Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Đề cương ôn tập Môn Xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam CCLLCT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (578.42 KB, 91 trang )

1
BÀI 1: HỌC THUYẾT MÁC - LÊNIN VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN, ĐẢNG CẦM QUYỀN VÀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN MỚI......................................................................................................................3
Câu 1. V.I.Lênin đã vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng của C.Mác, Ph. Ăngghen về đảng cộng sản trong xây dựng Đảng
kiểu mới của giai cấp công nhân như thế nào?...............................................................................................................................3
Câu 2: Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác – Lênin về đảng cộng sản trong xây dựng
Đảng như thế nào?...........................................................................................................................................................................7
Câu 3: Giải pháp giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng giai đoạn hiện nay........................................10
Câu 4: Đặc điểm, nguy cơ của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền hiện nay?...........................................................................12
Câu 5: Cơ sở lý luận và thực tiễn của nhiệm vụ tập trung xây dựng Đảng và trình bày các giải pháp xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng hiện nay?..........................................................................15
Câu 6: Cơ sở lý luận, thực tiễn và giải pháp của nhiệm vụ đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng hiện nay?.......................21
BÀI 2................................................................................................................................................................................................27
CÁC NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC,...........................................................................................................................................................27
HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM.............................................................................................................................27
Câu 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình trong Đảng...............................27
Câu 2: Nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng - thực trạng và giải pháp.................................................................................30
Câu 3: Nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng – tính chất, thực trạng và giải pháp.....................................................31
BÀI 3: CÔNG TÁC TỔ CHỨC, CÁN BỘ VÀ BẢO VỆ CHÍNH TRỊ NỘI BỘ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY.....................33
Câu 1: Các quan điểm chỉ đạo tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị...............................................33
Câu 2: Các quan điểm chỉ đạo công tác cán bộ của Đảng hiện nay..............................................................................................34
Câu 3: Các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu xây dựng đội ngũ cán bộ hiện nay.................................................................................35
Câu 4: Vai trò, tầm quan trọng của cơng tác bảo vệ chính trị nội bộ Đảng...................................................................................41
Câu 5: Những biểu hiện của “chính trị hiện nay” và tác hại của nó..............................................................................................42
Câu 6. Những giải pháp tăng cường cơng tác bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình hiện nay..................................................45
BÀI 4: TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG, ĐẢNG VIÊN VÀ CÔNG TÁC GIÁO DỤC, RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO ĐỘI NGŨ ĐẢNG
VIÊN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM..........................................................................................................................................46
Câu 1: Tiêu chuẩn/ tư cách đảng viên đáp ứng yêu cầu mới........................................................................................................46
Câu 2: Giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng...........................................................................................................48
Câu 3: Giải pháp nâng cao chất lượng đảng viên đáp ứng yêu cầu mới.......................................................................................52
Câu 4: Cơ sở lý luận, thực tiễn và giải pháp của nhiệm vụ đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thối về tư tưởng chính


trị, đạo đức, lối sống; ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ hiện nay?................54


2
Câu 5: Cơ sở lý luận, thực tiễn và giải pháp của nhiệm vụ khắc phục tình trạng cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ
hội, vụ lợi trong nội bộ hiện nay?...................................................................................................................................................59
BÀI 5: CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG, DÂN VẬN, KIỂM TRA, GIÁM SÁT VÀ KỶ LUẬT CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY.........63
Câu 1: Vị trí, vai trị và cấu trúc của cơng tác tư tưởng.................................................................................................................63
Câu 2: Nhiệm vụ, hình thức, nguyên tắc và phương châm cơng tác tư tưởng.............................................................................64
Câu 3: Tính tất yếu (vì sao) phải tăng cường công tác tư tưởg của Đảng hiện nay......................................................................70
Câu 4: Nhận thức và quan điểm của Đảng về vị trí, vai trị của cơng tác dân vận trong giai đoạn hiện nay...............................74
Câu 5: Đổi mới nội dung, phương thức công tác dân vận của Đảng giai đoạn hiện nay..............................................................77
Câu 6. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân trong
giai đoạn hiện nay...........................................................................................................................................................................81
Câu 7: Phát huy vai trị, trách nhiệm của chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể các cấp trong cơng tác dân vận giai
đoạn hiện nay..................................................................................................................................................................................85
Câu 8: Vị trí, vai trị của cơng tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng hiện nay?....................................................................87
Câu 9: Quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng hiện nay...................................................88
Câu 10: Phương hướng, nhiệm vụ đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng hiện nay. .89


3
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN XÂY DỰNG ĐẢNG
BÀI 1: HỌC THUYẾT MÁC - LÊNIN VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN, ĐẢNG CẦM
QUYỀN VÀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM TRONG ĐIỀU KIỆN MỚI

Câu 1. V.I.Lênin đã vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng của C.Mác, Ph.
Ăngghen về đảng cộng sản trong xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân như thế
nào?

TRẢ LỜI:
Sự vận dụng và phát triển sáng tạo của V.I.Lênin thể hiện ở những nguyên tắc Đảng kiểu
mới của giai cấp công nhân Nga do V.I. Lênin khởi xướng.Những nguyên tắc đó là:
- Thứ nhất, Đảng là đội tiên phong có tổ chức và là tổ chức chặt chẽ nhất, giác ngộ
nhất của giai cấp công nhân
Theo quan điểm của V.I. Lênin, Đảng Công nhân dân chủ - xã hội Nga là đội tiên phong
của giai cấp công nhân Nga. Là đội tiên phong của giai cấp, Đảng trung thành tuyệt đối với sự
nghiệp của giai cấp cơng nhân, có lý luận tiên phong và tổ chức chặt chẽ. Người cho rằng: "…
đội tiền phong có nghĩa vụ thường xuyên phải nâng các tầng lớp ngày càng đơng đảo đó lên
trình độ tiên tiến ấy. Và chúng ta chính là sẽ nhắm mắt lại và quên mất như vậy, nếu xoá bỏ sự
khác nhau giữa những người gần gũi đảng và những đảng viên, giữa những phần tử giác ngộ và
tích cực với những người giúp đỡ chúng ta".
Đảng không chỉ là đội tiên phong có vai trị giác ngộ sứ mệnh và địa vị lịch sử của giai
cấp công nhân, mà Đảng cịn là một bộ phận có tổ chức và là tổ chức cao nhất của giai cấp công
nhân. V.I. Lênin viết: "…giai cấp vơ sản vẫn có thể trở thành - và tất nhiên sẽ trở thành - một
lực lượng vơ địch, chỉ là vì một lý do này: sự thống nhất tư tưởng của giai cấp vô sản dựa trên
cơ sở những nguyên lý chủ nghĩa Mác được củng cố bằng sự thống nhất vật chất của tổ chức
tập hợp hàng triệu người lao động thành một đạo quân của giai cấp công nhân. Đương đầu với
đạo quân ấy, thì tất cả cái chính quyền đã già cỗi của chế độ chuyên chế Nga hoàng lẫn cái uy
lực đang già cỗi của tư bản quốc tế cũng đều không thể nào chống lại nổi".
V.I. Lênin nhấn mạnh rằng, trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, giai cấp cơng
nhân khơng có vũ khí nào tốt hơn là sự tổ chức; rằng, tổ chức quả là một vũ khí nhờ đó mà giai
cấp vơ sản sẽ tự giải phóng; rằng, đối với giai cấp cơng nhân thì tổ chức là vũ khí đấu tranh giai
cấp. Người viết: "Trong cuộc đấu tranh để giành chính quyền, giai cấp vơ sản khơng có vũ khí
nào khác hơn là sự tổ chức". Người nhấn mạnh: "Tính tự giác của đội tiên phong cịn biểu hiện
ở chỗ là nó biết tự tổ chức. Mà sau khi đã được tổ chức, nó có một ý chí thống nhất, và ý chí
thống nhất ấy của một nghìn, một trăm nghìn, một triệu người tiên tiến sẽ trở thành ý chí của
giai cấp".
- Thứ hai, chủ nghĩa Mác là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của
Đảng

Bóc trần những luận điểm cơ hội chủ nghĩa của phái kinh tế trong Đảng, V.I. Lênin vạch
rõ: học thuyết xã hội chủ nghĩa và cuộc đấu tranh của giai cấp cơng nhân có chung một nguồn
gốc trong những quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa, trong cuộc đấu tranh chống sự nghèo khổ và
lầm than của quần chúng do chủ nghĩa tư bản gây nên. Nhưng, học thuyết xã hội chủ nghĩa và
phong trào công nhân lại ra đời từ những tiền đề khác nhau, cái nọ không sinh ra cái kia được.
3


4
Học thuyết xã hội chủ nghĩa chỉ có thể ra đời từ những tiền đề khoa học tự nhiên, xã hội và tư
duy đã chín muồi; trên cơ sở hiểu biết sâu sắc triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học Anh
và chủ nghĩa xã hội khơng tưởng của Pháp; C. Mác và Ph. Ăngghen đã sáng tạo ra chủ nghĩa xã
hội khoa học làm vũ khí lý luận cho giai cấp vô sản cách mạng.
Chủ nghĩa xã hội khoa học là yếu tố từ bên ngoài đưa vào cuộc đấu tranh của giai cấp vơ
sản, nó khơng thể tự phát hình thành trong cuộc đấu tranh đó, nhưng giai cấp vơ sản dễ dàng và
nhanh chóng tiếp thu những tư tưởng của chủ nghĩa xã hội khoa học, vì chính học thuyết này đã
phản ánh về mặt lý luận những lợi ích cơ bản, sống cịn của giai cấp vô sản.V.I. Lênin vạch rõ:
"Công nhân trước đây khơng thể có ý thức dân chủ - xã hội được. Ý thức này chỉ có thể là từ
bên ngồi đưa vào. Lịch sử tất cả các nước chứng thực rằng chỉ do lực lượng của độc bản thân
mình thơi thì giai cấp cơng nhân chỉ có thể đi đến ý thức công liên chủ nghĩa, tức là đi đến chỗ
tin rằng phải đoàn kết lại thành hội liên hiệp, phải đấu tranh chống bọn chủ, phải địi hỏi chính
phủ ban hành những luật này hay luật khác cần thiết cho cơng nhân... Cịn học thuyết xã hội chủ
nghĩa thì phát sinh ra từ các lý luận triết học, lịch sử, kinh tế, do những người có học thức trong
các giai cấp hữu sản, những tri thức, xây dựng nên". Đảng Công nhân dân chủ - xã hội Nga là
đội tiền phong của giai cấp công nhân, người truyền bá chủ nghĩa Mác vào phong trào công
nhân Nga, Đảng lấy chủ nghĩa Mác làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động
của Đảng.
-Thứ ba, Đảng được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ
Theo V.I.Lênin, để có thể làm trịn vai trị đội tiên phong của giai cấp cách mạng, thì về mặt
tổ chức,đảng phải được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Thực hiện nguyên tắc này sẽ

