Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (535.88 KB, 16 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>2.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề. Để giúp đỡ học sinh yếu vươn lên trong học tập, trước hết tôi xác định và phân loại đối tượng học sinh theo từng nhóm như trên để có biện pháp bồi dưỡng thích hợp và tiến hành một số biện pháp giúp đỡ học sinh yếu như sau: 2.3.1 Gây hứng thú học tập cho các em Trong những học sinh học yếu môn Toán có nhiều học sinh không hứng thú học môn Toán. Vậy để kích thích học sinh có húng thú học môn Toán tôi xác định điều đầu tiên quan trọng là phương pháp dạy của giáo viên. Dạy phát huy tính tích cực của học sinh, dạy sát đối tượng bằng cách trong các giờ học Toán tôi có các câu hỏi, bài tập phù hợp với từng đối tượng học sinh để cả học sinh yếu cũng được làm việc, được tham gia vào cá hoạt động học tập để tránh tình trạng học sinh yếu không được hoạt động dễ gây ra nhàm chán, thụ động. - Sử dụng phương pháp trực quan trong giảng dạy kết hợp hài hoà với các phương pháp dạy học khác. - Để tạo hứng thú cho các em học tập, tôi tạo ra không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, không để học sinh sợ giáo viên và tạo ra nhiều trò chơi Toán học như: giải đố toán; thi giải toán đúng, nhanh; lựa chọn các phép tính đúng giải toán tiếp sức; chữ số bí ẩn; . . . tạo không khí vui vẻ, cởi mở mà vẫn học tập tốt. Ví dụ: Dạy về nhân số thập phân tôi có các bài tập nhận diện như sau: Thi ai nhanh ai đúng: Đúng viết Đ sai viết S vào ô trống 1, 36 1, 3 6 x 2,5 x 2,5 680 680 272. 272. 3400 3, 4 0 0 Trò chơi này tôi dành gọi học sinh trung bình và học sinh yếu, qua trò chơi này đã cũng có khắc sâu cho học sinh kỹ năng viết thêm dấu phẩy vào tích khi đã thực hiện xong bước nhân như nhân 2 số tự nhiên, vì điều quan trọng nhất của nhân số thập phân là kỹ năng viết thêm dấu phẩy vào tích và đây cũng là bước học sinh hay quên nhất. - Giúp học sinh tự tin rằng mình có thể học giỏi Toán như các bạn bằng cách thường xuyên gọi học sinh báo cáo trước lớp kết quả làm việc của bản thân hay của nhóm mình. - Trong mỗi giờ học, hướng dẫn và kèm cặp các em thật tỉ mỉ, kĩ những kiến thức kĩ năng cơ bản. Yêu cầu các em làm từng bài tập cho thật hoàn chỉnh rồi mới chuyển sang bài sau, không ôm đồm đòi các em theo kịp các bạn trong lớp. - Xác nhận và động viên sự tiến bộ của học sinh dù là nhỏ nhất. - Chú ý đôn đốc, nhắc nhở, dùng tập thể để động viên cổ vũ, giúp đỡ để các em tự nhận biết và cố gắng học tập. - Không lạm dụng trách phạt, sử dụng phương pháp kỉ luật tích cực đối với những học sinh này. Nêu những tấm gương sáng về người nghèo nhưng hiếu học và đã trở thành những người nổi tiếng để các em noi theo. - Thường xuyên gần gũi, tìm hiểu, quan tâm lắng nghe mong muốn của học sinh, tạo điều kiện cho học sinh nói lên những suy nghĩ của mình để giáo viên nắm bắt được tâm sự, nguyện vọng, sở thích thái độ học tập của học sinh từ đó sẽ có tác động đúng hướng kích thích các en học tập. - Động viên kịp thời học sinh làm đúng, trả lời gần đúng bằng các câu nói khích lệ, khuyến khích: Có cố gắng, gần đúng rồi, . . . Dùng phương pháp nêu gương mỗi khi các em làm đúng bài tập, phép tính. - Trực tiếp gặp gỡ gia đình để tìm hiểu hoàn cảnh của gia đình. Cùng gia đình các em trao đổi, tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện cho các em học tập. Trao đổi, kết hợp với phụ huynh học sinh chọn phương pháp thích hợp nhất để thúc đẩy các em ham thích học tập và quản lí việc học ở nhà, từng bước đưa các em vào nền nếp học tập..
