng đắn, tuy nhiên vấn

đề lại là hiệu quả của việc thực thi đường lối đó trên từng giai đoạn cụ thể, trong từng
cách làm cụ thể, của từng mối quan hệ cụ thể. Đại hội XII của Đảng thắng thắn nhìn
nhận về hạn chế trong đổi mới chính trị so với đổi mới kinh tế: “Nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ. Công
tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đổi mới, nâng
cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân chuyển biến
chậm”10; “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu
phát triển kinh tế và quản lý đất nước”; “công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế,
yếu kém, chậm được khắc phục”. Những hạn chế của đổi mới chính trị trong mọi
quan hệ với đổi mới kinh tế này đã cản trở q trình đổi mới kinh tế, thậm chí kìm
hãm kinh tế phát triển. Vấn đề đổi mới chính trị chưa thực sự có hiệu quả một phần do
chúng ta chưa làm rõ và phân định dứt khoát chức năng lãnh đạo của Đảng với chức
năng quản lý của Nhà nước. Mặt khác, trong đổi mới chính trị chúng ta mới chỉ tập
trung nhấn mạnh ý nghĩa của đổi mới tư duy về chính trị chứ chưa thực sự tiến hành
đổi mới ở con người chính trị-chủ thể hoạt động chính trị và cơ chế hoạt động có hiệu
quả của hệ thống chính trị.
Do vậy, để đất nước phát triển hơn nữa cần tiếp tục nhận thức và giải quyết tốt
mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đây cũng là thực chất, yêu cầu,
nội dung của một trong tám mối quan hệ lớn trong thời kỳ quá độ lên CNXH nước ta
mà Đảng ta đã đề ra cần giải quyết đúng đắn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2005, tr.195.
2. Nguyễn Phú Trọng: Nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ
của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.34.
3. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1996, tr.198.
15



4. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2001, tr.263.
5. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2006, tr.28-29.
6. ĐCSVN:Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2011, tr.79, 98.

16



×