tạo nên sự đoàn kết, thống nhất trong đảng, làm cho đảng vững chắc và phát huy được sức
mạnh của toàn đảng. V.I. Lênin chỉ ra rằng: Việc bảo vệ tính vững chắc của đường lối và sự
trong sạch của những nguyên tắc của đảng, ngày nay lại càng trở thành một công việc cấp thiết
hơn, vì sau khi đã phục hồi lại sự thống nhất của mình, đảng sẽ thu nạp vào hàng ngũ của mình
rất nhiều phần tử khơng vững vàng mà số lượng đó sẽ lớn lên theo sự phát triển của đảng.
Tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ bảo đảm cho ban chấp hành trung ương lãnh
đạo, chỉ đạo và kiểm sốt được hoạt động của tồn đảng, phát huy được sức mạnh của đảng,
đồng thời ngăn ngừa được tình trạng phe phái phá hoại đảng. Thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của đảng phải dựa trên một điều lệ thống nhất; từ một
trung tâm lãnh đạo thống nhất (đại hội đảng và khoảng thời gian giữa các đại hội là ban chấp
hành trung ương); có kỷ luật thống nhất; thiểu số phục tùng đa số; việc bầu cử các cơ quan lãnh
đạo phải tiến hành từ dưới lên trên; các cơ quan lãnh đạo của đảng phải báo cáo cơng tác
thường kỳ trước các tổ chức của mình.
Chỉ có tuân theo những yêu cầu của nguyên tắc tập trung dân chủ thì đảng mới thực hiện
được vai trị lãnh tụ của giai cấp công nhân. Nhấn mạnh ý nghĩa của nguyên tắc tập trung dân
chủ.
Theo V.I. Lênin, một đảng thống nhất và tập trung của giai cấp công nhân phải là một
đảng có kỷ luật. Nếu như khơng có một kỷ luật thống nhất và những trách nhiệm thống nhất
trong khi thi hành nghị quyết và yêu cầu của điều lệ đảng sẽ không tránh khỏi biểu hiện bè phái,
phe nhóm trong đội ngũ của đảng, những biểu hiện đó sẽ dẫn đảng đến chỗ tan rã. Kỷ luật phải
bắt buộc như nhau đối với tất cả mọi đảng viên. Trong đảng không thể chia thành "những người
được lựa chọn", " những nhân vật cấp trên" và "những đảng viên thường". Tuy nhiên, trong khi
nhấn mạnh ý nghĩa của chế độ tập trung trong Đảng, V.I. Lê nin hết sức coi trọng vấn đề dân
chủ trong công tác tổ chức và hoạt động của đảng, nhất là việc tổ chức và hoạt động của các cơ
quan lãnh đạo cấp cao của đảng. Người chưa bao giờ đối lập giữa tập trung và dân chủ với tư
4


5
cách là một nguyên tắc, song việc vận dụng nguyên tắc phải căn cứ vào thực tiễn chính trị của

Đảng. Hoạt động trong điều kiện của chế độ chuyên chế khơng có tự do chính trị, ln bị cảnh
sát truy lùng gắt gao, thì khơng thể nhấn mạnh chế độ dân chủ và cơng khai hóa các mặt cơng
tác của đảng được. Người kịch liệt phê phán "những người theo phái kinh tế" và sau này là bọn
mensêvích, đã ln tuyên truyền "nguyên tắc dân chủ rộng rãi" trong đảng, Người gọi "đó chỉ
là một câu nói kêu nhưng rỗng tuếch".
- Thứ tư, Đảng gắn bó chặt chẽ với quần chúng nhân dân, kiên quyết đấu tranh ngăn
ngừa và khắc phục bệnh quan liêu xa rời quần chúng
Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đảng không bao gồm toàn bộ giai cấp.
Nhưng, đội tiên phong muốn tồn tại, phát triển và có đủ lực lượng, sức mạnh để hồn thành sứ
mệnh lịch sử của mình thì phải liên hệ chặt chẽ với toàn thể quần chúng của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động. Sự khác nhau giữa đội tiên phong của giai cấp công nhân và tồn thể
quần chúng cơng nhân chưa thể mất đi khi xã hội cịn giai cấp. Nhưng, cũng khơng thể để sự
khác nhau đó trở thành sự cách biệt. Đảng không thể lãnh đạo được giai cấp nếu như đảng
không có sự liên hệ với quần chúng cơng nhân ngồi đảng và các tầng lớp lao động khác; đồng
thời, nếu đảng khơng được quần chúng tin cậy về mặt chính trị, tinh thần thì cũng sẽ khơng
nhận được sự ủng hộ của họ, V.I. Lênin viết: "Muốn trở thành một đảng dân chủ - xã hội, thì
cần phải được sự ủng hộ của chính giai cấp".
Trong mối liên hệ với quần chúng, đảng phải khắc phục khuynh hướng lệch lạc xa rời
quần chúng, đồng thời cũng đề phòng khuynh hướng theo đi quần chúng, hạ thấp trình độ
đảng xuống ngang trình độ quần chúng. Người chỉ rõ: "chúng ta sẽ chỉ tự lừa dối mình, nhắm
mắt trước những nhiệm vụ bao la của chúng ta, thu hẹp những nhiệm vụ đó lại, nếu chúng ta
quên mất sự khác nhau giữa đội tiền phong và tất cả số quần chúng hướng theo đội tiền phong
đó; nếu chúng ta quên mất rằng đội tiền phong có nghĩa vụ thường xuyên phải nâng các tầng
lớp ngày càng đơng đảo đó lên trình độ tiên tiến ấy". Trở thành đảng cầm quyền, đảng có nhiều
điều kiện thuận lợi để tăng cường mối liên hệ giữa đảng với nhân dân; nhưng khi đó đảng viên
cũng dễ này sinh bệnh quan liêu, tham nhũng dẫn đến thối hóa, biến chất, xa rời nhân dân. V.I.
Lênin coi đây là một trong những nguy cơ tiềm tàng mà đảng cầm quyền cần đề phòng, khắc
phục. Người chỉ rõ: "Một trong những nguy hiểm lớn nhất và đáng sợ nhất là sự cắt đứt liên hệ
với quần chúng". Để đảng luôn giữ được mối liên hệ mật thiết với nhân dân - theo V.I. Lênin trước hết đảng phải đổi mới lối làm việc của mình, phải làm cho đảng thật sự là đội tiên phong
của giai cấp vô sản cách mạng.

Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Đảng là đội tiền phong, nhưng đồng thời cũng
là một bộ phận của giai cấp, đảng không đứng trên và đứng ngồi giai cấp, đảng tất yếu phải
gắn bó mật thiết với quần chúng công nhân và nhân dân lao động. Gắn bó với quần chúng nhân
dân là bản chất của đảng cộng sản. Quan liêu, xa rời quần chúng nhân dân là nguy cơ làm cho
đảng phạm sai lầm về đường lối.
- Thứ năm, Đảng là một khối đoàn kết thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức; tự
phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng
Đoàn kết thống nhất là nguồn sức mạnh của đảng cộng sản, là điều kiện để đoàn kết giai
cấp: "Bất cứ sự bất đồng nào, ngay cả một sự bất đồng khơng đáng kể, cũng có thể trở thành
nguy hiểm về mặt chính trị". V.I. Lênin đặc biệt quan tâm đến sự đoàn kết, thống nhất của đảng
trong điều kiện đảng cầm quyền: "Chun chính vơ sản khơng thể thực hiện được nếu khơng có
sự đồn kết nhất trí của những người lao động.
Theo V.I. Lênin, khi đã trở thành đảng cầm quyền, thực hiện chun chính vơ sản, đảng
phải khắc phục mọi sự bất đồng, mâu thuẫn - nguồn gốc của sự chia rẽ trong nội bộ giai cấp vô
5


6
sản hoặc giữa đảng với quần chúng vơ sản. Đồn kết thống nhất trong đảng là cơ sở đoàn kết
giai cấp; sự đồn kết tồn giai cấp khơng thể có được nếu khơng có sự đồn kết trong đảng.
Kinh nghiệm của tất cả các cuộc cách mạng chứng tỏ rằng, ở thời kỳ chun chính vơ sản, đảng
nào dung thứ phe nhóm, bè phái trong đảng là đã mở đường cho chủ nghĩa cơ hội tấn công, phá
hoại tổ chức đảng. Sự chia rẽ nội bộ đảng, chia rẽ đảng với quần chúng lại càng nguy hiểm hơn,
vì nó tự phá hoại sức mạnh của đảng. Lực lượng phân tán thì đường lối, nhiệm vụ có đúng đến
đâu cũng khơng thể thực hiện được.
Đoàn kết, thống nhất trong đảng là sự đồn kết, thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, trước hết là đoàn kết, thống nhất về chính trị, tư tưởng. Q trình củng cố và phát triển
đồn kết thống nhất trong đảng là q trình đổi mới cương lĩnh, đường lối, nghị quyết, chính
sách của đảng phù hợp với quy luật khách quan, nguyện vọng của đảng viên và thực tiễn phát
triển không ngừng của phong trào công nhân, nhân dân lao động trong nước và quốc tế. Sự

thống nhất không thể thực hiện được bằng mệnh lệnh mà phải trên cơ sở tự do thảo luận và phê
bình. Đồng thời, phải đấu tranh kiên quyết loại trừ những âm mưu chống đối, kích động nhằm
phân hóa, chia rẽ sự đồn kết, thống nhất trong nội bộ đảng. Bởi, "hoạt động bè phái đó nhất
định sẽ làm yếu sự đồng tâm hợp lực trong công tác". Trong bất kỳ tình huống nào, đảng cộng
sản phải ln đạt tới sự nhất trí cao về đường lối chính trị, vì đó là cơ sở để đảm bảo sự đoàn
kết, thống nhất về tư tưởng và hành động.
Để khối đồn kết, thống nhất trong đảng khơng ngừng được củng cố và phát triển, đảng
phải thường xuyên và nghiêm túc tự phê bình và phê bình để khắc phục sai lầm, khuyết điểm,
phát huy ưu điểm và thành tựu.
Thực hiện đồn kết, thống nhất trong đảng phải có ngun tắc; đoàn kết thống nhất phải
dựa trên cơ sở cương lĩnh, điều lệ, đường lối, chính sách của đảng; trên cơ sở lợi ích chung của
giai cấp; trên cơ sở nguyên tắc, chế độ tổ chức và sinh hoạt của đảng.
- Thứ sáu, khi có chính quyền, đảng là hạt nhân lãnh đạo chun chính vơ sản và là
một bộ phận của hệ thống đó
Đảng cộng sản lãnh đạo cách mạng giành được chính quyền về tay giai cấp cơng nhân và
nhân dân lao động mới chỉ là thành công bước đầu. Sau khi giành được chính quyền, nhiệm vụ
khó khăn và phức tạp hơn nhiều là đảng phải lãnh đạo xây dựng thành công chế độ xã hội mới
xã hội chủ nghĩa. Đảng là một bộ phận của hệ thống chun chính vơ sản, nhưng là hạt nhân
lãnh đạo của hệ thống đó. Sự lãnh đạo của đảng là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công.
Trở thành đảng cầm quyền, đảng lãnh đạo nhà nước và định hướng phát triển tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Thứ bảy, Đảng mạnh lên do thường xuyên đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội trong
đảng
Là lãnh tụ của giai cấp công nhân quốc tế, V.I.Lênin không ngừng đấu tranh để bảo vệ và
phát triển những nguyên lý của chủ nghĩa Mác. Người chỉ rõ: đối với chủ nghĩa Mác, nghĩa vụ
thiêng liêng của những người mácxít là phải bảo vệ lý luận đó, chống lại những mưu toan
xuyên tạc và hạ thấp lý luận cách mạng.
Những kẻ cơ hội chính trị khơng có quan điểm chính trị rõ ràng, ln ngả nghiêng, dao
động, không kiên định nguyên tắc cơ bản trong đường lối của đảng. Khi cách mạng thuận lợi

thì họ tỏ ra "cấp tiến", khi cách mạng gặp khó khăn thìhọ thối lui, thỏa hiệp. Những người này
thường che giấu bộ mặt thật, vừa tỏ ra ủng hộ đường lối của đảng, bảo vệ chủ nghĩa Mác, vừa
với danh nghĩa đổi mới tư duy để bổ sung, cụ thể hóa đường lối của Đảng, thêm "chi tiết" này,
6