<span class='text_page_counter'>(2)</span> - Trao phần thưởng cho từng học sinh có tiến bộ sau mỗi đợt thi đua (đạt từ học lực Yếu lên Trung bình). - Khen ngợi, động viên kịp thời các em. Không chê và phân tích tỉ mỉ những chỗ sai, chỗ yếu của từng em để các em biết cách khắc phục và tự tin hơn trong học tập - Thường xuyên kiểm tra việc làm bài tập của các em: ở lớp, ở nhà. Gọi học sinh yếu lên bảng chữa bài, phát biểu và nhận xét bài nhiều lần. - Trong khi báo cáo kết quả của hoạt động nhóm thường xuyên gọi các bạn học yếu đại diện nhóm phát biểu ý kiến trước lớp để tạo cho các bạn tự tin trước tập thể, mạnh dạn trong học tập ; học sinh yếu kém có điều kiện thể hiện mình trước lớp bằng những câu trả lời ngắn, những bài tập dễ chỉ áp dụng công thức, quy tắc để học sinh yếu được cuốn hút vào các hoạt động học tập. 2.3.2. Bù lấp chỗ hổng kiến thức ; hướng dẫn một số thủ thuật tính toán, phương pháp học Toán – Kiến thức toán học được cấu trúc theo hướng đồng tâm xoáy trôn ốc. Như vậy chỉ cần một chỗ hổng hay một vùng kiến thức nào của học sinh bị thiếu đồng nghĩa với việc học sinh khó có thể tiếp thu được cái kiến thức tiếp theo và đó là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến học sinh học yếu môn Toán. Như vậy trong quá trình giảng dạy môn Toán ngay từ đầu năm tôi tôi thường phát hiện những chỗ hổng mà học sinh mắc phải và kịp thời bù lấp những chỗ hổng đó. 2.3.2.1. Với chỗ hổng về bảng cửu chương - Cho học sinh ôn lại các bảng: Bảng nhân, bảng chia, cách cộng, trừ, . . . - Kiểm tra bảng cửu chương hàng ngày - có thể mỗi ngày thuộc một bảng (đọc - viết ra giấy). Ví dụ: Thứ hai thuộc bảng nhân 4. Thứ ba thuộc bảng chia 4. - Kiểm tra thường xuyên các bảng chủ yếu là bẳng nhân và chia của học sinh yếu trong từng tiết học. - Thực hành rèn luyện các kĩ năng nhân, chia thường xuyên. 2.3.2.2. Với chỗ hổng về các dạng toán cơ bản (Học sinh quên cách giải các dạng toán cơ bản ). - Liệt kê lại các dạng toán của các lớp dưới ( Ví dụ đối với học sinh lớp 5 tôi liệt kê lại các dạng toán cơ bản của lớp 4). Dạng toán trung bình cộng. Dạng toán Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó. Dạng toán Tìm hai số khi biết hiệu và tỉ của hai số đó. Dạng toán Tìm hai số khi biết tổng và tỉ của hai số đó. Dạng toán về hình học; Hình chữ nhật, hình vuông, hình bình hành, hình thoi. Hoặc một số dạng toán cơ bản của lớp 5 (Toán về tỷ số phần trăm, toán tỷ lệ..) - Nhắc lại cho học sinh cách giải từng dạng toán, phân biệt sự khác nhau giữa các dạng toán và yêu cầu học sinh học thuộc. Ví dụ ở lớp 5 học sinh thường nhầm lẫn 2 dạng toán về tỉ số phần trăm: dạng tìm một số khi biết số phần trăm của nó và dạng toán tìm số phần trăm của một số. Tôi cho học sinh giải đồng thời 2 bài toán sau: Bài 1: Tìm 25 % của 120. Bài 2: Tìm một số khi biết 50 % của nó là 120. Học sinh đưa ra cách giải: Bài 1: 25% số đó là: 120: 100 x 25 = 30 Bài 2: Số phải tìm là: 120: 50 x 100 = 240 Tôi cho học sinh phân tích để học sinh tự thấy sự khác nhau của 2 dạng toán ngay trong khi thực hiện bước chia cho 100 (bài 1) là để tìm 1% của 120 rồi mới nhân với 25 để tìm 25% của 120; và chia cho 50 (dạng 2) cũng để tìm 1% của 120 rồi nhân với 100 để tìm số phải tìm (vì số phải tìm là 100%). Phân tích kỹ như vậy học sinh mới hiểu được bản chất của 2 dạng Toán và không bị nhầm lẫn dạng 2 và dạng 3 của Toán tỷ số phần trăm. - Cho học sinh giải đi giải lại nhiều bài tập có liên quan đến các dạng toán đó. - Thường xuyên kiểm tra bài làm của học sinh về các dạng Toán cơ bản trong đó có so sánh đối chiếu các dạng toán; chấm chữa tỉ mỉ, chỉ ra chỗ sai của học sinh đồng thời giải thích em đã sai do đâu, yêu cầu học sinh đó làm lại nếu cần..