7
"khía cạnh" kia mà thực chất là xét lại đường lối của Đảng. Họ sẵn sàng quỳ gối, uốn lưỡi cho
vừa lòng và hợp với quan điểm của cấp trên và quần chúng, hòng tăng phiếu ủng hộ trong các
dịp bầu cử. Cơ hội chính trị gắn chặt với chủ nghĩa cá nhân, suy thoái về đạo đức, lối sống.
- Thứ tám, Đảng tuân theo chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân là giai cấp có tính quốc tế, đảng của giai cấp cơng nhân phải tuân
theo chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Chủ nghĩa quốc tế đòi hỏi: đảng phải kết hợp
đúng đắn lợi ích của dân tộc mình với lợi ích của phong trào cách mạng thế giới; giữa chủ nghĩa
yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế cao cả; phải cảnh giác với chủ nghĩa sôvanh, chủ
nghĩa dân tộc hẹp hịi, đối lập lợi ích dân tộc với lợi ích của giai cấp cơng nhân.
Theo V.I. Lênin, khi nắm chính quyền và bắt đầu cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai
cấp vô sản sẽ tập hợp, lôi cuốn vào cuộc cách mạng đó những người vơ sản ở tất cả các nước
tiên tiến, do đó mà giai cấp vô sản sẽ đánh bại chủ nghĩa tư bản. Tư tưởng của V.I. Lênin về
mối quan hệ giữa đảng với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
trên toàn thế giới đã cung cấp cơ sở lý luận cho việc xây dựng các đảng cộng sản theo chủ
nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
Câu 2: Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác
– Lênin về đảng cộng sản trong xây dựng Đảng như thế nào?
TRẢ LỜI:
1. Đảng ta đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết Mác - Lênin về đảng trong
quá trình thành lập Đảng
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam tuân theo quy luật chung và đặc thù của cách
mạng Việt Nam.Để xây dựng một Đảng cách mạng vững chắc, đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt
Nam đi đến thắng lợi cuối cùng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng sáng tạo học thuyết Mác

- Lê nin về đảng cộng sản vào xây dựng Đảng ta trên ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Về chính trị, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng lý luận của V.I. Lê nin về cách mạng
dân chủ tư sản kiểu mới để phác thảo Cương lĩnh chính trị tương lai của Đảng: "Cách mệnh
Việt Nam bây giờ còn là tư sản dân quyền cách mệnh. Trong công cuộc cách mạng này, thổ địa
cách mệnh là một bộ phận rất trọng yếu". Giai cấp lãnh đạo cuộc cách mạng đó khơng có ai
khác ngồi giai cấp cơng nhân: "Cách mạng bây giờ, cũng như về bước sau, vô sản giai cấp
phải đứng về địa vị lĩnh đạo mới được". Sau khi thực hiện cách mạng dân chủ tư sản thắng lợi,
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tiếp tục làm cách mạng
xã hội chủ nghĩa để: "Phá tan cái xã hội bất bình hiện tại mà lập ra xã hội ai cũng phải làm, ai
cũng đủ dùng, ai cũng tự do, bình đẳng, tức là xã hội cộng sản".
Về tư tưởng, Người khẳng định dứt khoát phải xây dựng Đảng trên cơ sở tư tưởng của
chủ nghĩa Lênin: "Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu,
ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà khơng có chủ nghĩa cũng như người khơng có trí
khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa
chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin".
Về mặt tổ chức, Người nhấn mạnh phải: xây dựng một đảng "vững bền", "chắc chắn" cho
cách mạng Việt Nam. Đây là cách diễn đạt đơn giản, dễ hiểu của Người về một nhiệm vụ rất
khó khăn là xây dựng Đảng ta thành một đảng cách mạng, chiến đấu, đủ sức dẫn dắt giai cấp và
dân tộc trên đường tranh đấu đến thắng lợi cuối cùng.
Có thể nói, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã tuân theo quy luật chung về sự ra đời của
đảng cộng sản: Đảng ra đời là kết quả sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào
7


8
công nhân Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, do đặc thù của cách mạng Việt
Nam, sự ra đời của Đảng còn là kết quả sự kết hợp với phong trào yêu nước Việt Nam. Chủ tịch
Hồ Chí Minh là người thực hiện sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước Việt Nam. Người tham gia sáng lập các tổ chức cách mạng tiền thân và
sáng lập Đảng theo những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lê nin về đảng cộng sản.

2. Trong suốt quá trình phát triển, Đảng ta luôn vận dụng và phát triển sáng tạo
những nguyên tắc xây dựng đảng của chủ nghĩa Mác - Lênin
Trải qua gần chín mươi năm ra đời, phát triển, Đảng ta luôn vận dụng và phát triển sáng
tạo những nguyên tắc cơ bản của học thuyết Mác - Lênin về xây dựng đảng cộng sản. Tổng kết
công tác xây dựng Đảng qua các thời kỳ cách mạng khác nhau, tuy cách diễn đạt về các nguyên
tắc xây dựng Đảng có khác nhau một vài điểm, nhưng nhìn chung Đảng ta vẫn luôn khẳng định
những nguyên tắc sau:
Thứ nhất, Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiền phong của
nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
Thứ hai, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động.
Thứ ba, tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của Đảng.
Thứ tư, Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, đồn kết trên cơ sở
Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình để phát triển.
Thứ năm, Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân.
Thứ sáu, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy.
Thứ bảy, Đảng tích cực kết nạp những quần chúng ưu tú của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động vào Đảng, kịp thời đưa những người không đủ tư cách ra khỏi Đảng.
Thứ tám, Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng
của giai cấp công nhân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại.
3. Đảng ta đã phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta phát triển nguyên tắc về nền tảng tư tưởng:
"Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động. Đây là một bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng ta. Đến Đại hội
IX, Đảng ta đã xác định khái niệm, nguồn gốc, nội dung, vị trí, vai trị của tư tưởng Hồ Chí
Minh. Việc khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý
luận của Đảng ta. Đến Đại hội XI, Đảng ta khẳng định: "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống
quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của
sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế

thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường
cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi".
Đảng ta luôn nhấn mạnh yêu cầu phải vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý
luận của Đảng ta.
4. Đảng ta giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong giai
đoạn cách mạng hiện nay
8


9
- Thứ nhất, nhận thức về bản chất giai cấp công nhân của Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động Việt Nam chống phong kiến, đế quốc, thực dân, giải phóng và thống nhất Tổ
quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Cũng như các đảng cộng sản chân chính khác, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn mang bản chất giai cấp công nhân Việt Nam. Bản chất giai cấp công
nhân của Đảng là cách mạng và khoa học. Bản chất đó thể hiện ở mục tiêu, lý tưởng của Đảng là
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam; nền tảng tư tưởng của
Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng là tập
trung dân chủ; Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân; lấy tự phê bình và phê bình làm quy luật phát
triển và nguyên tắc tổ chức của Đảng...
- Thứ hai, Đảng ta đã phát triển nhận thức về bản chất giai cấp công nhân của Đảng
Cộng sản Việt Nam gắn liền với tính nhân dân, tính dân tộc
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta khẳng định: "Đảng Cộng sản Việt Nam là
đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và
của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp cơng nhân, của nhân dân lao
động và của dân tộc. Đây là lần đầu tiên Đảng ta xác định: Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ
là đội tiền phong của giai cấp công nhân, mà còn là đội tiền phong của nhân dân lao động và
của cả dân tộc Việt Nam.
- Thứ ba, phương hướng, nhiệm vụ giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công

nhân của Đảng trong giai đoạn cách mạng hiện nay
Tại Đại hội VIII (năm 1996), Đảng ta khẳng định giữ vững và tăng cường bản chất giai
cấp cơng nhân của Đảng là nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với Đảng ta, đồng thời
chỉ rõ sáu biện pháp nhằm giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng: kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định và vận dụng sáng tạo, góp phần
phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; giữ vững nguyên tắc tập trung dân
chủ; thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn đồn kết, thống nhất trong Đảng; thường
xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập trường, quan điểm, ý thức tổ chức của giai cấp cơng nhân; củng
cố mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân; trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp
công nhân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại.
Kế thừa và phát triển những tư tưởng của Đại hội VIII về giữ vững và tăng cường bản
chất giai cấp công nhân của Đảng, đến Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định:"Giữ vững bản
chất giai cấp cơng nhân của Đảng, vai trị tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên" và chỉ
rõphương hướng, nhiệm vụ tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng giai đoạn hiện
nay là: "Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát
triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
kiên định đường lối đổi mới. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, tính chiến đấu của
tồn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp;
không dao động trong bất cứ tình huống nào.... Kiên định những vấn đề có tính ngun tắc
trong cơng tác xây dựng Đảng. Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng và bảo đảm sự lãnh
đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu quả; giữ vững bản lĩnh chính trị của Đảng, của các tổ chức
đảng, của cán bộ, đảng viên. Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với
quy luật khách quan và đặc điểm của Việt Nam. Hoàn thiện cơ chế, quy chế và tổ chức thực
hiện nghiêm túc, có hiệu quả việc tự phê bình, phê bình chất vấn trong các kỳ hợp của Ban
Chấp hành Trung ương, cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy các cấp”.
5. Phát triển các nguyên tắc tổ chức hoạt động của Đảng:
9