<span class='text_page_counter'>(3)</span> - Với những bài toán lời văn cần cho học sinh hiểu đề bài, phân tích tỉ mỉ đưa ra hệ thống câu hỏi gợi mở để giúp học sinh biết cách giải. 2.3.2.3. Hướng dẫn học sinh kỹ năng và một số thủ thuật tính (thủ thuật nhân, chia các số có nhiều chữ số) + Kĩ năng cộng, trừ các số có nhiều chữ số: - Đặt tính đúng (các hàng phải thẳng cột với nhau). - Thực hành tính từ phải sang trái, lần lượt từ trên xuống dưới. - Thử lại để kiểm tra kết quả. + Kĩ năng nhân: - Đặt tính. - Thực hiện nhân: Viết các tích riêng thật đúng, thật thẳng hàng với nhau. Mỗi tích riêng sau lùi sang trái một hàng so với tích riêng trước. + Kĩ năng chia: Yêu cầu: - Học sinh phải nắm thật chắc cách cộng, trừ, nhân các số có nhiều chữ số. - Học sinh có khả năng cộng, trừ, nhân nhẩm và biết ước lượng thương. - Đặc biệt, các em còn hạn chế nhiều về kĩ năng tính toán nhất là phép chia vì kĩ năng chia là tổng hợp kĩ năng tính toán (trong phép chia có cả cộng, trừ, nhân, chia). Để rèn luyện thành thạo các kĩ năng cho học sinh, tôi luôn hướng dẫn và yêu cầu học sinh nắm vững: Mối quan hệ giữa các phép tính (giữa phép cộng và phép trừ, giữa phép nhân và phép chia, ....). Để cho học sinh dễ tính toán và làm bài nhanh, cần cung cấp cho học sinh thủ thuật che bớt hoặc làm tròn để các em ước lượng được nhanh hơn. Ví dụ 1: Tính: 573 : 81 Ta có thể hướng dẫn học sinh như sau: +Che chữ số hàng đơn vị. ( HS che 3 và 1 + Nêu phép chia còn lại ? ( 57 : 8 ) + Ước lượng thương. (được 7) Thử vào phép chia: 573 81 06 7 Vậy: 537 : 81 = 7 ( dư 6 ). Ví dụ 2: Tính 628 : 49 Ta có thể hướng dẫn học sinh như sau: - Làm tròn số bị chia và số chia (628 làm tròn thành 630; 49 làm tròn thành 50 ). - Nêu phép chia với các số vừa làm tròn ( 630 : 50 ) - Che chữ số 0 rồi ước lượng thương (che chữ số 0 còn 63 : 5, vậy thương là 12). - Thử vào phép chia.. 628 49 138 12 40 Vậy 628 : 49 = 12 ( dư 40 ). Với các phép tính với các số thập phân, cách tính tương tự các số tự nhiên, khi các em đã thực hiện tốt các phép tính với số tự nhiên, giáo viên chỉ cần lưu ý các em cách xử lí dấu phẩy cho phù hợp. Các phép tính cộng, trừ với số thập phân: Lưu ý các em đặt các chữ số cùng hàng thẳng cột với nhau, dấu phẩy ở tổng (hiệu) thẳng cột với dấu phẩy của các số hạng (số bị trừ, số trừ). Phép nhân: Dấu phẩy được đánh bằng cách đếm các chữ số ở phần thập phân của hai thừa số rồi dùng dấu phẩy tách ở tích ra bấy nhiêu chữ số kể từ phải sang trái. - Phép chia: Lưu ý học sinh xác định phần thập phân của số chia có bao nhiêu chữ số, dịch chuyển dấu phẩy ở số bị chia sang phải bấy nhiêu chữ số rồi bỏ dấu phẩy ở số chia. - Thường xuyên kiểm tra các quy tắc tính trong từng bài, từng tiết học. - Cho học sinh làm các bài tập giống các bài mẫu để học sinh nắm thật chắc các kĩ năng tính toán. Sau đó cho học sinh vận dụng giải các bài có độ khó cao hơn đòi hỏi sự so sánh, đối chiếu, . . . để học sinh nắm kĩ hơn về các dạng toán. 2.3.2.4. Hướng dẫn học sinh phương pháp học môn Toán - Cần luyện tập nhiều lần. - Học lý thuyết xong mới thực hành..
<span class='text_page_counter'>(4)</span> - Với những bài toán lời văn cần làm tuần tự theo các bước : Tìm hiểu đề bài, gạch chân các từ quan trọng, phân tích đầu bài, tìm hướng giải, trình bày lời giải, thử lại. 2.3.3 Thực hành luyện tập nhiều lần một đơn vị kiến thức. - Học sinh yếu kém thường chậm nhớ nhanh quên. Vì vậy nếu một kiến thức mà học sinh chưa thành thạo thì học sinh rất dễ quên do đó tôi thường tăng các bài tập cùng loại. Cho học sinh thực hành nhiều lần một kiến thức dựa trên các bài mẫu (có thể thay số) nhằm tạo thành đường mòn thì học sinh sẽ nhớ lâu, tăng các bài tập vào các giờ tự học, buổi hai,.. Ví dụ: Khi học toán tỷ lệ với học sinh yếu tôi cho giải bài toán “10 người làm xong một công việc hết 7 ngày. Nay muốn làm xong công việc đó trong 5 ngày thì cần bao nhiêu người? (mức làm của mỗi người như nhau)” Bài thứ 2 tôi chỉ cần cho học sinh tự thay số khác ra một đề toán mới và gải như: “10 người làm xong một công việc hết 14 ngày. Nay muốn làm xong công việc đó trong 7 ngày thì cần bao nhiêu người? (mức làm của mỗi người như nhau)” - Cho các em làm các bài toán gắn với thực tế cuộc sống, các bài toán vui để các em dễ liên tưởng và hình dung. Sau đó cho học sinh thực hành làm các bài tập dạng khác nhau đòi hỏi có sự tư duy cao hơn như: so sánh, đối chiếu, phân tích nhưng phải đảm bảo tính vừa sức. Ví dụ: Khi học toán tỷ lệ tôi cho học sinh đề bài “Lớp 5B trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc có 36 học sinh quét xong sân trường hết 40 phút. Nếu bổ sung thêm 4 bạn học sinh nữa thì lớp 5B quét xong sân trường hết bao nhiêu thời gian.(Mức làm của mỗi bạn là như nhau)” - Trên lớp, giảng thật chậm, kĩ và hướng dẫn tỉ mỉ khi gặp những dạng toán mới, khó, kiên trì không nóng vội. Giáo viên tận tình giúp đỡ, kiên trì, không nóng vội. 2.3.4 Tận dụng ngay học sinh khá, giỏi, nhóm trưởng để kèm cặp học sinh yếu, tăng cường hoạt động của hội đồng tự quản. Trong một tiết học với thời lượng từ 35 đến 40 phút một giáo viên ngoài việc tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh cả lớp còn phải chú ý đến tất cả các đối tượng học sinh trong lớp đặc biệt là học sinh khá giỏi và học sinh yếu kém, tuy nhiên thời gian có hạn nên lớp có từ 5-6 học sinh yếu thì giáo viên không có đủ thời gian để hướng dẫn tỷ mỷ đến tất cả các em học sinh yếu do đó đôi khi một số học sinh yếu bị bỏ rơi. Trong năm học 2013-2014 trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc áp dụng tổ chức lớp học và áp dụng linh hoạt phương pháp dạy học theo mô hình trường Tiểu học mới Việt Nam tôi đặc biệt chú ý việc kiểm soát của nhóm trưởng và sự hướng dẫn của nhóm trưởng với học sinh yếu. - Giao cho hội đồng tự quản, trưởng ban học tập, nhóm trưởng thường xuyên kèm cặp hướng dẫn, kiểm tra việc học của các học sinh này. - Nhóm trưởng thường xuyên kiểm tra việc chuẩn bị của các bạn học sinh yếu qua giờ truy bài, hoặc trong mỗi giờ học, chỉ ra chỗ sai hoặc giảng lại chỗ bạn chưa hiểu, yêu cầu bạn tự làm bài hoặc làm lại bài khi sai. Nhóm trưởng, trưởng ban học tập có thể trao đổi lại với giáo viên chủ nhiệm về bạn mình được phân công kèm cặp khi cần. - Trong hoạt động nhóm tôi tư vấn cho nhóm trưởng thường xuyên gọi các bạn học yếu này đại diện cho nhóm báo cáo ý kiến thảo luận của nhóm mình. Phân cho nhóm trưởng kiểm tra, giúp đỡ việc chuẩn bị bài, hướng dẫn các bạn học yếu trong quá trình làm bài tập, vận dụng lí thuyết vào thực hành. - Xây dựng đôi bạn cùng tiến. 2.3.5. Thường xuyên theo dõi, kiểm tra học sinh yếu kém - Thường xuyên theo dõi ý thức, thái độ học tập của các em phát hiện kịp thời những học sinh có biểu hiện lười học, chán học để có biện pháp giáo dục phù hợp. - Hàng tháng, hàng tuần phải theo dõi sát sao kiến thức mà các em lĩnh hội, nếu đơn vị kiến tức nào học sinh chưa hiểu giáo viên bù lấp và hướng dẫn ngay tránh trường hợp giáo viên buông lỏng việc theo dõi học sinh yếu dể học sinh chồng chất những kiến thức chưa hiểu thì học sinh không thể học những kiến thức mới được. - Thường xuyên tự ra đề để khảo sát học sinh yếu, chấm, chữa tỷ mỷ, chỉ ra lỗi sai và yêu cầu học sinh làm lại khi cần..
<span class='text_page_counter'>(5)</span> 5 bước giải toán: * Thực hiện đúng quy trình giải một bài toán có lời văn và Phương pháp giải bài toán "Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó":. Bước 1: Đọc kỹ đề bài (vì đọc kỹ đề bài học sinh mới tập trung suy nghĩ về ý nghĩa nội dung của bài toán và đặc biệt chú ý đến yêu cầu của bài toán. Bước 2: Phân tích, tóm tắt bài toán ( dùng câu hỏi gợi mở giúp học sinh hiểu: Bài toán cho biết gì? Hỏi gì?) Bước 3: Tìm cách giải bài toán (thiết lập trình tự giải, lựa chọn phép tính thích hợp). Bước 4: Trình bày bài giải (trình bày lời giải (nói - viết) phép tính tương ứng, đáp số, kiểm tra lời giải (giải xong bài toán cần thử lại kết quả đáp số tìm được có trả lời đúng câu hỏi của bài toán, có phù hợp với các điều kiện của bài toán không?), trong một số trường hợp nên thử xem có cách giải khác gọn hơn, hay hơn không 2. Bài toán 1: Minh và Khôi có 25 quyển vở. Số vở của Minh bằng 3 số vở của Khôi. Hỏi mỗi bạn có bao nhiêu quyển vở? Bước 1: Học sinh đọc đề toán.. Bước 2: Phân tích – tóm tắt bài toán.. + Bài toán cho biết gì? (Minh và Khôi có 25 quyển vở, số vở của Minh bằng. 2 3. số vở của Khôi).. + Bài toán hỏi gì? (Bài toán yêu cầu tìm số vở của Minh và số vở của Khôi) + Bài toán thuộc dạng toán gì đã được học? (Bài toán thuộc dạng “Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó”) Bước 3: Tìm cách giải bài toán:. + Trình bày bài giải.. +Dựa vào kế hoạch giải bài toán ở trên mà học sinh sẽ tiến hành giải như sau: Tóm tắt: ? quyển Minh: Khôi:. 25 quyển ? quyển Theo sơ đồ tổng số phần bằng nhau là: 2 + 3 = 5 (phần) Giá trị của một phần là: 25 : 5 = 5 (quyển) Số vở của bạn Minh là: 5 x 2 = 10 (quyển) Số vở của bạn Khôi là: 5 x 3 = 15 (quyển) hoặc: 25 – 10 = 15 (quyển) Đáp số: Minh: 10 quyển vở; Khôi: 15 quyển vở.. Hỏi: Có thể tìm số vở của bạn Khôi bằng cách nào khác? Tổng số vở của hai bạn - số vở của bạn Minh = số vở của bạn Khôi..