10

Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, kiên
định các nguyên tắc tổ chức hoạt động: lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản,
thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh,
đồng thời thực hiện các nguyên tắc: tự phê bình và phê bình, đồn kết trên cơ sở Cương lĩnh
chính trị và Điều lệ Đảng.
Mặt khác, Đảng Cộng sản Việt Nam có sự bổ sung những nguyên tắc hoạt động của mình.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta bổ sung thêm nguyên tắc: Đảng gắn bó mật
thiết với nhân dân và nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
6. Đảng phát triển nhận thức về chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân trong
điều kiện mới
Hiện nay, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, quan điểm nhất
quán của Đảng là phát huy tinh thần quốc tế trong sáng, giúp đỡ các đảng cộng sản và phong
trào công nhân quốc tế trong điều kiện có thể; thực hiện đường lối đối ngoại mềm dẻo: Việt
Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế trên tinh
thần giữ vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đôi bên cùng có lợi, khơng can thiệp vào
cơng việc nội bộ của nhau. Chủ nghĩa quốc tế vô sản là bản chất của Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Câu 3: Giải pháp giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng
giai đoạn hiện nay
Bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam là vấn đề cơ bản, bao trùm và
xuyên suốt chi phối toàn bộ hoạt động của Đảng, từ hoạt động xây dựng bản thân Đảng về
chính trị, tư tưởng, tổ chức, phương thức lãnh đạo và phong cách công tác, đến hoạt động lãnh
đạo cách mạng.
Để giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên
cần quán triệt và thực hiện tốt các nội dung cơ bản sau:
- Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. trong bất kỳ tình huống nào
cũng khơng dao động, xa rời mục tiêu đó.
Đây là vấn đề có tính ngun tắc, xuất phát từ bản chất giai cấp công nhân của Đảng; là lý
tưởng của giai cấp công nhân; là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, nhân dân ta,
dân tộc ta đã lựa chọn ngay từ khi Đảng mới ra đời. Thực tế lãnh đạo cách mạng của Đảng cho

thấy, bản chất giai cấp công nhân của Đảng luôn đứng trước những thách thức không nhỏ. Đặc
biệt, trong điều kiện hiện nay, trước những tác động của tình hình trong nước và quốc tế, sự
chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch và sự tác động mạnh mẽ từ mặt trái của kinh tế thị
trường, bản chất giai cấp công nhân của Đảng đứng trước những thách thức mới hết sức gay
gắt. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp thối hố,
biến chất về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, giảm sút lòng tin, phai nhạt lý tưởng, có biểu
hiện bất mãn, mất lịng tin, nói và làm trái với quan điểm, đường lối của Đảng. Bệnh cơ hội, cá
nhân chủ nghĩa trong cán bộ, đảng viên có chiều hướng gia tăng. Vì vậy, vấn đề đặt ra hết sức
cấp thiết là toàn Đảng cũng như mỗi cán bộ, đảng viên phải ra sức khắc phục những yếu kém,
lệch lạc cả trong tư tưởng, nhận thức và hành động, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ của
mình.
- Kiên định và vận dụng sáng tạo, góp hần phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, xuất phát đầy đủ từ thực tiễn cụ thể của nước ta để đề ra đường lối, chủ
trương và các chính sách đúng đắn.
10


11
Đây là vấn đề chủ yếu thể hiện bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Bởi lẽ, chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của
Đảng. Điều đó, địi hỏi Đảng ta, nhất là các cấp uỷ đảng và đội ngũ đảng viên giữ vai trò chủ
chốt phải ra sức học tập nâng cao trình độ lý luận; trong lãnh đạo, quản lý, phải tiếp tục đổi mới
tư duy; nắm vững bản chất cách mạng và khoa học, phương pháp luận, tính hệ thống của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đoạn tuyệt với chủ nghĩa giáo điều, kinh viện; khắc
phục tình trạng “tầm chương, trích cú”, khơng hiểu được bản chất của vấn đề. Trên cơ sở đó,
phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, vận dụng sáng tạo lý luận vào từng điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể của các cấp, các ngành, địa phương theo yêu cầu nhiệm vụ cách mạng.
Không ngừng tổng kết kinh nghiệm thực tiễn sinh động trong đời sống xã hội, phong trào công
nhân nước ta và trên thế giới; kế thừa và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc; tiếp
thu có chọn lọc những trí tuệ, tinh hoa của nhân loại, để bổ sung, xây dựng, phát triển nền tảng

tư tưởng, lý luận vững chắc, đề ra đường lối, chính sách phù hợp với lợi ích của giai cấp cơng
nhân, nhân dân lao động và dân tộc ta. Đẩy mạnh đấu tranh chống mọi luận điệu xuyên tạc, phủ
nhận, hạ thấp chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những tư tưởng, hành động lạc
hậu, sai trái, bảo thủ, giáo điều khi vận dụng lý luận vào thực tiễn.
- Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách, thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Đây là vấn đề cốt tử , quyết định sự tồn tại, phát triển của các Đảng Cộng sản. Bởi lẽ, đó
là những nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt cơ bản của Đảng Cộng sản; là tiêu chí để xác định bản
chất giai cấp cơng nhân của Đảng, phân biệt chính đảng kiểu mới của giai cấp cơng nhân, đảng
cách mạng chân chính với các đảng phái chính trị khác. Thực tiễn lịch sử hoạt động của các
Đảng Cộng sản trên thế giới cho thấy, nếu xa rời, từ bỏ các nguyên tắc này, thì lúc đó Đảng sẽ
trở thành một thứ câu lạc bộ, mở đường cho chủ nghĩa cơ hội, bè phái, vơ chính phủ hoạt động,
làm cho sức mạnh của Đảng bị phá hoại tận gốc, Đảng bị tan rã về mặt tổ chức, đánh mất vai
trị lãnh đạo của mình. Để thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, đẩy mạnh tự phê bình và
phê bình, mỗi cán bộ, đảng viên cần phải thường xuyên nâng cao nhận thức về vị trí, vai trị và
các nội dung cơ bản của các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng. Phải thấy rõ tập trung
và dân chủ là thống nhất biện chứng với nhau, thực hiện tốt tự phê bình và phê bình là để giúp
nhau cùng tiến bộ; thực hiện tốt các nguyên tắc này sẽ đảm bảo cho Đảng ta ngăn chặn có hiệu
quả những tác động xấu của mặt trái kinh tế thị trường vào nội bộ Đảng; Đảng ta sẽ loại bỏ
được những phần tử cơ hội, tham nhũng, thoái hoá, biến chất; làm cho Đảng ta ln trong sạch,
vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
- Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập trường, quan điểm, ý thức tổ chức của giai
cấp công nhân; xây dựng đội ngũ cán bộ và Đảng viên theo quan điểm của giai cấp công
nhân.
Trong điều kiện mới, mơi trường xã hội có nhiều yếu tố phức tạp, các thế lực thù địch
không ngừng giăng ra đủ loại mưu mô, cạm bẫy; việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng
và lối sống lành mạnh cho cán bộ, đảng viên có ý nghĩa quan trọng. Thực tế cho thấy, hiện nay
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp yếu kém cả về
phẩm chất và năng lực, thối hố, biến chất về chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống; quan
liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân diễn ra nghiêm trọng, kéo dài, chưa được ngăn

chặn... Đây là một nguy cơ lớn, nếu không kiên quyết khắc phục thì rất dễ làm thối hố, biến
chất Đảng, làm xói mịn nghiêm trọng lịng tin của nhân dân. Vì vậy, các cấp uỷ và tổ chức
đảng các cấp phải tăng cường và làm tốt hơn nữa công tác giáo dục, bồi dưỡng, kiểm tra, quản
lý chặt chẽ mọi hoạt động của cán bộ, đảng viên. Kịp thời biểu dương những cán bộ, đảng viên
gương mẫu, kiên quyết xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên suy thối về chính trị, tư
11


12
tưởng và phẩm chất, đạo đức, lối sống. Mọi cán bộ, đảng viên dù ở cương vị công tác nào cũng
phải không ngừng tự rèn luyện để nâng cao đạo đức cách mạng, lối sống, tác phong công tác
khoa học, thực sự tiên phong, gương mẫu, “nói đi đơi với làm”, thực sự “đảng viên đi trước,
làng nước theo sau”; kiên quyết đấu tranh với chủ nghĩa cá nhân, thói cửa quyền, quan liêu,
sách nhiễu nhân dân. Phải thấm nhuần sâu sắc và thực hiện tốt việc “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
- Củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân. Chăm lo đời sống, thực sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Trong tồn bộ hoạt động của mình, Đảng ta khơng có lợi ích nào khác, ngồi lợi ích của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc. Sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ nhân
dân. Liên hệ mật thiết với nhân dân là vấn đề sống còn của Đảng. Gắn bó mật thiết với nhân
dân, tơn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân là truyền
thống, bản chất của Đảng. Sự tin tưởng, ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân là cội nguồn của sức
mạnh, là cái gốc của thắng lợi, là tài sản quý báu của Đảng. Chỉ khi nào làm tốt vấn đề này thì
Đảng ta mới tập hợp, tổ chức được nhân dân, phát huy sức mạnh tổng hợp tiến hành thắng lợi
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng phải tăng cường lãnh
đạo hệ thống chính trị; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tơn trọng và phát huy vai trị
của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng.
Đối với mỗi cán bộ, đảng viên cần thực hiện tốt Quy định 76 của Đảng về việc giữ liên hệ
với nơi cư trú, ln đồn kết, gắn bó, tận tình phục vụ nhân dân; thực hiện tốt nghĩa vụ nơi cư
trú; luôn gương mẫu, vận động gia đình, người thân và nhân dân thực hiện tốt các chủ trương,

đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng
của giai cấp công nhân. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo nên sức
mạnh tổng hợp của cách mạng.
Mỗi cán bộ, đảng viên cần kiên trì ủng hộ các Đảng Cộng sản chân chính và phong trào
cộng sản và cơng nhân quốc tế, góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh vì hồ bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ của nhân dân trên thế giới.
Tóm lại, đê giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, mỗi cán bộ
đảng viên cần phải thực hiện tốt 6 nội dung trên. Từ đó, sẽ góp phần làm cho Đảng ngày càng
trong sạch, vững mạnh.
Câu 4: Đặc điểm, nguy cơ của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền hiện nay?
1. Đặc điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền
- Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền sau quá trình Đảng lãnh
đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp.
Từ ngày thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã là lực lượng lãnh đạo cách mạng đấu
tranh giành lại độc lập cho Tổ quốc và lật đổ chế độ thực dân phong kiến giành chính quyền về
tay nhân dân lao động. Trong suốt quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ đó, các tầng lớn nhân
dân lao động ln thừa nhận đường lối cách mạng do Đảng đề ra là đúng đắn và các cán bộ,
đảng viên luôn đi đầu trong đấu tranh cách mạng, chiến đấu hy sinh vì độc lập dân tộc và quyền
lợi của các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động, gắn bó mật thiết với nhân dân. Vì thế, khi
giành được chính quyền, Đảng đương nhiên là Đảng cầm quyền, đảng viên được nhân dân bầu
vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và đảm nhiệm các cương vị chủ chốt trong bộ máy
cơ quan nhà nước.
12


13
- Hai là, nhiệm vụ chính trị của Đảng đã thay đổi căn bản.
Từ chưa có chính quyền đến có chính quyền là một bước ngoặt căn bản của cách mạng,
là một bước phát triển mới về chất trong sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Khi chưa giành