<span class='text_page_counter'>(6)</span> [hay 25 - 10 = 15 (quyển)] Thử lại: Là quá trình kiểm tra việc thực hiện phép tính, độ chính xác của quá trình lập luận. 10 : 15 =. 2 3 2. Bài toán 1: Minh và Khôi có 25 quyển vở. Số vở của Minh bằng 3 số vở của Khôi. Hỏi mỗi bạn có bao nhiêu quyển vở? Bước 1: Học sinh đọc đề toán.. Bước 2: Phân tích – tóm tắt bài toán.. + Bài toán cho biết gì? (Minh và Khôi có 25 quyển vở, số vở của Minh bằng. 2 3. số vở của Khôi).. + Bài toán hỏi gì? (Bài toán yêu cầu tìm số vở của Minh và số vở của Khôi) + Bài toán thuộc dạng toán gì đã được học? (Bài toán thuộc dạng “Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó”) Bước 3: Tìm cách giải bài toán: Trình bày bài giải. Dựa vào kế hoạch giải bài toán ở trên mà học sinh sẽ tiến hành giải như sau: Tóm tắt: ? quyển Minh: Khôi:. 25 quyển ? quyển. Theo sơ đồ tổng số phần bằng nhau là:. 2 + 3 = 5 (phần). Giá trị của một phần là:. 25 : 5 = 5 (quyển). Số vở của bạn Minh là:. 5 x 2 = 10 (quyển). Số vở của bạn Khôi là:. 5 x 3 = 15 (quyển). Đáp số: Minh: 10 quyển vở;. hoặc: 25 – 10 = 15 (quyển). Khôi: 15 quyển vở.. Hỏi: Có thể tìm số vở của bạn Khôi bằng cách nào khác? Tổng số vở của hai bạn - số vở của bạn Minh = số vở của bạn Khôi. [hay 25 - 10 = 15 (quyển)] Thử lại: Là quá trình kiểm tra việc thực hiện phép tính, độ chính xác của quá trình lập luận. 10 : 15 =. 2 3. Đọc kỹ đề Toán Trước hết giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh đọc kỹ đề bài, xác định cho được đâu là cái đã cho, đâu là cái phải tìm. Để giải đúng một bài toán, các em cần đọc thật kỹ đề bài. Bởi đã có rất nhiều học sinh giải toán sai, không phải đề toán khó mà nguyên nhân là do học sinh vừa đọc đề xong đã vội vàng bắt tay vào giải ngay. Khi đọc kỹ đề toán cần lưu ý mấy điểm sau: Trong bất kỳ bài toán nào cũng có hai bộ phận: Bộ phận thứ nhất là những điều đã cho; bộ phận thứ hai là cái phải tìm. Bắt buộc phải xác định cho được, cho đúng những cái đã cho, những cái phải tìm trong bài toán..
<span class='text_page_counter'>(7)</span> Hướng dẫn học sinh nắm rõ những gì thuộc về bản chất của đề toán, từ nào chưa hiểu hết ý nghĩa thì phải nắm hiểu ý nghĩa của nó. Hướng dẫn học sinh nắm rõ những gì thuộc về bản chất của đề toán, những gì không thuộc về bản chất đề Toán để hướng sự chú ý vào những chỗ cần thiết. Tóm tắt đề toán Tóm tắt đề toán bằng sơ đồ đoạn thẳng, hình vẽ ngôn ngữ, ký hiệu ngăn gọn. Thông thiêt lập mối quan hệ giữa những cái đã cho và cái phải tìm. Khi tóm tắt bài toán cần gạt bỏ những gì là thứ yếu, lặt vặt trong đề toán và hướng học sinh tập trung suy nghĩ vào những thứ chính yếu của đề toán, tìm cách biểu hiện bằng hình vẽ. Trong trường hợp khó vẽ được những điểm chính ấy thì cần dùng ngôn ngữ, kỹ hiệu ngắn gọn để ghi lại thật vắn tắt, thật cô đọng. Phân tích bài toán để tìm cách giải ở bước này cần hướng dẫn học sinh suy nghĩ xem: Muốn trả lời được câu hỏi của bài toán thì cần phải biết những gì, cần phải làm những phép tính nào? Trong những điều ấy cái gì đã biết, cái gì chưa biết? Muốn tìm cái chưa biết thì chúng ta lại phải biết những cái gì, phải làm tíep phép tính gì? v.v…Cứ như thế ta đi dần kết quả cuối cùng của bài toán. Từ những cách suy luận, phân tích như thế sẽ giúp học sinh tìm ra con đường tính toán của mình. Giải bài toán và thử lại kết quả Dựa vào kết quả phân tích đề toán ở bước 3, xuất phát từ những điều đã cho trong đề toán, giáo viên giúp học sinh lần lượt viết lời giải và thực hiện các phép tính để tìm ra đáp số. Cần chú ý thử lại sau khi làm xong từng phép tính cũng như thử lại đáp số xem có phù hợp với đề toán hay không; cũng cần kiểm tra lại các lời giải của các phép tính xem đã phù hợp, đủ ý và ngắn gọn hay chưa Khai thác bài toán Bước này dành cho học sinh khá, giỏi. Sauk hi giải xong bài toán cần suy nghĩ xem: Còn những cách nào khác để giải bài toán nữa không? Từ bài toán này có thể rút ra những nhận xét, kinh nghiệm gì? Từ bài toán này có thể phát triển, đặt ra các bài toán khác như thế nào? Giải chúng ra sao? Mối quan hệ xuôi ngược là thế nào? v.v... *Sử dụng phương pháp theo 4 bước: Để có thể giải được một bài toán, thường phải tuân theo một đường lối chung gồm bốn bước như sau: -Bước 1: Đọc kĩ đề toán (ít nhất là hai lần), để nắm vững nội dung, ý nghĩa của bài toán: xác định đâu là cái đã cho, đâu là cái phải tìm. Cần hết sức lưu ý tìm hiểu ý nghĩa cho các từ quan trọng trong đề toán. Chớ vội bắt tay vào tính toán khi chưa đọc kĩ đề. -Bước 2: Tóm tắt đề toán bằng sơ đồ, hình vẽ hoặc ngôn ngữ ngắn gọn. Thông qua đó, thiết lập mối quan hệ giữa những cái đã cho và những cái phải tìm. Ví dụ 1: Với bài toán “Lớp em có 46 bạn. Số bạn trai nhiều hơn số bạn gái 6 bạn. Hỏi số bạn trai và số bạn gái của lớp em? Ta có thể tóm tắt như sau: ? Bạn gái: 6 46 bạn Bạn trai: ? Ví dụ 2: Với bài toán “3 thùng mật ong đựng được 27lít. Hỏi có 5 thùng như vậy thì đựng được bao nhiêu lít?”. Ta có thể tóm tắt theo một vài cách như sau: *Cách 1: 3 thùng : 27 lít 5 thùng : ? lít.
<span class='text_page_counter'>(8)</span> Ví dụ 3: Với bài toán “Cứ 13,5m vải thì may được 9 cái áo đồng phục cho học sinh. Biết rằng lớp 5A có 45 học sinh, lớp 5B có ít hơn 5A là 3 học sinh. Hỏi cần phải dùng bao nhiêu mét vải để may áo đồng phục cho cả hai lớp?”, ta có thể tóm tắt như sau: Ví dụ: Với bài toán nêu trong “Ví dụ 3” ở trên, có thể phân tích để tìm cách giải như sau: +Bài toán hỏi gì? (Số mét vải cần dùng cho cả hai lớp) +Muốn tìm số vải đó ta phải làm như thế nào? (Lấy tổng số học sinh của cả hai lớp nhân với số vải để may 1 áo) +Muốn tìm tổng số học sinh của hai lớp ta làm thế nào? (Lấy số học sinh lớp 5A cộng lớp 5B) +Số học sinh lớp 5A biết chưa? (Biết rồi, 45) +Số học sinh lớp 5B biết chưa? (Chưa biết). Có thể tính bằng cách nào? (Lấy học sinh lớp 5A trừ đi 3) +Bấy giờ, muốn tìm số vải để may 1 áo ta làm thế nào? (Lấy số vải đã dùng để may 9 áo chia cho 9; tức là 13,5m : 9) Quá trình phân tích trên thường được lần lượt ghi lại vắn tắt thành sơ đồ như sau: Tổng số vải = Tổng số HS x Số vải để may 1 áo 5A + 5B (Số vải để may 9 áo) : 9 45 5A – 3 13,5m : 9 Đi ngược lại sơ đồ trên (từ dưới lên) ta có trình tự giải bài toán: Đây là phương pháp tổng hợp, giúp học sinh trình bày lời giải của bài toán (1) Tính số học sinh lớp 5B (Số học sinh lớp 5A – 3) (2) Tính tổng số học sinh hai lớp (3) Tính số vải để may 1 áo (13,5m : 9) (4) Tính tổng số vải cần dùng (Kết quả bước 2 nhân với bước 3) -Bước 4: Thực hiện chính xác các phép tính và trình bày bài giải +Thực hiện các phép tính theo trình tự đã được thiết lập để tìm đáp số. Mỗi khi thực hiện phép tính xong cần thử lại xem đã tính đúng chưa. Giải xong, phải thử xem đáp số có phù hợp với các điều kiện của bài toán không? +Trình bày bài giải của bài toán: Ví dụ, với bài toán nêu ở trên, ta trình bày bài giải như sau: Giải: Số vải để may một áo là: 13,5 : 9 = 1,5 (m) Số học sinh lớp 5B là: 45 – 3 = 42 (học sinh) Số học sinh cả hai lớp là: 45 + 42 = 87 (học sinh) Tổng số vải cần dùng là: 1,5 x 87 = 130,5 (m) Đáp số: 130,5m Ví dụ như: Bài 2 trang 21 / SGK: Một gia đình gồm 3 người (bố, mẹ và một con). Bình quân thu nhập hằng tháng là 800000 đồng mỗi người. Nếu gia đình đó có thêm một con nữa mà tổng thu nhập của gia đình không thay đổi thì bình quân thu nhập hằng tháng của mỗi người bị giảm đi bao nhiêu tiền? -Tôi sẽ mời 3 học sinh đứng trước lớp đóng vai bố, mẹ và con. Mỗi bạn cầm 1 tờ phiếu ghi số 800000 đồng, tôi hỏi: +Lúc đầu gia đình có mấy người? (Có 3 người) +Bình quân hằng tháng mỗi người thu nhập được bao nhiêu tiền? (800000 đồng) +Đề bài cho biết có thêm mấy người nữa? (1 người) +Vậy gia đình đó có tất cả mấy người? (4 người); Giáo viên gọi thêm 1 học sinh nữa bước vào nhóm +Đề bài cho biết số tiền thu nhập hằng tháng của mỗi người có tăng thêm không? (không) +Nhiệm vụ của các em sẽ tìm gì? (Số tiền thu nhập hằng tháng của mỗi người sẽ bị giảm đi bao nhiêu?) Từ cách gợi mở như thế, tôi nhận thấy học sinh của tôi vô cùng thích thú khi giải những bài toán có liên quan đến thực tế cuộc sống. *Sử dụng đồ dùng dạy học linh hoạt, sáng tạo: Đây là một yếu tố vô cùng quan trọng. Ngoài những đồ dùng dạy học sẵn có, tôi cùng với đồng nghiệp bàn luận hoặc sưu tầm thêm để gây sự chú ý cho học sinh.