được chính quyền, nhiệm vụ chủ yếu của Đảng là lãnh đạo nhân dân đấu tranh lật đổ chế độ cũ, đập
tan bộ máy nhà nước của giai cấp bóc lột; khi giành được chính quyền, nhiệm vụ đầu tiên của Đảng
là thiết lập nhà nước cách mạng của nhân dân và xây dựng xã hội mới, bao hàm cả nhiệm vụ bảo vệ
những thành quả cách mạng đã đạt được. Nếu trước đây nhiệm vụ hàng đầu của Đảng là nhiệm vụ
lãnh đạo qn sự, thì khi có chính quyền, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng là xây dựng, phát triển kinh
tế - xã hội.
Sự nghiệp xây dựng một xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa, trên lý luận cũng như
trong thực tiễn rõ ràng là khó khăn gian khổ. Cách mạng xã hội chủ nghĩa Việt Nam diễn ra ở
một nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế bị chiến tranh tàn phá nặng nề, lại đi từ sản
xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa càng khó khăn, phức
tạp, địi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn
và phải có nội dung, phương thức lãnh đạo phù hợp.
- Ba là,có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là cơng cụ chủ yếu, sắc bén, thơng qua đó Đảng
thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với xã hội. Nhà nước xã hội chủ nghĩa - từ trong bản chất
của mình - là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân dân và vì nhân dân. Trong hệ thống chính trị
của chủ nghĩa xã hội, Nhà nước giữ vị trí trung tâm và có vai trị cực kỳ quan trọng.
Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện tập trung ở sự lãnh đạo đối với Nhà nước; đường lối, chủ
trương của Đảng được thực hiện chủ yếu thông qua Nhà nước. Nhà nước cũng là tổ chức thể
hiện tập trung nhất quyền làm chủ của nhân dân, là tổ chức sắc bén thể hiện và thực hiện ý chí
và lợi ích của nhân dân, thực hiện quyền lực của nhân dân, nhân danh nhân dân để quản lý xã
hội.
Có chính quyền, trừ những vấn đề thuộc về nội bộ Đảng, tất cả đường lối, chủ trương,
chính sách lớn của Đảng đều được thể chế hóa, cụ thể hóa thành chủ trương, chính sách và
pháp luật của Nhà nước. Quyền lãnh đạo và uy tín của Đảng trước hết được thực hiện thông qua
hoạt động của Nhà nước. Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực là điều kiện
đầu tiên để Đảng thực hiện có hiệu quả vai trị lãnh đạo của mình đối với xã hội. Sức mạnh của
Đảng cầm quyền không phải chỉ là sức mạnh của bản thân Đảng, mà là sức mạnh tổng hợp của
cả hệ thống chính trị, trong đó nịng cốt là Nhà nước do Đảng lãnh đạo.

Có chính quyền, cán bộ, đảng viên được bố trí vào các cương vị, chức vụ trong bộ máy
nhà nước. Đó là việc làm cần thiết để thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng. Nhưng, khi có chức,
có quyền, một bộ phận cán bộ, đảng viên dễ lợi dụng, lạm dụng chức quyền để làm điều sai trái
như quan liêu, mệnh lệnh, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, hối lộ, ức hiếp nhân dân, thối
hóa biến chất, vi phạm nghiêm trọng quyền làm chủ của nhân dân, làm cho nhân dân oán ghét,
uy tín của Đảng bị giảm sút. Hiện tượng này khơng gắn với bản chất của Đảng, của Nhà nước,
nhưng nếu khơng có biện pháp phịng ngừa và khắc phục có hiệu quả, nếu kỷ luật của Đảng,
pháp luật của Nhà nước thiếu nghiêm minh sẽ gây hậu quả khó lường. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII của Đảng đã chỉ rõ: "Tình trạng tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng
với biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, gây bức xúc trong dư luận, ảnh hưởng đến niềm tin
của nhân dân với Đảng và Nhà nước. Tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận cịn
diễn biến phức tạp hơn; một số ít cán bộ, đảng viên bị phần tử xấu lợi dụng lôi kéo, kích động,
13


14
xúi dục, mua chuộc đã có tư tưởng, việc làm chống đối Đảng, Nhà nước”; “nguyên nhân của
những hạn chế, khuyết điểm là do xây dựng Đảng cầm quyền trong điều kiện phát triển kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
và hội nhập quốc tế là vấn đề mới và khó, phải vừa làm, vừa tìm tịi, tổng kết rút kinh nghiệm
để đổi mới, hoàn thiện. Chậm đổi mới tư duy về công tác xây dựng Đảng trong điều kiện mới".
-Bốn là, phương thức lãnh đạo của Đảng thay đổi căn bản.
Có chính quyền, nhiệm vụ trung tâm của Đảng đối với toàn xã hội là lãnh đạo phát triển
kinh tế - xã hội và các lĩnh vực khác của đất nước. V V.I. Lênin đã cảnh báo những người cộng
sản rằng: ai muốn dùng phương pháp cũ trong cuộc đấu tranh giành chính quyền để giải quyết
những nhiệm vụ tổ chức của một Đảng cầm quyền thì người đó sẽ phá sản hồn tồn với tính
cách là nhà chính trị, là người xã hội chủ nghĩa.
Có chính quyền, nhiệm vụ xây dựng đất nước địi hỏi Đảng phải có những cách thức,
phương pháp, hình thức lãnh đạo mới phù hợp. Đảng cầm quyền cần đặc biệt chú trọng đến

phương pháp lãnh đạo thông qua Nhà nước, phát huy vai trò, hiệu quả hoạt động của Nhà nước
trong việc thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối, chính sách của Đảng thành chính sách và pháp
luật, bằng các hình thức, biện pháp quản lý của Nhà nước. Đồng thời, Đảng phải thường xuyên
coi trọng và phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc
phát huy quyền làm chủ của nhân dân theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra”. Đảng là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị, nhưng Đảng là thành viên của hệ thống đó.
Đảng hoạt động trong khn khổ Hiến pháp, pháp luật; mọi biểu hiện thiếu tôn trọng hoặc làm
trái Hiến pháp, pháp luật đều dẫn đến nguy cơ làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng.
-Năm là, Đảng ta là Đảng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đây là đặc điểm nổi bật chi phối mọi hoạt động của Đảng. Trước hết, nhân dân ta chỉ
chấp nhận Đảng Cộng sản Việt Nam - ngay từ khi mới ra đời cho đến nay - là lực lượng lãnh
đạo duy nhất của mình. Nhân dân ln tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, khơng chấp nhận
đa ngun chính trị, đa đảng. Tuy nhiên, là Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng có nhiều thuận lợi,
nhưng cũng khơng ít khó khăn, thử thách cần được khắc phục nhất là biểu hiện quan liêu, xa
dân, bao biện, làm thay, lấn sân chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội, đảng viên lợi dụng chức quyền tham nhũng, lãng phí…
-Sáu là, Đảng lãnh đạo đất nước phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa trong điều kiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đang trong quá trình xây dựng và
hồn thiện.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng - trên cả
phương diện lý luận và thực tiễn - là vấn đề mới mẻ, khó khăn và phức tạp. Điều đó địi hỏi
Đảng ta phải tìm tịi, thử nghiệm để hình thành và lãnh đạo Nhà nước, xã hội vận hành đúng
đắn thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phải có những quyết sách đúng đắn,
phù hợp với điều kiện lịch sử - cụ thể trong từng thời kỳ phù hợp với tình hình thức tiến đất
nước, kinh tế quốc tế và khu vực Trong khi đó, đội ngũ cán bộ có trình độ, năng lực, trình độ
quản lý, nhất là các chuyên gia trên nhiều lĩnh vực, còn thiếu.
Phát triển kinh thị trường nếu khơng có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự quản lý chặt
chẽ của Nhà nước thì sẽ bị chệch hướng, đất nước có thể giàu nhưng khơng mạnh, sự phân hóa
giàu nghèo sẽ càng lớn, sẽ khơng có cơng bằng, dân chủ, văn minh. u cầu đặt ra là phát triển
kinh tế thị trường, nhưng không được làm mất đi tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, khơng dẫn

tới sự phân hóa chính trị, kinh tế, xã hội và mất đi những đặc trưng quý giá của văn hóa và con
người Việt Nam.
14


15
Đảng lãnh đạo đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện Nhà nước ta đang trong
quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, cần đề phịng
kẻ xấu lợi dụng sơ hở của pháp luật để mưu cầu lợi ích cá nhân, làm giàu bất chính; coi thường
pháp luật, đặt mình lên trên pháp luật, nhất là đội ngũ cán bộ nắm chức, nắm quyền, nắm tiền.
2. Nguy cơ của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền
Từ rất sớm, các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đãrất quan
tâm và cảnh báo nguy cơ xuất hiện và phát triển các căn bệnh ở các đảng cộng sản cầm quyền.
Khi trở thành đảng duy nhất cầm quyền, đảng rất dễ rơi vào quan liêu, duy ý chí, xa rời quần
chúng dẫn đến sai lầm về đường lối, lấn sân, bao biện, làm thay Nhà nước, thậm chí dẫn đến
"Đảng trị", hoặc bng lỏng sự lãnh đạo của Đảng làm suy yếu bản thân Đảng, vai trò của Nhà
nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa.
Hội nghị tồn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm 1994) đã chỉ ra bốn nguy cơ,
thách thức của đất nước:
Thứ nhất, chệch hướng xã hội chủ nghĩa;
Thứ hai, tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và thế giới; Thứ ba, tình
trạng lợi dụng chức quyền tham ơ, tham nhũng, quan liêu, lãng phí của cán bộ, đảng viên;
Thứ tư, "diễn biến hịa bình" của các thế lực thù địch nhằm chống phá Đảng, Nhà nước ta,
xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đây là những nguy cơ của đất nước nhưng cũng là nguy cơ của Đảng Cộng sản Việt Nam
cầm quyền hiện nay.
Đại hội XII của Đảng khẳng định bốn nguy cơ, thách thức nêu trên vẫn tồn tại, có mặt
diễn biến phức tạp, nghiêm trọng hơn, như tình trạng tham nhũng, lãng phí, nguy cơ "diễn biến
hịa bình" của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới nhất là triệt để sử dụng các phương
tiện truyền thông trên mạng internet để chống phá ta; những biểu hiện "tự diễn biến", " tự

chuyển hóa" trong nội bộ; vấn đề "lợi ích nhóm"; niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân
vào sự lãnh đạo của Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút. Chính vì thế, Đại hội XII địi hỏi Đảng ta
phải "tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi suy thối về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ; tập trung thực hiện
mục tiêu "xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức"
trên nguyên tắc giữ vững và nâng cao vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng đối với cách mạng
Việt Nam.
Câu 5: Cơ sở lý luận và thực tiễn của nhiệm vụ tập trung xây dựng Đảng và trình
bày các giải pháp xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng hiện nay?
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
Một là, xuất phát từ vai trò, sứ mệnh của Đảng trước nhân dân, dân tộc
Cách mạng và đổi mới trước hết phải có Đảng lãnh đạo. Đảng và sự lãnh đạo của Đảng là
vấn đề cốt tử của cách mạng.
Lịch sử nước ta trong gần chín thập niên qua đã chứng minh rằng, cách mạng muốn thắng
lợi trước hết phải có Đảng lãnh đạo, khơng có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, cách mạng
không thể giành được thắng lợi như ngày hơm nay. Q trình lịch sử đó cũng khẳng định rằng,
khơng một lực lượng chính trị nào có thể thay thế được vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Bởi vì, Đảng ra đời, thực hiện sứ mệnh lãnh đạo cách mạng là do đòi hỏi khách
15


16
quan của lịch sử dân tộc, là nguyện vọng, mong muốn tha thiết của nhân dân Việt Nam, chứ
không phải do ý chí chủ quan của Đảng. Vai trị, sứ mệnh lãnh đạo của Đảng đối với cách
mạng Việt Nam từ trước đến nay và từ nay về sau có cơ sở lịch sử, chính trị - tư tưởng và
pháp lý rõ ràng, vững chắc.
Do vậy, vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng là đương nhiên và hợp pháp.
Đương nhiên, để thực hiện vai trò, sứ mệnh cao cả đó, Đảng phải thực sự trong sạch, vững
mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao thì mới đáp ứng được. Sự lãnh đạo của

Đảng và xây dựng Đảng vững mạnh là hai mặt của một vấn đề, là nhân tố quyết định vai trò
lãnh đạo của Đảng, sự thành bại của sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta.
Hai là, xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp đổi mới
Đổi mới và phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là
một tất yếu, là mệnh lệnh của cuộc sống, là yêu cầu của nhân dân ta, dân tộc ta. Sự nghiệp đó
được đặt ra cho cả một thời kỳ lịch sử để phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Đó là một sự thay đổi có tính chất bước ngoặt trong nhận thức và phương pháp cách mạng của
Đảng trước tình hình mới, nhất là trên lĩnh vực kinh tế - xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, tình
hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra
nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới to lớn, phức tạp hơn đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển đất
nước và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã xác định mục tiêu tổng
quát của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn tới là: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính
trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh tồn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh tồn
diện, đồng bộ cơng cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước
ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa. Giữ gìn hịa bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước;
nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”.
Trong điều kiện mới, với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng cao hơn, nhiều vấn đề mới mẻ,
phức tạp hơn, địi hỏi Đảng phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, có hàm lượng trí tuệ cao
trong lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, phát huy tốt vai trò làm chủ của nhân dân, bảo đảm
kỷ cương, phép nước, phát huy cao độ giá trị truyền thống văn hóa dân tộc,... để thực hiện
thắng lợi sự nghiệp đổi mới, vì “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”.
Muốn vậy, Đảng phải thường xuyên chăm lo xây dựng, chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng thì mới đáp ứng được.
- Ba là, xuất phát từ tình hình thế giới hiện nay

Trên thế giới, từ đầu những năm 80 thế kỷ XX đã diễn ra những biến đổi to lớn, sâu sắc.
Các nước tư bản chủ nghĩa, do thích ứng và sử dụng được những thành quả của cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ hiện đại, nhờ cải tiến phương pháp quản lý, thay đổi cơ cấu sản xuất, điều
chỉnh các chính sách xã hội nên đã vượt qua được những khó khăn, kinh tế có bước tăng
trưởng đáng kể. Trong khi đó, nhiều nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng. Để thốt khỏi tình trạng khủng hoảng, cải tổ, cải cách và đổi mới đã trở
thành xu thế khách quan ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa.

16


17
Từ cuối những năm 80 đến đầu những năm 90 thế kỷ XX, chế độ xã hội chủ nghĩa theo
mô hình Xơviết ở Liên Xơ và các nước Đơng Âu sụp đổ; chủ nghĩa xã hội và phong trào cộng
sản, cơng nhân quốc tế lâm vào thối trào. Cục diện thế giới hai phe, hai siêu cường Mỹ - Liên
Xô thay đổi to lớn và sâu sắc; chiến tranh lạnh kết thúc; Mỹ trở thành siêu cường số 1 muốn
thiết lập trật tự thế giới đơn cực để chi phối thế giới. Tồn cầu hóa, nhất là tồn cầu hóa kinh tế
và cuộc cách mạng khoa học - công nghệ diễn ra mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội
thông tin và kinh tế tri thức, tác động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều nước. Các mâu thuẫn
cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát
triển. Chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, song những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó,
nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa - được biểu hiện thành mâu thuẫn giữa tư bản và lao động chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính
trị, xã hội tiếp tục diễn ra. Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc tiếp tục diễn biến phức
tạp.
Hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn; nhưng chiến
tranh cục bộ, xung đột và chạy đua vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật
đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo, tài nguyên và cạnh tranh kinh tế diễn ra rất gay
gắt. Các vấn đề toàn cầu, an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống, như: An ninh tài
chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh mạng, biến đổi khí hậu, nước biển dâng,
thiên tai, dịch bệnh… diễn biến ngày càng phức tạp. Các nước lớn vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa

cạnh tranh gay gắt, chi phối và làm phức tạp hơn các quan hệ quốc tế. Khu vực châu Á - Thái
Bình Dương phát triển năng động, trở thành động lực kinh tế của thế giới nhưng tiềm ẩn nhiều
nhân tố bất ổn; tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo ngày càng gay gắt, xuất hiện các hình thức tập
hợp lực lượng mới cùng với trạng thái đan xen lợi ích rất phức tạp.
Bối cảnh đó đặt ra yêu cầu Đảng phải tập trung chú trọng vào nhiệm vụ xây dựng Đảng.
- Bốn là, xuất phát từ yêu cầu đấu tranh chống sự phá hoại Đảng của các thế lực thù
địch
Tình hình chính trị - an ninh thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến rất phức tạp, khó
lường; tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên, xung đột
sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh cục bộ, chiến tranh mạng,... tiếp tục
diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực.
Sau khi Liên Xô (cũ) và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù
địch, đứng đầu là Mỹ đang thực hiện âm mưu “diễn biến hịa bình” hịng xóa bỏ nốt các nước
xã hội chủ nghĩa còn lại và vai trò lãnh đạo của các Đảng Cộng sản, trong đó có Đảng ta. Sự
chống phá của các thế lực thù địch (cả bên trong và bên ngoài) đối với Đảng ta và cách mạng
nước ta được chúng thực hiện trên tất cả các lĩnh vực: tư tưởng, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội; chống phá từ trong các tổ chức của Đảng, Nhà nước, trong nội bộ nhân dân.
Trước tình hình chính trị phức tạp trên thế giới và âm mưu chống phá của kẻ thù, đòi
hỏi Đảng phải kiên định mục tiêu, lý tưởng, có đường lối chính trị đúng đắn, hợp lịng dân,
gắn bó với nhân dân, ln nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, kiên quyết đấu tranh
chống các luận điệu xuyên tạc, chống phá Đảng và cách mạng nước ta. Đó cũng là địi hỏi
tất yếu phải chăm lo xây dựng, chỉnh đốn Đảng cả về tư tưởng, chính trị, tổ chức và đạo đức
để thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng, đáp ứng được lòng tin cậy của nhân dân.
- Năm là, xuất phát từ tình hình cơng tác xây dựng Đảng

17


18
Thời gian qua, Đảng ta luôn xác định nhiệm vụ xây dựng Đảng là then chốt; đa số cán

bộ, đảng viên có quan điểm, lập trường tư tưởng vững vàng, giữ vững phẩm chất đạo đức, vai
trò tiên phong, gương mẫu trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ; thu hút sự tham gia của hệ
thống chính trị và nhân dân vào việc chỉnh đốn, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đạt
được một số kết quả tích cực.
Tuy nhiên, cơng tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng thời gian qua còn nhiều hạn chế, khuyết
điểm. Công tác dự báo, hoạch định, lãnh đạo tổ chức thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước
còn nhiều hạn chế. Chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận chưa cao, đấu tranh chống
âm mưu, hoạt động “diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch, phòng, chống “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” cịn bị động, hiệu quả chưa cao. Việc đổi mới cơng tác cán bộ chưa có đột phá
lớn. Cơng tác bảo vệ chính trị nội bộ một số mặt còn hạn chế, trong khi những biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” có xu hướng diễn biến phức tạp trong Đảng, trong hệ thống chính
trị và trong xã hội. Chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và xử lý tổ chức đảng và
đảng viên vi phạm chưa cao, chưa đủ sức góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí,
tiêu cực trong nội bộ Đảng. Cơng tác dân vận cịn nhiều mặt chưa đáp ứng yêu cầu. Việc đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính
trị - xã hội cịn chậm, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước có những nội dung cịn
lúng túng. Việc thực hiện tự phê bình và phê bình trong các cơ quan, tổ chức đảng, đảng viên
theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng
hiện nay” chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra. Tình trạng suy thối tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống; tình trạng chạy chức, chạy tội, tham nhũng, lợi ích nhóm,... cịn diễn ra nghiêm trọng
nhưng chưa được ngăn chặn và xử lý kịp thời.
Những hạn chế, khuyết điểm trên đây làm cho Đảng ta chưa thật sự trong sạch, vững
mạnh, làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ.
Vì vậy, việc tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng
của nhân dân ta.
2.Giải pháp
Để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng, cần thực hiện tốt các giải pháp sau:
- Một là, tăng cường xây dựng Đảng về chính trị

+ Kiên định chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát
triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
+ Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng
viên, trước hết của cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; khơng dao động trong bất cứ tình huống
nào. Kiên định đường lối đổi mới, chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, đổi
mới vơ ngun tắc.
- Hai là, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận
+ Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số vấn đề về đảng
cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và những vấn đề
mới nảy sinh trong quá trình đổi mới, không ngừng phát triển lý luận, đề ra đường lối và chủ
trương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; khắc phục một số mặt lạc hậu, yếu kém của công
tác nghiên cứu lý luận. Tạo môi trường dân chủ thảo luận, tranh luận khoa học, khuyến khích
tìm tịi, sáng tạo, phát huy trí tuệ của cá nhân và tập thể trong nghiên cứu lý luận.
18