<span class='text_page_counter'>(9)</span> Họ và tên: ………………………. Lớp : 4 …. Thứ ........ ngày ...... tháng... năm 2016 KIỂM TRA ĐỊNH KÌ GIỮA HỌC KÌ II Năm học: 2015- 2016 MÔN TIẾNG VIỆT LỚP 4 ( PHẦN VIẾT). 1. Viết chính tả (nghe viết). Bài Hoa học trò, bài viết (từ Nhưng hoa càng đỏ, ... quên mất màu lá phượng.) trong sách giáo khoa Tiếng Việt 4, tập 2, trang 43. Thời gian viết 15 phút. Hoa học trò.
<span class='text_page_counter'>(10)</span>
<span class='text_page_counter'>(11)</span> 2. Tập làm văn. Thời gian viết 40 phút. Em hãy chọn một trong các đề sau: 1. Tả một cây bóng mát. 2. Tả một cây ăn quả. 3. Tả một cây hoa. Bài làm:.
<span class='text_page_counter'>(12)</span>
<span class='text_page_counter'>(13)</span>
<span class='text_page_counter'>(14)</span> Thứ ........ ngày ...... tháng 3 năm 2016 Tên học sinh: ………………………. KIỂM TRA ĐỊNH KÌ GIỮA HỌC KÌ II Lớp : 4 … Năm học: 2015- 2016 MÔN TIẾNG VIỆT LỚP 4 ( PHẦN ĐỌC) Điểm đọc thành tiếng: .............. Điểm đọc hiểu: ............... Điểm phần đọc: ............... Đọc thầm và làm bài tập: Thời gian 30 phút. Đọc thầm bài Chiếc lá, trong SGK Tiếng Việt 4, tập 2 trang 98. Sau đó khoanh vào chữ cái đặt trước ý trả lời đúng. 1. Trong câu chuyện trên, có những nhân vật nào nói với nhau? a. Chim sâu, bông hoa và chiếc lá b. Chim sâu và chiếc lá c. Chim sâu và bông hoa 2. Vì sao bông hoa biết ơn chiếc lá? a. Vì lá suốt đời chỉ là một chiếc lá bình thường. b. Vì lá đem lại sự sống cho cây. c. Vì lá có lúc biến thành mặt trời. 3. Câu chuyện muốn nói với em điều gì? a. Hãy biết quý trọng những người bình thường. b. Vật bình thường mới đáng quý. c. Lá đóng vai trò rất quan trọng đối với cây. 4. Trong câu “Chim sâu hỏi chiếc lá”, sự vật nào được nhân hóa? a. Chỉ có chiếc lá được nhân hóa. b. Chỉ có chim sâu được nhân hóa. c. Cả chim sâu và chiếc lá đều được nhân hóa. 5. Có thể thay từ nhỏ nhoi trong câu “Suốt đời, tôi chỉ là chiếc lá nhỏ nhoi bình thường” bằng từ nào dưới đây? a. nhỏ nhắn b. nhỏ bé c. nhỏ xinh 6. Trong câu chuyện trên có những loại câu nào em đã học?.