19
+ Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết
phục, hiệu quả của công tác tư tưởng, tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tuyên truyền,
cổ vũ động viên các nhân tố mới, điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt, giáo dục truyền
thống yêu nước, cách mạng.
+ Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hồ bình” của
các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta; khắc phục sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Giữ gìn sự đồn kết, thống nhất trong
Đảng, sự đồng thuận xã hội. Đổi mới hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn theo hướng thiết thực,
hiệu quả.
- Ba là, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân
+ Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ quan trọng,

thường xuyên, lâu dài của cán bộ, đảng viên, của các chi bộ, tổ chức đảng và các tầng lớp nhân
dân.
+ Cán bộ, đảng viên phải nâng cao tinh thần trách nhiệm trước Tổ quốc, trước Đảng và
nhân dân, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
+ Các tổ chức đảng tạo điều kiện để đảng viên cơng tác, lao động có năng suất, chất
lượng, hiệu quả, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước. Đẩy mạnh tự phê bình và phê
bình trong sinh hoạt đảng.
+ Triển khai thực hiện tốt Quy chế dân vận trong hệ thống chính trị; đổi mới và nâng cao
chất lượng công tác vận động nhân dân. Định kỳ lấy ý kiến nhận xét của nhân dân về tư cách,
đạo đức của cán bộ, đảng viên. Xử lý nghiêm mọi cán bộ, đảng viên vi phạm về trách nhiệm,
phẩm chất đạo đức, lối sống.
- Bốn là, tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị
+ Tiếp tục xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và mơ hình tổ chức của các tổ chức trong hệ
thống chính trị. Sớm tổng kết việc thực hiện sáp nhập một số ban, bộ, ngành trung ương để có
chủ trương phù hợp. Kiện tồn, nâng cao chất lượng các cơ quan tham mưu, đội ngũ cán bộ làm
công tác tham mưu, nhất là ở cấp chiến lược. Tổng kết, đánh giá đúng thực trạng, đề ra các giải
pháp củng cố và đổi mới mơ hình tổ chức, phương thức hoạt động của các tổ chức đảng, nhất là
của đảng đoàn, ban cán sự đảng.
+ Phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng, từ sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp uỷ ở cơ sở
đến sinh hoạt Ban Bí thư, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương; đồng thời giữ nghiêm kỷ
luật trong Đảng. Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Chống quan liêu, bè phái, cục
bộ, địa phương, lối làm việc vô nguyên tắc, vi phạm kỷ luật, vi phạm dân chủ.
- Năm là, kiện toàn tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên
+ Tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng,
tạo chuyển biến rõ rệt về chất lượng hoạt động của các loại hình cơ sở đảng, nhất là tổ chức
đảng trong các đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Kiện tồn tổ
chức của hệ thống chính trị, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ở cơ sở.
+ Đổi mới, tăng cường công tác quản lý, phát triển đảng viên, bảo đảm chất lượng đảng
viên theo yêu cầu của Điều lệ Đảng. Xây dựng các tiêu chí, yêu cầu cụ thể về tư tưởng chính trị,
trình độ năng lực, phẩm chất đạo đức lối sống của đảng viên đáp ứng yêu cầu giai đoạn cách

mạng mới; phát huy tính tiền phong gương mẫu, chủ động, sáng tạo của đội ngũ đảng viên
19


20
trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư
cách đảng viên.
- Sáu là, đổi mới công tác cán bộ, coi trọng cơng tác bảo vệ chính trị nội bộ
+ Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ. Thực hiện tốt Chiến lược cán bộ
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đổi mới tư duy, cách làm, khắc phục những
yếu kém trong từng khâu của công tác cán bộ. Xây dựng và thực hiện nghiêm các cơ chế, chính
sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; trọng dụng những người có đức, có tài.
+ Nâng cao chất lượng cơng tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; khắc phục tình trạng chạy
theo bằng cấp. Làm tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ, chú ý cán bộ trẻ, nữ, dân tộc
thiểu số, chuyên gia trên các lĩnh vực; xây dựng quy hoạch cán bộ cấp chiến lược. Đánh giá và
sử dụng đúng cán bộ trên cơ sở những tiêu chuẩn, quy trình đã được bổ sung, hồn thiện, lấy
hiệu quả cơng tác thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu. Không bổ nhiệm
cán bộ không đủ đức, đủ tài, cơ hội chủ nghĩa.
+ Thực hiện nghiêm quy chế thôi chức, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ lãnh đạo,
quản lý. Kịp thời thay thế cán bộ yếu kém về phẩm chất, năng lực, không hồn thành nhiệm vụ,
uy tín giảm sút.
+ Có chế tài xử lý nghiêm những trường hợp chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy tội,
chạy tuổi, chạy bằng cấp, chạy huân chương. Thực hiện luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý
theo quy hoạch ở các ngành, các cấp; khắc phục tư tưởng cục bộ, khép kín. Tăng cường cơng
tác giáo dục, quản lý cán bộ.
+ Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp, đội ngũ chuyên gia
đầu ngành. Đổi mới, trẻ hoá đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý, kết hợp các độ tuổi, bảo đảm
tính liên tục, kế thừa và phát triển.
+ Nghiên cứu ban hành và thực hiện tốt chính sách sử dụng và quản lý cán bộ, đảng viên
có vấn đề về lịch sử chính trị. Chú trọng nắm và giải quyết vấn đề chính trị hiện nay. Giải quyết

dứt điểm những vụ việc tồn đọng.
- Bảy là, đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát
+ Các cấp uỷ, tổ chức đảng phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, thực hiện tốt hơn nhiệm
vụ kiểm tra, giám sát theo Điều lệ Đảng.
+ Chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu tổ chức đảng, nhà nước, mặt trận và các
đoàn thể nhân dân các cấp trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.
+ Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng phải phối hợp chặt chẽ với công tác thanh tra của
Chính phủ, cơng tác giám sát của Quốc hội và các cơ quan hành pháp, tư pháp, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân theo đúng chức năng và thẩm quyền của mỗi cơ quan.
+ Hoàn thiện quy chế phối hợp giữa ủy ban kiểm tra đảng với các tổ chức đảng và các cơ
quan bảo vệ pháp luật trong việc xem xét khiếu nại, tố cáo và xử lý kỷ luật cán bộ, đảng viên.
- Tám là, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
+ Tập trung rà soát, bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây đựng đồng bộ hệ thống các
quy chế, quy định, quy trình cơng tác để tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với hoạt động của hệ thống chính trị. Khắc phục tình trạng Đảng bao biện làm thay hoặc buông
lỏng lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà nước.

20


21
+ Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân, tôn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam.
+ Đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương
đến địa phương, cơ sở. Thực hiện tốt chế độ lãnh đạo tập thể đi đôi với phát huy tinh thần chủ
động, sáng tạo và trách nhiệm cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu. Phát huy vai
trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng, đảng viên, cấp uỷ viên hoạt động trong các cơ quan nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
+ Đổi mới cách ra nghị quyết, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, sơ

kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết của Đảng. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong
Đảng, khắc phục tình trạng rườm rà, bất hợp lý về thủ tục, giảm bớt giấy tờ, hội họp, sâu sát
thực tế, cơ sở; nói đi đơi với làm./.
Câu 6: Cơ sở lý luận, thực tiễn và giải pháp của nhiệm vụ đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng hiện nay?
TRẢ LỜI:
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là một trong những nội dung rất quan trọng
trong công tác xây dựng Đảng hiện nay, nhằm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước và xã hội, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư
tưởng, đạo đức và tổ chức.
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
- Một là, xuất phát từ vai trị, vị trí của phương thức cầm quyền của Đảng
Phương thức lãnh đạo của Đảng là tổng thể các hình thức, phương pháp, quy chế, quy
trình, phong cách, lề lối làm việc mà Đảng sử dụng để tác động vào đối tượng lãnh đạo, nhằm
thực hiện thắng lợi Cương lĩnh chính trị, đường lối, chính sách, nghị quyết, chỉ thị của Đảng,
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Phương thức lãnh đạo của Đảng là một bộ phận quan trọng của cơng tác xây dựng Đảng,
có vai trị rất lớn đối với xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, củng cố,
nâng cao uy tín chính trị và vai trị lãnh đạo của Đảng. Nhờ phương thức lãnh đạo đúng đắn
hoạt động của Đảng được thể hiện hiệu quả trong thực tiễn, được nhân dân thừa nhận. Qua đó,
uy tín chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng được nâng lên.
Phương thức lãnh đạo của Đảng có vai trị đặc biệt quan trọng đối với việc thực hiện
thắng lợi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thực tế cho
thấy, khi đã có chủ trương, đường lối, chính sách đúng, có tổ chức, bộ máy và cán bộ có chất
lượng, nhưng Đảng khơng tạo lập được phương thức lãnh đạo đúng đắn, phù hợp, thì hiệu quả
lãnh đạo thấp, thậm chí nhiều khi chủ trương, đường lối, chính sách đúng cịn bị vơ hiệu hóa.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng yêu cầu toàn Đảng phải nâng cao hiệu
quả thực hiện và tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống
chính trị, đặc biệt là với Nhà nước.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới là toàn bộ hoạt động của

Đảng và những tổ chức có liên quan nhằm thay đổi từng phần hoặc tồn bộ một nội dung nào
đó của phương thức lãnh đạo hiện có theo hướng tích cực, tiến bộ, bảo đảm cho sự lãnh đạo của
Đảng đem lại kết quả cao hơn, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng.
21


22
- Hai là, xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước
Đổi mới và phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là
một tất yếu, là mệnh lệnh của cuộc sống, là yêu cầu của nhân dân ta, dân tộc ta. Sự nghiệp đó
được đặt ra cho cả một thời kỳ lịch sử để phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Đó là một sự thay đổi có tính chất bước ngoặt trong nhận thức và phương pháp cách mạng của
Đảng trước tình hình mới, nhất là trên lĩnh vực kinh tế - xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, tình
hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra
nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới to lớn, phức tạp hơn đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển đất
nước và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã xác định mục tiêu tổng
quát của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn tới là: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính
trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh tồn
diện, đồng bộ cơng cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước
ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa. Giữ gìn hịa bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước;
nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”.
Trong điều kiện mới, với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng cao hơn, nhiều vấn đề mới mẻ,
phức tạp hơn, địi hỏi Đảng phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, có hàm lượng trí tuệ cao
trong lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, phát huy tốt vai trò làm chủ của nhân dân, bảo đảm
kỷ cương, phép nước, phát huy cao độ giá trị truyền thống văn hóa dân tộc,... để thực hiện

thắng lợi sự nghiệp đổi mới, vì “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Muốn vậy, Đảng phải thường xuyên chăm lo xây dựng, chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng thì mới đáp ứng được.
- Ba là, xuất phát từ tình hình quốc tế
Trên thế giới, từ đầu những năm 80 thế kỷ XX đã diễn ra những biến đổi to lớn, sâu sắc.
Các nước tư bản chủ nghĩa, do thích ứng và sử dụng được những thành quả của cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ hiện đại, nhờ cải tiến phương pháp quản lý, thay đổi cơ cấu sản xuất, điều
chỉnh các chính sách xã hội nên đã vượt qua được những khó khăn, kinh tế có bước tăng
trưởng đáng kể. Trong khi đó, nhiều nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng. Để thốt khỏi tình trạng khủng hoảng, cải tổ, cải cách và đổi mới đã trở
thành xu thế khách quan ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa.
Từ cuối những năm 80 đến đầu những năm 90 thế kỷ XX, chế độ xã hội chủ nghĩa theo
mơ hình Xơviết ở Liên Xơ và các nước Đông Âu sụp đổ; chủ nghĩa xã hội và phong trào cộng
sản, công nhân quốc tế lâm vào thoái trào. Cục diện thế giới hai phe, hai siêu cường Mỹ - Liên
Xô thay đổi to lớn và sâu sắc; chiến tranh lạnh kết thúc; Mỹ trở thành siêu cường số 1 muốn
thiết lập trật tự thế giới đơn cực để chi phối thế giới. Tồn cầu hóa, nhất là tồn cầu hóa kinh tế
và cuộc cách mạng khoa học - công nghệ diễn ra mạnh mẽ, thúc đẩy q trình hình thành xã hội
thơng tin và kinh tế tri thức, tác động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều nước. Các mâu thuẫn
cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát
triển. Chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, song những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó,
nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa - được biểu hiện thành mâu thuẫn giữa tư bản và lao động chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính
22


23
trị, xã hội tiếp tục diễn ra. Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc tiếp tục diễn biến phức
tạp.
Hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn; nhưng chiến
tranh cục bộ, xung đột và chạy đua vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật
đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo, tài nguyên và cạnh tranh kinh tế diễn ra rất gay

gắt. Các vấn đề toàn cầu, an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống, như: An ninh tài
chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh mạng, biến đổi khí hậu, nước biển dâng,
thiên tai, dịch bệnh… diễn biến ngày càng phức tạp. Các nước lớn vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa
cạnh tranh gay gắt, chi phối và làm phức tạp hơn các quan hệ quốc tế. Khu vực châu Á - Thái
Bình Dương phát triển năng động, trở thành động lực kinh tế của thế giới nhưng tiềm ẩn nhiều
nhân tố bất ổn; tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo ngày càng gay gắt, xuất hiện các hình thức tập
hợp lực lượng mới cùng với trạng thái đan xen lợi ích rất phức tạp.
Bối cảnh đó đặt ra yêu cầu Đảng phải có giải pháp đổi mới phương thức cầm quyền.
- Bốn là, xuất phát từ sự chống phá của các thế lực thù địch
Tình hình chính trị - an ninh thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến rất phức tạp, khó
lường; tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên, xung đột
sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh cục bộ, chiến tranh mạng,... tiếp tục
diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực.
Sau khi Liên Xô (cũ) và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù
địch, đứng đầu là Mỹ đang thực hiện âm mưu “diễn biến hịa bình” hịng xóa bỏ nốt các nước
xã hội chủ nghĩa cịn lại và vai trò lãnh đạo của các Đảng Cộng sản, trong đó có Đảng ta. Sự
chống phá của các thế lực thù địch (cả bên trong và bên ngoài) đối với Đảng ta và cách mạng
nước ta được chúng thực hiện trên tất cả các lĩnh vực: tư tưởng, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội; chống phá từ trong các tổ chức của Đảng, Nhà nước, trong nội bộ nhân dân.
Trước tình hình chính trị phức tạp trên thế giới và âm mưu chống phá của kẻ thù, địi
hỏi Đảng phải kiên định mục tiêu, lý tưởng, có đường lối chính trị đúng đắn, hợp lịng dân,
gắn bó với nhân dân, luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, kiên quyết đấu tranh
chống các luận điệu xuyên tạc, chống phá Đảng và cách mạng nước ta. Điều đó địi hỏi
Đảng phải tích cực đổi mới phương thức cầm quyền.
- Năm là, xuất phát từ thực trạng phương thức cầm quyền của Đảng hiện nay.
Cùng với tiến trình đổi mới toàn diện của đất nước và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng,
trong hơn 30 năm qua, phương thức lãnh đạo của Đảng đã có những đổi mới quan trọng, đồng
thời vẫn bộc lộ một số hạn chế, khuyết điểm.
+ Những kết quả: Thứ nhất, đã ban hành nhiều quy chế, quy định, quy trình cơng tác để
thực hiện, bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai trị, tính chủ

động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị, nhất là vai trị của Nhà
nước và Mặt trận Tổ quốc; Thứ hai, việc đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan
lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở có bước tiến bộ; Thứ ba, thực hiện chế độ tập thể
lãnh đạo đi đơi với phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của cá nhân, nhất là trách
nhiệm của người đứng đầu; Thứ tư, coi trọng việc phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức
đảng, đảng viên, cấp ủy viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các
tổ chức chính trị - xã hội; nói đi đơi với làm; Thứ năm, có những đổi mới trong việc ra nghị
quyết, coi trọng việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết
việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng; Thứ sáu là, tiếp tục cải cách thủ tục hành chính
trong Đảng theo hướng giảm bớt thủ tục, giấy tờ, hội họp.
23


24
+ Những hạn chế, khuyết điểm: Một là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cịn chậm, nhất là việc cụ thể hóa
phương thức lãnh đạo của Đảng đã được xác định trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm
2011); phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước có những nội dung còn lúng túng :
Hai là, chưa xác định rõ nội dung và phương thức cầm quyền; Ba là, chưa thật sự phát huy vai
trò của các tổ chức đảng, đảng viên, cấp ủy viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa gương mẫu trước
nhân dân; Bốn là, chưa khắc phục được tình trạng ban hành nhiều nghị quyết; có một số nội dung
thiếu tính khả thi, chưa tính kỹ nguồn lực và điều kiện thực hiện; Năm là, chưa thật tập trung lãnh
đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết;
một số nghị quyết chậm đi vào cuộc sống; Sáu là, cịn có biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa
thực sự sâu sát thực tế, cơ sở; Bảy là, tình trạng nói khơng đi đơi với làm, nói nhiều làm ít
chậm được khắc phục.
2. Các giải pháp nhằm đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng hiện nay là:
- Một là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống
chính trị, đặc biệt là đối với Nhà nước. Theo đó, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong

đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đảng lãnh
đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền đồng bộ cả trong lập pháp, hành pháp, tư pháp và được
tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn
với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội. Tiếp tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ
chức của Nhà nước theo quy định của Hiến pháp năm 2013, đảm bảo cho Nhà nước được tổ
chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật,
thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, đảm
bảo Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất. Lãnh đạo Quốc hội thực hiện tốt chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề quan
trọng của đất nước và giám sát tối cao, nhất là đối với việc quản lý, sử dụng các nguồn nhân lực
của đất nước. Gắn kết chặt chẽ giữa hoạt động giám sát của Quốc hội với công tác kiểm tra,
giám sát của Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và giám sát của nhân dân.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong đổi mới, hoàn thiện cơ cấu tổ chức của Chính
phủ, xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, với vai trị là cơ quan
hành chính Nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, cơ quan chấp hành của Quốc hội.
Lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh chương trình cải cách hành chính nhà nước theo hướng xây dựng
nền hành chính dân chủ, hiện đại, chuyên nghiệp, năng động, phục vụ nhân dân, hoạt động có
hiệu lực, hiệu quả.
Tiếp tục lãnh đạo đẩy mạnh thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp trong
sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại; bảo vệ pháp luật, công lý, quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Đổi mới, kiện tồn, tổ chức tịa án theo thẩm
quyền xét xử; bảo đảm nguyên tắc độc lập, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, bảo đảm quyền
bào chữa của bị can, bị cáo, đương sự. Thực hiện đầy đủ quyền công tố trong hoạt động điều tra
của Viện Kiểm sát nhân dân. Tiếp tục kiện toàn tổ chức, xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của cơ quan điều tra.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
nhà nước. Đảng tập trung lãnh đạo bằng đường lối, chủ trương xây dựng tiêu chí, tiêu chuẩn, cơ
chế, chính sách về cán bộ, cơng chức. Đẩy mạnh dân chủ hóa công tác cán bộ, quy định rõ thẩm

24


25
quyền, trách nhiệm của mỗi tổ chức, mỗi cấp trong xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức. Thực
hiện thí điểm dân trực tiếp bầu một số chức danh ở cơ sở và cấp huyện; mở rộng đối tượng thi
tuyển chức danh cán bộ quản lý. Tiếp tục hoàn thiện tiêu chí đánh giá và cơ chế kiểm tra, giám
sát, kiểm sốt việc thực thi cơng cụ; xác định rõ thêm trách nhiệm, quyền hạn của người đứng
đầu cơ quan hành chính. Tiếp tục rà sốt, sửa đổi, bổ sung chính sách đối với cán bộ, cơng chức
theo hướng khuyến khích cán bộ, cơng chức nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ, đạo đức
cơng vụ, hồn thành tốt nhiệm vụ. Đẩy mạnh đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí,
quan liêu, hách dịch, cửa quyền, gắn với thực hành tiết kiệm trong cơ quan nhà nước và trong
đội ngũ cán bộ, công chức.
Tiếp tục đổi mới bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Hồn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm
sốt quyền lực, thực hiện thí điểm hợp nhất một số cơ quan Đảng và Nhà nước tương đồng về
chức năng, nhiệm vụ. Đẩy mạnh thực hiện chủ trương quản lý biên chế thống nhất trong tồn
bộ hệ thống chính trị. Khẩn trương tinh giản tổ chức, bộ máy, gắn với tiếp tục phân định rõ
chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Thực
hiện đồng bộ mơ hình bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch hội đồng nhân dân các cấp. Tiếp tục
nghiên cứu, điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân các cấp
phù hợp với tình hình thực tiễn và yêu cầu nhiệm vụ mới.
- Hai là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc đổi mới, hoàn thiện luật
pháp, các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính
trị - xã hội. Xác định rõ hơn và thực hiện đúng tiêu chí, mục đích, chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức,
bộ máy của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; đào tạo, bồi dưỡng, giới thiệu
đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất, năng lực để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính
trị - xã hội bầu giữ các vị trí lãnh đạo chủ chốt của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội. Thường xuyên đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức

chính trị - xã hội.
Tăng cường lãnh đạo, định hướng của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về nội dung hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Đa dạng hóa hình thức tổ chức và hoạt
động; phát huy tính năng động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
trong tuyên truyền, vận động nhân dân; đại diện, chăm lo lợi ích, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân; xây dựng, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết tồn dân tộc trong thực hiện đường
lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tham gia xây dựng, bảo vệ Đảng và hệ thống
chính trị. Tăng cường lãnh đạo xây dựng và thực hiện quy chế giám sát, phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đối với các cơ quan đảng, nhà nước, cán bộ,
đảng viên, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Khắc phục tình trạng quan
liêu hóa, hành chính hóa hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Tiếp tục hồn thiện, xác định rõ và thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quy chế làm
việc của Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc và đảng đồn các tổ chức chính trị - xã hội. Thực hiện tốt
quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư với Đảng đồn Mặt trận Tổ quốc và
đảng đồn các tổ chức chính trị - xã hội; quan hệ giữa Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc với đảng
đoàn các tổ chức thành viên. Phân biệt rõ hơn nguyên tắc hiệp thương chính trị trong hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc với nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động của đảng đoàn và sinh
hoạt đảng của đảng viên ở Mặt trận Tổ quốc. Tăng cường sự lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí
thư, Đảng đoàn Mặt trận đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam bằng tuyên truyền, vận động,
thuyết phục, giải thích rõ quan điểm, đường lối của Đảng để tạo sự thống nhất cao trong Mặt
25


×