<span class='text_page_counter'>(15)</span> a. Chỉ có câu hỏi, câu kể b. Chỉ có câu kể, câu khiến c. Có cả câu hỏi, câu kể, câu khiến 7. Trong câu chuyện trên có những kiểu câu kể nào? a. Chỉ có kiểu câu Ai làm gì? b. Có hai kiểu câu Ai làm gì?, Ai thế nào? c. Có cả ba kiểu câu Ai làm gì?, Ai thế nào?, Ai là gì? 8. Chủ ngữ trong câu “Cuộc đời tôi rất bình thường” là: a. Tôi b. Cuộc đời tôi c. Rất bình thường. HƯỚNG DẪN CHẤM BÀI KIỂM TRA ĐỊNH KÌ GIỮA HỌC KÌ II Năm học: 2015 -2016 MÔN TIẾNG VIỆT LỚP 4 (bài đọc) 1. Đọc thành tiếng (5 điểm). a. Các bài tập đọc được chọn để tổ chức cho học sinh kiểm tra đọc thành tiếng: 5 điểm (Trong đó đọc bài 4 điểm, trả lời câu hỏi 1 điểm): 1. Đọc đoạn “Phượng không phải là một đóa... xòe ra cho gió đưa đẩy”, hoặc đoạn “Nhưng hoa càng đỏ... bất ngờ vậy?” trong bài Hoa học trò, sách Tiếng Việt 4, tập 2, trang 43. Thời gian đọc khoảng 1 phút 30 giây. 2. Đọc đoạn “Tên chúa tàu cao lớn.... tống anh đi nơi khác”, hoặc đoạn: “Cơn tức giận của tên cướp... im như thóc” trong bài “Khuất phục tên cướp biển” sách Tiếng Việt 4, tập 2, trang 64. Thời gian đọc khoảng 1 phút 30 giây. 3. Đọc đoạn “Mặt trời lên cao dần… quyết tâm chống giữ”, trong bài “Thắng biển” sách Tiếng Việt 4, tập 2, trang 76. Thời gian đọc khoảng 1 phút 30 giây. b. Cách tổ chức: Giáo viên cho học sinh bốc thăm chọn đoạn, bài để đọc. Trả lời 1 câu hỏi trong sách giáo khoa theo nội dung của đoạn, bài mà học sinh vừa đọc. Hình thức nhẹ nhàng, tạo cho học sinh có sự thoải mái, không nặng về tâm lí. c. Cách đánh giá, cho điểm dựa vào những yêu cầu sau: * Đọc đúng ( 2 điểm). Đọc sai 1 tiếng trừ 0,25 điểm. - Ngắt nghỉ hơi đúng dấu câu (0,5 điểm). Cứ mỗi lần ngắt nhịp sai trừ 0,25 điểm. - Giọng đọc bước đầu có biểu cảm (1 điểm). Giọng đọc chưa thể hiện rõ biểu cảm (0,25 điểm). * Tốc độ đọc theo yêu cầu (0,5 điểm). *Trả lời đúng ý câu hỏi do giáo viên nêu : (1 điểm). (Học sinh có thể trả lời bằng các từ ngữ khác nhưng đúng ý câu hỏi thì giáo viên cũng cho điểm tối đa. Trường hợp trả lời chưa đủ ý hoặc diễn đạt chưa rõ ràng: 0,5 điểm; trả lời sai hoặc không trả lời được : 0 điểm). d. Thời gian thực hiện: Thực hiện vào tiết 1,3,5 ôn tập trong tuần 28. Đáp án:.
<span class='text_page_counter'>(16)</span> Đọc thành tiếng (5 điểm). Đọc thầm và làm bài tập (5 điểm). HS khoanh tròn vào chữ cái đặt trước ý trả lời đúng cho các câu hỏi 1,2,3,4 mỗi câu được 0,5 điểm. Khoanh tròn vào chữ cái đặt trước ý trả lời đúng cho các câu hỏi 5,6,7,8 mỗi câu được 0,75 điểm. (Câu 1: a; Câu 2: b; Câu 3: a; Câu 4: c; Câu 5: b; Câu 6: c; Câu 7: c; Câu 8: b). Chú ý: Điểm bài đọc là tổng điểm bài Đọc thành tiếng và Đọc thầm, điểm là một số tự nhiên. Nếu điểm bài Đọc là một số thập phân thì làm tròn 0,5 hoặc 0,75 thành 1. Ví dụ : + 5,25 điểm thì được làm tròn là 5 điểm. + 5,5 điểm hoặc 5,75 điểm thì được làm tròn là 6 điểm. HƯỚNG DẪN CHẤM BÀI KIỂM TRA ĐỊNH KÌ GIỮA HỌC KÌ II Năm học: 2015 -2016 MÔN TIẾNG VIỆT LỚP 4 (bài viết) 1. Chính tả (5 điểm) Giáo viên đánh giá theo yêu cầu sau đây: Bài viết không mắc lỗi chính tả, chữ viết trình bày rõ ràng, trình bày đúng đoạn văn: 5 điểm. Mỗi lỗi chính tả trong bài viết (sai lẫn phụ âm đầu, hoặc vần, thanh; không viết hoa đúng quy định), trừ 0,5 điểm (Những lỗi sai giống nhau chỉ trừ điểm 1 lần). Lưu ý: Nếu chữ viết không rõ ràng, sai về độ cao, khoảng cách, kiểu chữ hoặc trình bày bẩn… bị trừ 1 điểm toàn bài. 2. Tập làm văn (5 điểm). Bài làm đảm bảo các yêu cầu sau: +Viết được bài văn tả một loại cây (hoặc một cây) mà em thích, có đủ 3 phần: Phần mở bài; Phần thân bài;Phần kết bài. Theo yêu cầu của bài văn tả cây cối. + Viết câu đúng ngữ pháp, dùng từ đúng, không mắc lỗi chính tả; + Chữ viết rõ ràng, trình bày bài viết sạch sẽ. +Tuỳ theo mức độ sai sót về ý, về diễn đạt và chữ viết, có thể ghi nhận ở các mức điểm dưới 5 (4,5 – 4 – 3,5 – 3 – 2,5 – 2 – 1,5 – 1 – 0,5). Lưu ý: Điểm bài viết là tổng điểm bài Chính tả và Tập làm văn, điểm là một số tự nhiên. Nếu điểm bài viết là một số thập phân thì làm tròn 0,5 thành 1. Ví dụ : + 5,25 điểm thì được làm tròn là 5 điểm. + 5,5 đến 5,75 thì được làm tròn là 6 điểm Lưu ý: Điểm chung bài Tiếng Việt là tổng điểm bài Đọc cộng với bài Viết chia hai. Điểm là một số tự nhiên. Nếu là một số thập phân thì làm tròn 0,5 thành 1. Ví dụ : + 5,25 điểm thì được làm tròn là 5 điểm. + 5,5 đến 5,75 thì được làm tròn là 6 điểm.. ...HẾT......
<span class='text_page_counter'>(17)</span>